Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Chương Thứ Mười Một

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11682)
11. Chương Thứ Mười Một
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười một

Phân loại Tịnh độ và tính tương quan của thân và độ

Tiết thứ nhất

Lời nói đầu

Thuyết Tịnh độ chư Phật là đặt cơ sở trên giáo nghĩa tịnh cõi nước Phật. Tịnh độ này có lẽ tồn tạithế giới khác là nguyên tắc xưa nay. Lại theo thuyết Phật-đà và Tịnh độ đều là quả thể đáp lại nhân nguyện, trong tam thân luận tất nhiên gọi là báo thân, báo độ. Nhưng ở phương diện khác, đối với sự khảo sát về Thích Tôn tức là sự phát triển của Phật-đà luận. Từ bản thân Thích Tôn mà nói thì có sự sai biệt của sanh thânpháp thân; hoặc ứng thânchân thân. Tiếp đến Phật-đà luận bị ảnh hưởng của Phật Tịnh độ luận thì chân thân của Thích Tôn cũng là Tịnh độ, lẽ ra thuộc về hiện tại, nên phát triển đến các thuyết tâm Tịnh độ tịnh của kinh Duy-ma, Tịnh độ Linh Sơn của kinh Pháp hoa, Thường Tịch Quang độ của kinh Quán Phổ Hiền. Bởi vì lấy Tịnh độ Linh Sơn v.v… để quán sát Ta-bà tức là Tịnh độ nên không gọi là quả thể đáp lại nhân nguyện. Vì thế, tuy cùng tên là Tịnh độ, nhưng đặt nền tảng trên giáo nghĩa tịnh cõi nước Phật, cho nên cõi này hoàn toàn không giống ý nghĩa Tịnh độ của chư Phật ở phương khác. Tức là lấy Tịnh độ có một loại biến hiện mà luận thì mở ra một cục diện mới cho giáo nghĩa Tịnh độ, cũng chính là nói đến bản chất của Tịnh độ.

Đến thời đại ngài Vô Trước thì Phật-đà luận rất được phổ biến, đề xướng thuyết tất cả chư Phật cũng có ba thântự tính (svabhāva), thụ dụng (saṃbhoga) và biến hóa (nirmana). Kế đến, đệ tử của ngài Thế Thân lại có thuyết bốn thân, dựa theo lí do liên quan đến thân và độ. Bốn thân này đều có Tịnh độ làm trụ xứ, đồng thời nhân dân ở mỗi cõi cũng có hạn định. Do đó quyết định phân biệt Tịnh độ của chư Phật có nhiều loại và nhiều cấp.

Tiết thứ 2

Thân độ luận của nhà Duy thức

Luận Nhiếp Đại thừa quyển hạ của ngài Vô Trước ghi: “Đức Phật có ba thân sai biệtTự tính thân, Thọ dụng thânBiến hóa thân”. Pháp thân của chư Phật gọi là Tự tính thân. Tự tính thân là thân nương vào hai hạnh phúc đức và trí tuệsanh khởi, nương vào hai hạnh này mà được Tịnh độ thanh tịnhđại pháp lạc. Thân thọ dụng hai quả này, gọi là Thọ dụng thân. Thân hiện tám tướng thành đạo gọi là Biến hóa thân. Biến hóa thânUế độ, thụ dụng thân tức báo thân trụ ở Tịnh độ thuộc viên tịnh thứ mười tám. Lại nữa, tự tính thân là chỗ y chỉ của hai thân thọ dụngbiến hóa, nhưng chưa nói đến tự tính thân này riêng có quốc độ để cư trú.

Nhưng trong Phật địa kinh luận quyển 1 của ngài Thân Quang ghi: “Trong đó, thọ dụng thân lập ra tự thọ dụng và tha thọ dụng riêng khác. Tự thọ dụng thân thì cư trú ở tự thọ dụng độ, tha thọ dụng thân thì cư trú ở tha thọ dụng độ. Tự thọ dụng độ là cõi của Như Lai tự thọ dụng pháp lạc, thể này cùng khắp pháp giới. Tha thọ dụng độ là cõi của bồ-tát Địa thượng tùy nghi thị hiệncõi trời Tịnh Cư của cõi Sắc; hoặc nói ở Tây phương.v.v…”.

Luận Thành duy thức quyển 10 ghi: “Đức Phật đầy đủ bốn thân, bốn độ. Tự tính thân nương pháp tính độ, tự thọ dụng thân nương tự thọ dụng độ, tha thọ dụng thân nương tha thọ dụng độ, biến hóa thân nương biến hóa độ”. Trong đó thể của tự tính thânpháp tính độ thì không có sai biệt, y cứ vào Phật mà nói là tự tính thân, y cứ vào pháp mà nói là pháp tính độ. Lại theo tướng mà nói là tự tính thân, theo tính mà nói là pháp tính độ. Thân và độ này đều chẳng phải sắc pháp, chẳng nói hình lượng lớn nhỏ, nhưng lại hiện hữu ở khắp mọi nơi, đầy cả hư không.

Tự thọ dụng độđại viên cảnh trí tương ưng với tịnh thức, cõi Phật vô lậu thuần tịnh là do ở trong nhân vị đã tu công đức tự lợi, nhân duyên thuần thục, do lúc mới thành Phật biến hóa tương tục thành ra cõi Phật thuần tịnh. Cõi này cùng khắp, không có ranh giới, dùng các thứ báu để trang nghiêm. Tha thọ dụng độbình đẳng tính trí tương ưng với lực đại từ bi, cõi Phật vô lậu thuần tịnh là nhờ trong nhân vị đã tu công đức tự lợi, nhân duyên thành thục, theo Tịnh độ mà bồ-tát Thập địa hiện ra, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc xấu, hoặc tốt, lần lượt thay đổi không có hạn định. Biến hóa độthành sở tác trí tương ưng với lực đại từ bi, Tịnh độ vô lậuUế độ là nhờ ở nhân vị đã tu công đức lợi tha thành thục, là cõi Phật được biến hóa ra để độ các hữu tình chưa đăng địa, hoặc tịnh, hoặc uế, hoặc lớn, hoặc nhỏ, trước sau thay đổi, không có hạn định. Đây là sự sai khác về bốn thân của Đức Phật.

Độ cũng có bốn độ khác nhau, đều lấy sự tương quan của thân và độ mà bàn luận. Trong đó, pháp tính độ gọi là lí tính của pháp tính chân như, không phải là cõi nước của quả đáp lại nhân; đồng thời làm chỗ nương của tự tính thân, bởi vì thân và độ đồng thể, cho nên chẳng đồng với thân và độ của ba độ kia. Tự thọ dụng độ là tịnh thức vô lậu tương ưng với đại viên cảnh trí trong bốn trí mà Đức Phật đã đắc. Bởi vì, nguyện hạnh tự lợinhân vị thuần thục, biến thành tự thọ dụng pháp lạc, độ này cùng khắp pháp giới không có giới hạn và dùng các thứ báu để trang nghiêm, làm thành cõi Phật thuần tịnh vô lậu, tức là cảnh giới tự nội chứng khi thành Phật bồ-đề. Tịnh độ Linh Sơn trong kinh Pháp hoa, thế giới Liên Hoa Tạng trong kinh Hoa nghiêm có lẽ bao hàm một ý nghĩa này.

Tha thọ dụng độbình đẳng tính trí tương ưng với lực đại từ bi, nguyện hạnh lợi thanhân vị đã thành thục, tức là bồ-tát Sơ địa trở lên thụ dụng pháp lạc, tùy nghi thị hiện Tịnh độ vô lậu thuần tịnh, cõi này tốt đẹp nhưng trước sau biến đổi bất định, tức là có lớn, nhỏ, hơn, kém khác nhau. Biến hóa độthành sở tác trí, do nguyện hạnh lợi thanhân vị thành thục, nên tùy nghi hóa hiện cho bồ-tát Địa tiền, nhị thừaphàm phu. Cõi này không thuần tịnh, do vì có tịnh và có uế; lại có lớn, có nhỏ bất đồng.

Nói tóm lại, tự thọ dụng là cõi tự lợi của chư Phật, là chỗ vi diệu chỉ riêng Đức Phật trụ. Tha thọ dụng độBiến hóa độ là cõi lợi tha, tức là cõi tùy theo căn cơ của chúng sanhthị hiện. Tha thọ dụng độ là cõi thị hiện cho hàng bồ-tát Sơ địa trở lên. Thuyết này là kế thừa tư tưởng của luận Du-già.

Trong luận Du-già-sư-địa quyển 79 ghi: “Thế giới thanh tịnh chỉ thuần bồ-tát tăng cư trú. Bồ-tát đã nhập địa thứ nhất (tức Sơ hoan hỉ địa), nhờ nguyện lực tự tại nên thọ sanh về cõi ấy, không có dị sanhthanh văn, độc giác phi dị sanh, hoặc bồ-tát dị sanh được sanh về cõi ấy”.

Lại nữa, Nhiếp Đại thừa luận thích quyển 14 của ngài Thế Thân ghi: “Trong Tịnh độ có tám điều không thể có được và hai điều có thể có được, cho nên gọi là rất thanh tịnh vi diệu. Tám điều không thể có được là: một, ngoại đạo; hai, có chúng sanh khổ; ba, các dòng họ giàu sang sai khác; bốn, người ác hạnh; năm, kẻ phá giới; sáu, ác đạo; bảy, nhị thừa; tám, các bồ-tát hạ hạnh hạ ý[1]. Hai điều có thể có được là: một, các bồ-tát có ý và hạnh thuộc phẩm vị tối thượng; hai, các Đức Như Lai”. (Đại Chính, 31, 262, thượng).

Tịnh độ này là chỗ cư trú của Như Lai và bồ-tát Sơ địa trở lên, cùng với ý nghĩa tha thọ dụng độnhất trí. Lại trong luận Vãng sanh của ngài Thế Thân ghi: “Cõi thiện căn của Đại thừa đều không có danh từ cơ hiềm, không có người nữ và người khuyết tật, người chủng tính nhị thừa không sanh”. Điều này cùng một ý nghĩa.

Như thế, Tịnh độ chỉ là trụ xứ riêng của hàng bồ-tát Sơ địa trở lên; còn bồ-tát Địa tiền, nhị thừaphàm phu thì không được sanh về Tịnh độ này. Như vậy, trái với lời trong kinh đã nói. Nếu như biến hóa độ thông cả hai độ Tịnh và Uế thì các bồ-tát Địa tiền được sanh về Tịnh độ biến hóa. Nhưng biến hóa độ là do cõi Đức Phật theo căn cơ của chúng sanh mà biến hiện nhất thời không có tính lâu dài. Cuối quyển 7, Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương của ngài Khuy Cơ, đời Đường giải thích về Biến hóa độ: “Đức Phật theo căn cơ của hữu tình chưa đăng địabiến hóa ra cõi Phật, hoặc tịnh, hoặc uế, giống như cõi Tịnh của bồ-tát Di-lặc, cõi Uế của Phật Thích-ca. Lúc Đức Phật Thích-ca ở trong cõi này nói Kinh Vô cấu (kinh Duy-ma), Đức Phật chưa ấn ngón chân xuống đất thì hiện tiền uế chứ chẳng phải tịnh; sau đó, Ngài ấn ngón chân xuống đất tạm thời thấy là tịnh. Lúc Đức Phật nói kinh Pháp hoa, Đức Phật trong mười phương vân tập thì tịnh mà chẳng uế, trước khi các Đức Phật chưa vân tập thì uế chứ chẳng phải tịnh (Đại Chính 45, 370, hạ). Nói Tịnh độ biến hóa là tạm biến hóa. Đây là cách phân loại Tịnh độ do các nhà Pháp tướng duy thức lập ra.

Nếu theo thuyết Tịnh độ Di-đà thì cõi đó có vô số thanh văn; đồng thời, phàm phu cũng được sanh về cõi ấy, nhất định gọi là biến hóa độ. Nhưng Tịnh độ Di-đà chẳng phải tạm biến hóa nhất thời mà có tính lâu dài, cho nên nói là không giống với biến hoá độ ở đây. Vả lại, cõi ấy là do nguyện hạnh lợi tha của Đức Phậtnhân vị thành thục, sau đó cảm thành, đương nhiên phải gọi là tha thụ dụng độ.

Phật địa kinh luận quyển 1 ghi: “Tha thọ dụng độ ở Tây phương”. Do đó, đủ thấy Tịnh độ Di-đà là tha thọ dụng độ. Nhưng tha thọ dụng độ này hàng nhị thừa, phàm phu không được cư trú. Vì hội thông sự mâu thuẫn do nghiên cứu mà sanh ra thuyết biệt thời ý. Trong kinh nói thuyết biệt thời ý: “Phàm phu vãng sanh Tịnh độ không phải ở đời kế tiếp” mà nói là vào vị lai rất xa. Vì thế, tịnh nghiệp của mười niệm kia trở thành nhân vãng sanh. Từ đầu đến cuối, phủ nhận phàm phunhị thừa có thể cư trú mà thành lập thuyết tha thọ dụng độ, tiến tới mà nói thì thành tha thọ dụng độ, trái với kinh nói. Lùi lại mà nói thì thành biến hóa độ, nhưng độ này chẳng phải biến hiện nhất thời; thật là tiến thoái lưỡng nan. Cho nên, các nhà Duy thức phân loại Tịnh độ vẫn chưa đạt đến chỗ hoàn chỉnh.

Tiết thứ 3

Thuyết bốn độ của Pháp Thường, Trí Nghiễm…

Từ đời Tùy ở Trung Quốc trở về sau, các thuyết có liên quan đến việc phân loại Tịnh độ không ngừng phát biểu, quan niệm về Tịnh độ được đặc biệt phát huy. Các ngài ở đời Đường, như Pháp Thường, Trí Nghiễm, Đạo Tuyên, Đạo Thế.v.v…căn cứ thuyết mười tám viên tịnh trong luận Nhiếp Đại thừa đề xướng Tịnh độ có bốn tướng sai biệt: Pháp tính tịnh độ, Thật báo tịnh độ, Sự tịnh độ và Hóa tịnh độ. Trong Thập chủng tịnh độ chương, Hoa nghiêm khổng mục chương quyển 1 ghi: “Theo nghĩa ba thừa thì có bốn loại Tịnh độ:

1. Hóa tịnh độ: Tịnh độ được hoá hiện ở các phương.

2. Sự tịnh độ: Tịnh độ ở các phương đều được làm thành bằng các thứ báu.

3. Thật báo tịnh độ: Từ các loại lý hành mà tạo thành, vì lấy ba không[2] làm cửa, lấy các độ[3] làm con đường qua lại.

4. Pháp tính tịnh độ: Tức lấy chân như làm thể.

Pháp uyển châu lâm quyển 15 của ngài Đạo Thế giải thích rất tỉ mỉ: “Pháp tính độ lấy chân như làm thể. Nhiếp luận, đời Lương, lấy Liên Hoa vương dụ pháp giới chân như. Nói Tịnh độ lấy pháp giới chân như làm thể sở y, tức là chỉ cho Tịnh độ này. Thật báo độ theo Nhiếp luận lấy ba không của làm cửa; lấy ba tuệ làm con đường qua lại; lấy Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na làm xe; lấy căn bản vô phân biệt trí làm dụng, tức là chỉ cho độ này. Đây đều là căn cứ vào sự báo đáp công đức để nói về thể của Thật báo độ.

Sự tịnh độ là độ làm bằng bảy báu thượng diệu, lấy năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc làm tướng, cho nên Nhiếp luận nói: “Trụ xứ của Đức Phật bằng bảy báu, ánh sáng chiếu cùng khắp”. Kinh Hoa nghiêm ghi: “Cảnh giới tướng của chư Phật có nhiều loại báu trang nghiêm xen kẽ”. Tịnh độ luận ghi: “Đủ các tính trân bảo, đầy đủ sự trang nghiêm tốt đẹp”. Lại nữa, Tân dịch bồ-tát tạng kinh ghi: “Giả như thế giới trên đây bị lửa đốt cháy sạch hết, nhưng Như Lai vẫn ở trong đó, hoặc đi kinh hành, hoặc đứng, ngồi, nằm. Nơi đó tự nhiên xuất hiện nước tám công đức”. Những điều này đều nói tướng trang nghiêm của độ này.

Hóa tịnh độ là cõi nước do Đức Phật biến hóa ra lấy bảy báu, năm trần làm thể cõi này. Kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật dùng thần lực làm cho đất mềm mại và không có gò nổng, đất cát, đá sỏi, giống như thế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương”. Lại nữa, luận Đại trang nghiêm ghi: “Nhờ trí tự tại, theo ý muốn của Phật nên có thể hiện thế giới thanh tịnh được làm bằng thứ thủy tinh, lưu ly…”. Kinh Duy-ma ghi: “Đức Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, hiện ra những thứ thanh tịnh”, đều nói biến hóa Tịnh độ. Tức là Đức Phật có hiện thần lực, cõi nước do thần lực biến hóa ra đều quy về Biến hóa độ”.

Ngài Đạo Thế lấy Tịnh độ hiện ra nhất thời làm Hóa tịnh độ; lấy Tịnh độ bằng bảy báu trang nghiêm thượng diệu làm Sự tịnh độ; vì lấy Tịnh độ do ba không, ba tuệ và lí hạnh tạo thành làm Thật báo độ; lấy lí tính chân như pháp giới làm Pháp tính độ. Trong đó, ba độ phối hợp với mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa thì Sắc tướng viên tịnh phối hợp với Sự tịnh độ; Lộ viên tịnh, Thừa viên tịnh và Môn viên tịnh phối hợp với Thật báo độ. Y chỉ viên tịnh phối hợp với Pháp tính độ. Các ngài đem Thọ dụng độ chia ra, lập riêng thành ba độ.

Duy-ma kinh sớ Am-la kí quyển 7 của ngài Ngưng Nhiên ghi: “Đại sư Nam Sơn (tức Đạo Tuyên) dùng hai môn khai và hợp để kiến lập tướng trạng của Tịnh độUế độ.

Dùng khai để kiến lập bốn loại Tịnh độ:

1. Pháp tính tịnh độ là chỗ cư trú của pháp thân.

2. Thật báo độ là chỗ cư trú của tự thụ dụng thân.

3. Sự tịnh độ là chỗ cư trú của tha thọ dụng thân.

4. Hóa tịnh độ là chỗ cư trú của hóa thân.

Dùng hợp để kiến lập thì tuy lập bốn Tịnh độ, nhưng cương yếu chung không ngoài hai độ:

1. Báo độ là chỗ cư trú của pháp thân, tự thọ dụng thântha thọ dụng thân.

2. Hóa độ là chỗ cư trú của hóa thân Phật.

Cho đến trong Pháp uyển châu lâm quyển 15 của pháp sư Huyền Uẩn (tức ngài Đạo Thế) lập bốn Tịnh độ, lại lập cương yếu về hai độ, hoàn toàn giống với thuyết khai, hợp của ngài Nam Sơn dùng để kiến lập Phật độ.

Tông Nhiếp Luận của ngài Pháp Thường kiến lập bốn Tịnh độ. Đại sư Trí Nghiễm ở chùa Chí Tướng, tổ sư tông Hoa Nghiêm cũng kiến lập bốn thứ Tịnh độ. Ngài Trí Nghiễm vốn kế thừa ngài Pháp Thường, theo học tông Nhiếp Luận nói bốn thứ Tịnh độ. Thầy, trò nổi tiếng, kiến lập hoàn toàn giống nhau.

Ngài Nam Sơn, Huyền Uẩn nói về tướng trạng của bốn loại Tịnh độ, cũng hoàn toàn giống với nghĩa ngài Pháp Thường đã lập. Theo thuyết bốn loại Tịnh độ này thì có thể biết người đề xướng chính là ngài Pháp Thường ở chùa Phổ Quang thuộc tông Nhiếp Luận. Về sau, các ngài Trí Nghiễm, Đạo Tuyên, Đạo Thế…đều kế thừa thuyết của ngài Pháp Thường. Trong đó, ngài Đạo Tuyên đặc biệt kiến lập hai nghĩa khai, hợp.

Lại theo thuyết thụ dụng độ thuộc mười tám viên tịnh trong luận Nhiếp Đại thừa, rõ ràng là có chia ra ba độ Pháp tính, Thật báo, Sự tịnh; tức là trong ba độ này cũng có ý nghĩa của Thọ dụng độ. Nhưng hiện nay trong văn phối hợp Pháp tính độ là chỗ cư trú của pháp thân, Thật báo độ là chỗ cư trú của tự thọ dụng thân, Sự tịnh độ là chỗ cư trú của tha thụ dụng thân. Có lẽ, đây là chủ trương mới của các ngài Đạo Tuyên…Vì sao? Vì ngài Pháp Thường viên tịch vào năm Trinh Quán, thứ 19, đời Đường (645), nghĩa là ngài còn chưa thấy các luận Phật địa kinh luận, luận Thành duy thức bản tân dịch của ngài Huyền Trang.

Tiết thứ 4

Tam độ luận của ngài Ca Tài

Luận Tịnh độ quyển thượng của ngài Ca Tài, đời Đường ghi: “Tịnh độ có ba loại là Pháp thân tịnh độ, Báo thân tịnh độHóa thân tịnh độ”. Trước tiên nói Pháp thân tịnh độ là nhân và độ đồng thể. Tức là Khởi tín luận lấy nghĩa chân như thể đại làm thể của độ ấy; lấy nghĩa tướng đại, dụng đại lấy người năng trụ là thể.

Kế đến, Báo thân tịnh độ có hai loại là Thật báo độ và Sự dụng độ. Thật báo độ cũng là nhân và độ đồng thể, tức là ban đầu lấy tu vạn đức làm thể của quốc độ, hết thảy vạn đức làm người năng trụ. Cõi này thuộc về cảnh giới của Đức Phật, cho dù bồ-tát Kim cang tâm cũng không thể biết được. Luận Nhiếp Đại thừa lấy đại không, vô tướng làm cửa, ba tuệ làm đường, tức là nói độ này.

Sự dụng độ là nhân và độ khác thể, tức là lấy thế giới Liên Hoa Tạng Pha-lê-kha làm thể của quốc độ ấy. Người năng trụ lấy đại định, đại bi, diệu sắc, tướng hảo…làm tự thể. Nhân và độ này là bồ-tát Sơ địa trở lên thấy tuỳ theo giai vị nên có thô, diệu không đồng. Luận Nhiếp Đại thừa nói: “Nếu lìa ứng thân (tức báo thân, còn gọi thọ dụng thân) là tư lương bồ-đề của bồ-tát Sơ địa trở lên thì có lẽ chưa đầy đủ”, tức là chỉ nghĩa này.

Kế đến, Hóa thân tịnh độ cũng có hai loại là ‘thường tùy hóa’ và ‘đang không mà bỗng hiện ra có’. ‘Thường tùy hóa’ là công đức làm lợi tha ba đại a-tăng-kì kiếp đã thành tựu. Thân và độ thường hiện ở cõi này và cõi khác. Hoá thân của ‘đang không mà bỗng hiện ra có’ tức là nương vào hóa thân này (tức như Đức Phật Thích-ca) liền khởi phân thân. Như thế giới Diệu Thiện của Đức Phật A-súc là Tịnh độ thường tùy hóa. Đức Phật Thích-ca ấn ngón chân xuống đất trong kinh Duy-mahóa độ ‘đang không mà bỗng hiện ra có’. Cõi này chỉ có bồ-tát Địa tiền, nhị thừaphàm phu thấy được.

Ở đây nói căn cứ vào ba thân mà lập ba độ sai khác. Nhưng phân biệt báo thân độ thành hai loại là Thật báo và Sự dụng, nói chung là có bốn độ. Do đó, mà bất đồng với những điều ngài Pháp Thường đã nói ở trên.

Nhưng ngài Ca Tài chia Hóa thân tịnh độ thành hai loại thường tùy hóa và ‘đang không mà bỗng hiện ra có’ lại là nghĩa mới của ngài để bổ túc cho thuyết của ngài Pháp Thường. Như văn trên đã nói, Biến hóa độ là cõi biến hiện nhất thời, chỉ hạn định là chỗ cư trú của nhị thừaphàm phu. Biến hiện nhất thời này là tránh sự nhầm lẫn với Tịnh độ A-súc và Tịnh độ Di-đà. Vì thế, ngoài loại ‘Tịnh độ đang không mà bỗng hiện ra có’ là biến hiện tạm thời, còn có loại Tịnh độ ‘thường tuỳ hoá’ là lập riêng thời gian dài, thuộc về Tịnh độ Di-đà và Tịnh độ A-súc.

Du-già luận kí quyển 41 của ngài Độn Luân, người nước Tân La nói: “Có người nói biến hóa Tịnh độ có xứ sở riêng, như chín phẩm vãng sanh của nước Cực Lạc. Có người lại nói xứ sở riêng, như Đức Phật ấn ngón chân xuống đất trong kinh Duy-ma”. Lại trước đây dẫn Duy-ma kinh sớ Am-la kí quyển 7 ghi: “Kiến lập hóa độ là không lập riêng ở một nơi nào, đối với báo độ ở trên thì sanh khởi tướng thô. Trong hoá độ nhờ tâm tịnh mà cảm ứng Tịnh độ, tâm uế thì chiêu cảm Uế độ”. Cho nên nói hoá độ tịnh, uế là quốc độ của thời gian dài. Tịnh độ trong bốn loại Tịnh độ ở đoạn văn trước nói biến hiện tạm thời là nói có loại Tịnh độ này. Nói theo hoá độ thì có hai loại là thời gian dài và tạm biến hoá. Nếu nói Tịnh độliên quan đến xứ sở khác hay không thì điều này trở thành tiêu điểm cho các ngài tranh luận, nhưng ngài Ca Tài thì lấy thuyết thời gian dài và xứ sở riêng.

Tiết thứ 5

Tứ độ luận của ngài Nguyên Hiểu

Trong hai quyển Vô Lượng Thọ kinh tông yếuDu tâm an lạc đạo của ngài Nguyên Hiểu, người nước Tân La cũng dùng bốn độ của ngài Pháp Thường lấy bốn phạm trù đối nhau: Nhân, quả đối nhau; Nhất hướng, bất nhất hướng đối nhau; Thuần, tạp đối nhau; Chính định, phi định đối nhau, để trình bày về sự cao thấp của bốn độ này:

1. Nhân, quả đối nhau: Lấy Đức Phật ở trên quả vị và bồ-tát ở nhân vị đối nhau để phân biệt cõi tịnhbất tịnh. Tức là chỉ có chỗ cư trú của Đức Phật mới được gọi là Tịnh độ. Trụ xứ của bồ-tát Kim cang tâm trở xuống thì gọi là quả báo độ, nay theo ý trong kinh Nhân vương bát-nhã nói: “Tam hiền thập thánh[4]trụ quả báo, chỉ có mình Phật ở Tịnh độ”. Tức là đối với bồ-tát thì chưa xa lìa tai hoạ của quả thuộc khổ đế, còn Đức Phật thì đã diệt trừ sạch tai hoạ của ô nhiễm.

2. Nhất hướng, bất nhất hướng đối nhau: Lấy trụ xứ của bồ-tát Bát địa trở lên và trụ xứ của bồ-tát Thất địa trở xuống để luận bàn tịnh, bất tịnh đối nhau, tức là trụ xứ của bồ-tát Bát địa trở lên, nhất hướng ra khỏi ba cõi, lại đầy đủ bốn nghĩa: nhất hướng lạc, nhất hướng tịnh, nhất hướng vô thất, nhất hướng tự tại; cho nên gọi là Tịnh độ. Trụ xứ của bồ-tát Thất địa trở xuống, nhất hướng chưa ra khỏi ba cõi, lại chưa đầy đủ bốn nghĩa nhất hướng; cho nên không gọi Tịnh độ. Nay theo mười tám viên tịnh trong luận Nhiếp Đại thừa lấy thụ dụng độ làm công năng sanh ra pháp xuất xuất thế thiện; từ Bát địa trở lên cho đến Phật địa mới được gọi là xuất xuất thế thiện.

3. Thuần, tạp đối nhau: Trụ xứ của bồ-tát Sơ địa trở lên và trụ xứ tạp cư của phàm phu, nhị thừa đối nhau. Cõi nước cư trú của bồ-tát được gọi là thuần Tịnh độ; chỗ tạp cư của phàm phu, nhị thừa bị gọi là bất tịnh. Ở đây, theo luận Du-già ghi: “Trong thế giới thanh tịnh chỉ thuần là chúng bồ-tát cư trú, bồ-tát đã nhập địa thứ nhất (tức Sơ địa), do nguyện lực của bồ-tát ấy mà thụ sanh về cõi kia. Hàng phàm phu dị sanh, thanh vănđộc giác phi dị sanh, bồ-tát dị sanh cũng được sanh về cõi kia”.

4. Chính định, phi định đối nhau: Trụ xứ của chúng sanh chính định tụ và trụ xứ của chúng sanh phi chính định tụ đối nhau. Trụ xứ của hạng chúng sanh chính định tụ được gọi là Tịnh độ, trụ xứ của chúng sanh phi chính định tụ gọi là uế độ. Nay theo kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Người sanh về cõi nước kia đều trụ chính định tụ, không có tà định tụbất định tụ”. Tức là chỉ Tịnh độ Di-đà được gọi là Tịnh độ chính định tụ, cho rằng trong cõi nước này có bồ-tát Địa tiền, bốn quả thanh văn, cho đến phàm phu còn bốn điều nghi đều cư trú Tịnh độ này.

Bởi vì, bốn phạm trù đối nhau này là đối với nghĩa của bốn độ, tức là pháp tính độ v.v…mà nói nhân, quả đối nhau, chỉ có Đức Phật cư trú pháp tính độ của Tịnh độ, mới được gọi là Tịnh độ. Nhất hướng tịnh độ của nhất hướng, bất nhất hướng đối nhau là Thật báo độ. Thuần tịnh độ của thuần, tạp đối nhau là trụ xứ của bồ-tát làm thọ dụng độ. Chính định Tịnh độ của chính định tụ, phi chính định tụ đối nhau là nghĩa Biến hoá độ. Nếu đem nghĩa của Biến hoá độ này đối chiếu với thuyết thân và độ của ngài Đạo Tuyên chủ trương thì thấy Pháp tính độpháp thân, Thật báo độ là tự thọ dụng thân, Sự tịnh độtha thọ dụng thân. Nay ngài Nguyên Hiểu nói Pháp tính độ là trú xứ của Đức Phật, không phân chia pháp thântự thụ dụng thân. Lại nữa, Thật báo độBát địa trở lên, thọ dụng độ là trụ xứ của bồ-tát Sơ địa cho đến bồ-tát Thất địa; đây là quan điểm bất đồng của hai nhà khi giải thích về Tha thọ dụng độ.

 

Tiết thứ 6

Thân độ luận của các ngài Huệ Viễn, Trí Khải

Những điều các ngài đã nói trên đây, đại khái đều căn cứ vào luận điểm phân loại hệ thống Tịnh độ của luận Nhiếp Đại thừa. Ngoài ra, các nhà ở Trung Quốc còn tham khảo qua kinh Nhân vương bát-nhã luận Đại trí độ v.vđể phân loại cũng chẳng ít, đó là các ngài Huệ Viễn, Trí Khải, Cát Tạng ở đời Tuỳ.

Trong Đại thừa nghĩa chương quyển 19 của ngài Huệ Viễn biên soạn, luận bàn tỉ mỉ về nghĩa của Tịnh độ. Nói chung Tịnh độ có ba loại sai khác là Sự tịnh, Tướng tịnh và Chân tịnh. Cõi của hàng phàm phu cư trú là Sự tịnh độ. Cõi của hàng nhị thừa và các bồ-tát tam hiền cư trú là Tướng tịnh độ. Cõi của bồ-tát Sơ địa trở lên cho đến chư Phật cư trú gọi là Chân tịnh độ. Trong Sự tịnh độ lại nêu ra có hai loại là Dục giới, Sắc giới của chư thiênthế giới Cực Lạc của Di-đà. Trong Tướng tịnh độ lại nêu ra hai loại là Tịnh độ do người nhị thừa tu thiện căn tự lợi mà được và Tịnh độ do các bồ-tát tam hiền tu thiện căn giáo hoá người khác mà được. Phần trước ngài Long Thọ nói: “Như cõi nước vi diệu ra khỏi ba cõi”. Phần sau, như trượng thất của ngài Duy-ma. Trong chân tịnh cũng có sai biệt, chân độ li vọng là chỗ cư trú của bồ-tát Địa thượngchân độ thuần tịnh là chỗ cư trú của chư Phật. Lại trong chân độ thuần tịnh nói có hai độ chân và ứng, khác với ba độ Pháp tính, Thật báo và Viên ứng. (muốn biết rõ thì xem Lịch sử giáo lí tịnh độ Trung Quốc).

Trong Duy-ma kinh lược sớ quyển 1 và Quán Vô Lượng Thọ sớ của ngài Trí Khải nói: “Tịnh độ có bốn loại sai biệtPhàm thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độ, Thường tịch quang độ”. Phàm thánh đồng cư độ là cõi phần đoạn ở trong ba cõi, phàm phuthánh nhân ở chung như thế giới Tây phương Cực Lạc. Phương tiện hữu dư độ là chỗ cư trú của a-la-hán, bích-chi-phật và bồ-tát Địa tiền, tức là cõi biến dịch ra khỏi ba cõi. Thật báo vô chướng ngại độ là chỗ cư trú của pháp thân bồ-tát từ Sơ địa trở lên, tức là Thọ dụng độ ở ngoài ba cõi. Thường tịch quang độ là xứ sở du cư của chư Phật Như Lai, tức là chỉ cảnh giới trí tuệ cùng tột của đấng Diệu Giác chiếu soi ba đức bí tàng; lại nữa, Như Lai vào trong các cõi này để giáo hoá chúng sanh. Nếu nói theo nghĩa này thì hai độ Đồng cư và Phương tiện là chỗ cư trú của ứng Phật, Thật báo độ là chỗ cư trú của báo Phật, Tịch quang độ là chỗ cư trú của pháp thân Phật.

Lại nữa, Đại thừa huyền luận quyển 5 của ngài Cát Tạng đã nói cũng đồng với ngài Trí Khải, đó là bốn độ: Phàm thánh đồng cư độ, Đại tiểu đồng trụ độ, Độc bồ-tát sở trụ độ, Chư Phật độc cư độ. Trong đó, Sự tịnh độ của ngài Huệ Viễn chỉ cho cõi cư trú của phàm phu, nhưng cũng đem Tịnh độ Di-đà đặt vào đây thì có thể thấy là đồng một ý với Phàm thánh đồng cư độ của ngài Trí Khải.

Tướng tịnh độ của ngài Huệ Viễn là cõi do thiện căn tự lợi của nhị thừa mà được, tức chỉ cho Tịnh độ ra khỏi ba cõi của hàng nhị thừa thú tịch; đây cũng là cùng một ý với Phương tiện hữu dư độ của ngài Trí Khải và Đại tiểu đồng trụ độ của ngài Cát Tạng. Nhưng ngài Trí Khải nói đó là cõi bồ-tát Địa tiền cư trú.

Ngài Cát Tạng y cứ vào nghĩa của kinh Thắng Man nói chỗ cư trú của a-la-hán, bích-chi-phật và bồ-tát Đại lực có khác nhau. Trong chân Tịnh độ của ngài Huệ Viễn nói li vọng độ là chỗ cư trú của bồ-tát từ Sơ địa trở lên; điều này tương đương với Chân báo độ của ngài Trí Khải. Nhưng ngài Cát Tạng nói cõi này chỉ có hàng bồ-tát cư trú.

Thuần tịnh độ của ngài Huệ Viễn chỉ có Đức Phật cư trú; do đó, tương đương với Thường tịch quang độ của ngài Trí Khải. Nhưng ngài Cát Tạng lại gọi cõi này là Chư Phật độc cư độ; cho nên, thuyết của ba ngài cơ bản giống nhau, có lẽ trong đó hai bên có quan hệ với nhau.

Thuần tịnh độ của ngài Huệ Viễn, Tịch quang độ của ngài Trí Khải và Chư Phật độc cư độ của ngài Cát Tạng, văn trước nói trong Phật địa luận gọi là Tự thọ dụng độ. Li vọng độ của ngài Huệ Viễn, Thật báo độ của ngài Trí Khải, Bồ-tát độc cư độ của ngài Cát Tạng tương đương với Tha thọ dụng độ.

Lại nữa, Sự tịnh độ của ngài Huệ Viễn, Phàm thánh đồng cư độ của ngài Trí Khải tương đương với Biến hoá độ. Nhưng nay không gọi Biến hoá độ mà gọi Phàm thánh đồng cư độ là chỗ cư trú của ứng Phật, mà chỉ Tịnh độ Di-đà là hoá thân, hoá độ; thì thực là nói không thoả đáng.

Ngoài ba độ này ra, ngài Trí Khải còn lập riêng cõi thú tịch của nhị thừa ra khỏi ba cõiPhương tiện hữu dư độ của biến dịch. Theo kinh Niết-bàn nói: “Bởi vì tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật”. Nhưng luận Nhiếp Đại thừaluận Duy thức đều không nói đến loại Tịnh độ này, vì không chấp nhận định tính nhị thừa chuyển từ Tiểu thừa qua Đại thừa. Theo đây, có thể biết thuyết của ngài Huệ Viễn khác với thuyết bốn độ của phái Nhiếp luận.

 

Tiết thứ 7

Thuyết duy tâm Tịnh độ của Thiền tông

Văn trước, đối với việc phân loại Tịnh độ các sư gia có rất nhiều thuyết. Nói chung thì Tịnh độ thật ra có giới nội[5] và giới ngoại[6] khác nhau. Nhưng từ đời Đường trở về sau, Thiền tông đề xướng thuyết duy tâm Tịnh độ, Tịnh độ không lìa tự tâmtồn tại, họ phủ nhận thuyết thật có Tịnh độ.

Lược chư kinh luận niệm Phật pháp môn vãng sanh Tịnh độ tập quyển thượng của ngài Huệ Nhật, đời Đường ghi: “Có một hạng nam nữ đạo tục không tin Tịnh độ Di-đà, chỉ lấy tâm tịnh; ngay nơi đây chính là Tịnh độ Tây phương, Tịnh độ không phải ở nơi nào khác”. Lại nữa, Pháp bảo đàn kinh của Lục Tổ Huệ Năng nói: “Thế Tôn ở thành Xá-vệ nói kinh văn dẫn hoá Tây phương, rõ ràng cách đây không xa; nếu luận bàn về số dặm thì có mười vạn tám nghìn, tức là có mười ác, tám tà trong thân mà là nói xa; nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì bậc thượng trí. Người có hai hạng, pháp có hai loại, mê ngộ khác nhau, thấy có chậm mau. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh về nước Cực Lạc, người ngộ tự tịnh tâm mình; cho nên, Đức Phật dạy: “Theo tâm mình tịnh thì cõi nước tịnh”. Phàm phu ngu si không liễu ngộ tự tính, không biết Tịnh độ trong thân, nguyện đông nguyện tây, người ngộ thì Tịnh độ ở ngay tại chỗ. Vì thế, Đức Phật dạy: ‘Theo chỗ cư trú mà thường an lạc’. Chỉ cần tâm ông khởi thiện thì Tây phương cách đây không xa, nếu tâm khởi bất thiện thì dù niệm Phật cũng khó đến. Nay tôi khuyên thiện tri thức, trước trừ mười điều ác tức là đi vạn dặm; sau đó, trừ bỏ tám tà là vượt qua tám nghìn. Niệm niệm thấy tính, thường hành chân thật ngay thẳng, đến nhanh như khảy ngón tay, liền thấy Di-đà”. Tức là Lục Tổ chủ trương Tịnh độ không có thật. (Đại Chính, 48, 352, thượng).

Nay theo kinh Duy-ma nói: “Theo tâm mình tịnh thì cõi nước tịnh”. Nếu tâm mình tịnh thì ngay nơi cõi này là Tịnh độ, nếu người cầu về Tây phương Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức là việc làm của kẻ mê. Thuyết này chỉ lừa dối hàng phàm phu mê muội, là thuyết phương tiện hư vọng mà thôi.

 

Tiết thứ 8

Thuyết duy tâm Tịnh độ của ngài Trí Lễ

Lại nữa, ngài Trí Lễ, đời Tống căn cứ vào Ma-ha chỉ quán của ngài Thiên Thai nói: “Tâm ta vốn đủ Tịnh độ Tây phương”, còn nói: “Duy tâm Tịnh độ, bản tính Di-đà”. Quán kinh sớ diệu tông sao quyển 1 của ngài Trí Lễ ghi: “Tâm tính cùng khắp, tạo tất cả pháp, đầy đủ các pháp; nếu có một pháp nào sanh ra ngoài tâm thì không gọi là quán Đại thừa”. (Đại Chính, 37, 195, trung).

Lại nữa, trong Tịnh độ hoặc vấn của ngài Duy Tắc, đời Nguyên ghi: “Cõi nước nhiều như bụi nhỏ ở khắp mười phương là cõi nước trong tâm ta. Ba đời chư Phật nhiều như số cát sông Hằng là Phật trong tâm ta; biết như thế thì không một cõi nào mà không nương vào tâm ta mà kiến lập, không một Đức Phật nào mà không từ tính của ta mà hiển hiện. Như thế, Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức chẳng phải là duy tâm Tịnh độ hay sao?” (Đại Chính, 47, 294, hạ). Các ngài đã nói lìa tâm tính của chúng sanh thì không có sự tồn tại của Di-đà và Tịnh độ.

Quán kinh nghĩa sớ quyển thượng của ngài Nguyên Chiếu, đời Tống phê bình thuyết của Thiền tông đã nói ở tiết 7: “Người hậu học ngày nay chưa đạt duy tâm, chỉ nhận một chút tính linh cho là Tịnh độ, tự nói tâm tịnh độ tịnh, không cần cầu Tịnh độ khác, Phật tức tâm ta, cần gì cầu Phật khác? Họ cho rằng Phật Di-đà là vật bên ngoài, chê Cực Lạc là cõi khác” (Đại Chính, 37, 280, trung).

Cũng trong bản sớ này, noi theo thuyết của tông Thiên Thai, nói: “Thân và độ tịnh uế đều là tự tâm của chúng sanh, chỉ do tâm thể hư dung nên vãng sanh không có chướng ngại; chỉ do tâm tính trùm khắp nên không ngại gì thủ xả” (Đại Chính, 47, 280, trung). Đây là nói người tu thiền chưa hiểu lý duy tâm, chỉ hạn cuộc tại bên trong của tâm; do đó mà chê Cực Lạc là cõi khác ở ngoài tâm nên không cầu vãng sanh. Nhưng tâm tính của chúng sanh cùng khắp pháp giới, hư dung vô ngại, Tịnh độ ở ngoài mười vạn ức cũng không lìa tâm ta, cũng chẳng ngại gì xả cõi này cầu vãng sanh về cõi kia.

Thật ra, Thiền tông theo thuyết “tâm tịnh độ tịnh” của kinh Duy-ma, rồi giải thích một cách chủ quan cho rằng Tịnh độ chỉ cầu trong tâm chính mình, phủ nhận sự tồn tại của Tịnh độ, dường như luận bàn không công bằng, trái với ý nghĩa chân thật trong kinh Phật.

Lại nữa, các sư gia Thiên Thai nói tất cả pháp vốn đầy đủ nơi tự tâm, đề xướng ‘bản tính Di-đà, duy tâm Tịnh độ’, nhìn từ phương diện Quán tâm luận, kết quả là phủ nhận tính chân thật khách quan của Phật và Tịnh độ, không thể thành một luận điểm chung. Mặc dù, nhà Duy thức nói lí vạn pháp do tâm biến, nhưng chủ trương của họ không giống với Thiền tôngThiên Thai. Cho nên, thuyết ‘duy tâm Tịnh độ’ là thuộc về một loại Tịnh độ quan được đặt nền tảng trên nghĩa lí của một tông đặc thù của Trung Quốc.

 


 

[1] Bồ-tát hạ hạnh hạ ý: tức là bồ-tát quyền thừa.

[2] Ba không 三空: Tức là tam giải thoát môn: không, vô tướng, vô nguyện.

[3] Các độ: Tức là lục độ hay thập độ.

[4] Tam hiền thập thánh三賢十聖:Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướngtam hiền. Từ sơ địa lên đến thập địathập thánh.

[5] Giới nội 界內: Chỉ ba cõiDục giới, Sắc giớiVô Sắc giới.

[6] Giới ngoại 界外: Quốc độ ngoài ba cõi, là Tịnh độ của chư Phật và bồ-tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33171)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6538)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30394)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12239)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11586)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12795)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34732)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52258)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10499)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10700)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10463)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13068)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16253)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21826)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9609)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10388)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12728)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12769)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16222)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16520)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16566)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12101)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9189)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11253)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16290)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12689)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11500)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12002)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12620)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14987)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11954)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13123)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14523)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20676)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13218)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10936)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20690)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14347)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20365)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17648)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14010)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31853)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12013)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant