Bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính-định khoan-thai trở dậy, bảo Đại-Bồ-Tát Di-Lặc2 rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại-sĩ các Ông, các thiện nam-tử vì muốn thân cận bậc Thế-gian-phụ, vì muốn nghe pháp xuất-thế, vì muốn suy-nghĩ như-như-lý, vì muốn tu-tập như-như-trí3 nên mới đến nơi Phật cung-kính, cúng-dàng. Nay Tôi diễn nói về TÂM-ĐỊA DIỆU-PHÁP, để dẫn-dắt chúng-sinh, khiến cho họ chứng-nhập Phật-trí. Diệu-pháp như thế, chư Phật Như-Lai quá vô-lượng kiếp hợp thời nói ra. Như-Lai Thế-Tôn ra đời rất khó gặp được, cũng như hoa Ưu-Đàm! Như-Lai xuất-hiện ra đời nói diệu-pháp này cũng lại khó gặp! Sở-dĩ thế là sao? - Hết thảy chúng-sinh xa lìa hành-nguyện của Đại-thừa Bồ-tát, xu-hướng về Bồ-Đề của Duyên-giác, Thanh-văn, chán-ngán sinh-tử, mong nhập Niết-bàn mãi, chứ không thích diệu quả thường -lạc của Đại-thừa. Song, các Như-Lai quay xe pháp, xa lìa bốn lỗi mà nói pháp tương-ứng4: Một là, vô-phi-xứ (nói không trái nơi chốn: hợp hoàn-cảnh). Hai là, vô-phi-thời (không lỗi thời: hợp thời). Ba là, vô-phi-khí (không trái căn-khí: hợp trình-độ chúng-sinh). Bốn là, vô-phi-pháp (không trái pháp: hợp chính-pháp) Hợp bệnh cho thuốc, khiến họ khỏi được, tức là đức bất-cộng5 của Như-Lai. Thanh-văn, Duyên-giác còn chưa được cảnh bất-cộng tự-tại của Bồ-tát-chúng. Huống là được đức bất-cộng của Như-lai. Bởi nhân-duyên ấy, nên họ khó thấy, khó nghe được “tâm-địa pháp-môn” của chính-đạo Bồ-Đề! Nhưng, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào nghe được diệu-pháp ấy qua tai một lần, trong khoảng chốc lát, họ nhiếp-niệm quán tâm được, là họ huân-thành hạt giống Đại-bồ-đề vô thượng, không bao lâu nữa họ sẽ ngồi trên tòa báu kim-cương, nơi cây Bồ-đề, được thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác.6
Khi ấy, nơi Vương-xá đại-thành có năm trăm ông Trưởng-giả tên là: Diệu-Đức Trưởng-giả, Dũng-Mãnh Trưởng-giả, Thiện-Pháp Trưởng-giả, Niệm-Phật Trưởng-giả, Diệu-trí Trưởng-giả, Bồ-Đề Trưởng-giả, Diệu Biện Trưởng-giả, Pháp-Nhãn Trưởng-giả, Quang-Minh Trưởng-giả, Mãn-Nguyện Trưởng-giả. Các Đại-phú Trưởng-giả ấy đã thành-tựu được chính-kiến, tới cúng-dàng Như-Lai cùng các Thánh-chúng. Các Trưởng-giả ấy, nghe đức Thế-Tôn tán-thán Đại-thừa tâm-địa pháp-môn, liền nghĩ rằng: “Chúng ta thấy Như-Lai phóng hào-quang sắc vàng, ảnh-hiện những sự khổ-hạnh khó làm của Bồ-tát, chúng ta không có tâm ưa thích làm hạnh khổ-hạnh, ai lại trong nhiều kiếp ở nơi sinh-tử, vì chúng-sinh chịu mọi khổ-não được?”. Các Trưởng-giả ấy nghĩ thế rồi, liền từ tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu quỳ xuống đất, chắp tay cung-kính, tuy khác miệng nhưng đồng âm, bạch trước Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi không ưa những hạnh của các Bồ-tát Đại-thừa, cũng không thích nghe những âm-thanh khổ-hạnh. Sở dĩ thế là sao? - Vì, hết thảy hành-nguyện tu-hành của các Bồ-tát, đều không phải là những sự “tri ân, báo ân” (biết ơn, trả ơn). Sao vậy? - Vì các vị ấy xa lìa cha mẹ, tới chỗ xuất-gia, đem vợ con mình cho những người ham muốn; cho đến đầu, mắt, tủy, não tùy sự mong muốn của họ, đều bố-thí cả, mà chịu các sự bức-não; trong ba vô số kiếp tu các pháp “Độ”, tám vạn bốn nghìn hạnh Ba-la-mật, vượt dòng sinh-tử, mới đến được nơi Bồ-Đề đại-an-lạc; chẳng bằng xu-hướng về đạo-quả Thanh-văn, Duyên-giác, chỉ độ ba đời hay trăm kiếp tu-tập tư-lương7, dứt được nhân sinh-tử, chứng quả Niết-bàn, chóng đến nơi yên-vui, như thế mới gọi là báo ân!”8
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông nghe Tôi tán-thán Đại-thừa, các ông sinh tâm thoái-chuyển. Nhưng, các ông lại phát khởi ra ý-nghĩa nhiệm-mầu, để đem lại sự lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh không biết ân-đức trong đời mai sau. Các ông hãy nghe cho kỹ, nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, nay Tôi sẽ vì các ông phân-biệt, diễn nói những chỗ có ơn của thế-gian và xuất-thế-gian để các ông hiểu!”.
Thiện-nam-tử! Những lời các ông nói chưa được chính-lý. Sao vậy? - Ơn của thế-gian và xuất-thế-gian có bốn bậc: Một là, ơn cha mẹ. Hai là, ơn chúng-sinh. Ba là, ơn Quốc-vương. Bốn là, ơn Tam-bảo. Bốn ơn như thế, hết thảy chúng sinh đều bình-đẳng gánh chịu.9
Thiện-nam-tử! ƠN CHA MẸ: Cha có “từ-ân”, mẹ có “bi-ân”. Bi-ân của mẹ, nếu Tôi ở đời trong một kiếp để nói về ơn ấy cũng không thể hết được. Nay Tôi vì các ông nói một ít phần về công ơn ấy để các ông hiểu: Giả-sử có người vì việc phúc-đức, cung-kính, cúng dàng một trăm vị Đại-bà-la-môn tịnh-hạnh, một trăm vị Đại-thần-tiên được năm pháp thần-thông, một trăm người bạn lành, xếp đặt cho các vị ấy ở yên trong nhà thất-bảo rất đẹp, đem trăm nghìn thứ đồ ăn ngon quý, y-phục bằng mọi thứ báu tua rủ các chuỗi ngọc, dựng các phòng xá bằng gỗ chiên-đàn10, trầm-hương, chăn gối, giường nằm trang-nghiêm bằng trăm báu, cùng trăm thứ thuốc thang chữa khỏi các bệnh và nhất tâm cúng-dàng trọn trăm nghìn kiếp, cũng không bằng một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng sắc-thân bi-mẫu. Và, theo chỗ cúng dàng hầu hạ ấy, đem so-sánh với công-đức trước thời đến trăm nghìn vạn phần cũng không thể nào xét lường kịp.
Sự thương nhớ con của bi-mẫu ở thế-gian không gì sánh được. Ân ấy đến với con ngay từ khi chưa có hình-hài. Nghĩa là bắt đầu từ khi thụ-thai, trải trong mười tháng, đi đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu mọi khổ-não, không thể dùng miệng mà nói hết được. Tuy có những sự dục-lạc, ẩm-thực, y-phục nhưng, mẹ vẫn không sinh tâm ưa thích, mà tâm mẹ chỉ luôn luôn lo nghĩ đến con không quên nhãng.
Hãy tự suy-nghĩ: khi sắp sinh-sản, mẹ âm-thầm chịu đựng mọi khổ, ngày đêm sầu-não. Nhưng, đến lúc lâm-bồn, sự đau-khổ ấy quá đỗi, như trăm nghìn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực không thể nào kể xiết được, có khi đến chết. Sinh nở rồi, mẹ không còn bị khổ-não gì nữa, lúc đó họ hàng thân-thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo được ngọc Như-ý. Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời, mẹ như là người nghe được âm-nhạc. Mẹ dùng ngực mẹ làm nơi ngủ-nghỉ của con và trên hai đầu gối mẹ, thường thường là nơi chơi giỡn của con. Trong nơi ngực mẹ tuôn ra những dòng sữa như nước suối cam-lộ để nuôi lớn con. Ơn nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương-xót ấy rộng lớn không gì sánh được. “Thế-gian, núi non là cao, ơn bi-mẫu còn cao hơn thế - cao hơn cả núi Tu-di. Thế-gian cõi đất là nặng, ơn bi-mẫu còn nặng hơn thế!”
Thảng-hoặc có con trai, con gái nào bội-ân, không hiếu-thuận với cha mẹ, làm cho cha mẹ sinh tâm oán-niệm, mà mẹ bực-bội, thốt ra một lời nói ác, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh. Thế-gian, nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán-niệm của cha mẹ còn nhanh hơn gió ấy, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.
Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào theo lời dạy bảo của bi-mẫu và thừa-thuận không trái, thời được chư Thiên hộ-niệm, phúc-lạc vô-tận. Những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn-quý của Thiên, Nhân, hoặc là Bồ-tát vì độ chúng-sinh, hiện làm nam, nữ đem lại lợi-ích cho cha mẹ.
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào vì báo ơn cha mẹ, suốt một kiếp mỗi ngày ba thời, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ, cũng chưa trả được công ơn một ngày của cha mẹ. Sở-dĩ thế là sao? - Hết thảy nam, nữ ở trong thai mẹ, miệng nút cuống vú, uống huyết mẹ, khi ra khỏi bào-thai, trước thời ấu-trĩ, uống hết một trăm tám mươi hộc sữa của mẹ; mẹ được chút vị bổ nào đều cho con cả, ngay đến những y-phục quý tốt cũng đều như thế. Và, dù rằng bị người con ngu-si, xấu-xí đi nữa, tình yêu con của mẹ cũng chỉ là một không hai. Xem như xưa kia, có người đàn bà đi chơi xa tại nước người, bế con lội qua sông Hằng, không ngờ nước sông lên to, chảy mạnh, sức yếu không vượt qua nổi, lại yêu mến con quá, không nỡ rời bỏ con, nên cả hai mẹ con đều chết chìm. Song, bởi sức từ-tâm, thiện-căn ấy, tức thời người mẹ được sinh lên cõi Sắc-cứu-cánh-thiên, làm Đại-phạm-vương.
Do nhân-duyên ấy, mẹ có mười đức: Một là, như đại-địa: vì trong thai mẹ là chỗ nương-tựa của con. Hai là, năng-sinh: mẹ phải trải qua mọi sự khổ-não mới sinh được con. Ba là, năng-chính: thường do tay mẹ ve-vuốt, uốn-nắn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân con. Bốn là, dưỡng-dục: mẹ phải theo hợp bốn mùa mà nuôi-nấng con khôn lớn. Năm là, trí-giả: mẹ thường dùng phương-tiện, làm cho con sinh trí-tuệ. Sáu là, trang-nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang-sức cho con. Bảy là, an-ẩn: mẹ ôm-ấp con, làm cho con nghỉ-ngơi an-lành. Tám là, giáo-thụ: mẹ dùng phương-tiện khéo dắt-dẫn con. Chín là, giáo-giới: mẹ dùng lời nói lành để con xa-lìa những điều ác. Mười là, cho gia-nghiệp: mẹ thường đem gia-nghiệp giao lại cho con.
Thiện-nam-tử! “Ở thế-gian này gì là rất giàu? gì là rất nghèo? -Bi-mẫu tại đường, là giàu; bi-mẫu bất-tại là nghèo; bi-mẫu còn sống là mặt trời giữa trưa, bi-mẫu mất đi là mặt trời đã lặn; bi-mẫu còn sống là mặt trăng sáng, bi-mẫu mất đi là đêm tối! Thế nên, các ông nên siêng-năng tu-tập về sự hiếu-dưỡng phụ-mẫu thêm, thời như người cúng Phật, phúc-báo ấy và phúc-báo này bằng nhau không khác! Các ông nên báo ơn phụ-mẫu như thế!”11
Thiện-nam-tử! ƠN CHÚNG-SINH: Hết thảy chúng-sinh, từ đời vô-thủy đến nay, luân-chuyển trong năm đường: thiên, nhân, địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh, trải trăm nghìn kiếp và ở trong nhiều đời thường làm cha mẹ lẫn nhau. Vì làm cha mẹ lẫn nhau nên hết thảy nam-tử là từ-phụ, hết thảy nữ-nhân là bi-mẫu. Và, trong đời đời kiếp kiếp xưa kia cũng có tâm đại-bi như ơn của cha mẹ hiện-tại không khác. Như thế, các ơn xưa chưa trả được, rồi, hoặc nhân vọng-nghiệp sinh ra các sự thuận, nghịch, vì sự chấp-trước trở lại thành ra oán-hại lẫn nhau. Sao vậy? -Xưa có trí-tuệ sáng-suốt nhưng, vì vô-minh che-lấp, không hiểu đời trước mình đã từng làm cha mẹ lẫn nhau, chỗ đáng trả ơn là làm lợi-ích lẫn nhau, mà không làm lợi-ích lẫn nhau là bất-hiếu! Bởi nhân-duyên ấy, các loài chúng-sinh trong hết thảy thời, cũng có ơn lớn, thực là khó trả. Những sự như thế là ơn chúng-sinh!12
ƠN QUỐC-VƯƠNG: Vị đứng chủ một nước là người có đủ phúc-đức tối-thắng. Vị ấy tuy sinh trong cõi nhân-gian nhưng, được tự-tại, các Thiên-tử trong cõi Tam-thập tam-thiên thường giúp sức, thường hộ-trì và đối với quốc-giới, sơn-hà, đại-địa, tận cùng bể cả đều thuộc quyền nơi Quốc-vương. Vị ấy là một người có phúc-đức tối-thắng hơn hết thảy phúc của chúng-sinh. Vị ấy là vị Đại-thánh-vương dùng chính-pháp giáo-hóa, khiến chúng-sinh đều được yên vui. Ví như hết thảy điện đường của thế-gian, trụ (cột) là căn-bản; nhân-dân thịnh-vượng, vui-vẻ, Quốc-vương là căn-bản, vì phải y vào chính-pháp của Quốc-vương mới có. Như ngoại-đạo cho Phạm-vương sinh ra muôn vật, thì đây, Thánh-vương đặt ra pháp-luật trị nước, làm lợi-ích chúng-sinh cũng vậy. Như mặt trời soi sáng thế-gian, Thánh-vương cũng hay quan-sát thiên-hạ, đem lại sự yên-vui cho nhân-dân. Quốc-vương làm mất chính-trị, nhân-dân không có chỗ nương tựa. Nếu Quốc-vương đem chính-pháp giáo-hóa, tám sự khủng-bố lớn-lao không xâm-nhập vào trong nước được. Tám sự khủng-bố ấy là: nước ngoài xâm-bức, phản-nghịch trong cõi, ác-quỷ tật-bệnh, đất nước đói thiếu, gió mưa trái thời, gió mưa quá thời, nhật-thực, nguyệt-thực và tinh-tú biến-quái. Nhân-vương dùng chính hóa, lợi-ích nhân-dân, tám nạn như thế không xâm-phạm được. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một con, yêu-mến hơn hết, ông luôn luôn thuơng-xót con, cho con sự lợi-ích cho con sự yên vui, ngày đêm không rời. Vị Đại-thánh-vương trong nước cũng như thế, đồng coi quần sinh như con một, tâm ủng-hộ họ ngày đêm không rời. Nhân-vương như thế hay khiến chúng-sinh tu mười điều thiện, nên gọi là “Phúc-đức-vương”, vị nào không làm cho chúng-sinh tu thiện là “phi-phúc-chủ”. Sở dĩ thế là sao? - Nếu một người tu thiện ở trong Vương-quốc, sự tác phúc của họ chia làm bảy phần, người làm thiện được năm phần, Quốc-vương kia được hai phần. Trái lại, nhân lành của Quốc-vương tu, nhân-dân cũng đồng được phúc-lợi. Và, nếu tạo mười nghiệp ác cũng như thế, nghĩa là, cũng đồng như sự ấy. Hết thảy những vật sinh nơi ruộng đất, vườn, rừng trong nước đều chia làm bảy phần, cũng lại như thế. Nếu có Nhân-vương thành-tựu chính-kiến, như pháp dạy đời, thời gọi vị ấy là “Thiên-chúa” - vì vị ấy đem pháp lành của cõi Thiên dạy thế-gian -; chư Thiên, Thiện-thần cùng Hộ-thế-vương thường lại giúp-đỡ và giữ-gìn vương-cung. Nhân-vương tuy ở nhân-gian nhưng, tu-hành theo nghiệp của cõi Thiên, nên tâm thưởng, phạt không thiên-lệch. Chính-pháp của hết thảy Thánh-vương đều như thế!
Thánh-vương như thế gọi là “Chính-pháp-vương”. Và, bởi nhân-duyên ấy Chính-pháp-vương thành-tựu mười đức: Một là, soi sáng (năng-chiếu): đem mắt trí-tuệ soi-sáng thế-gian. Hai là, trang-nghiêm: đem phúc-đức, trí-tuệ trang-nghiêm đất nước. Ba là, cho vui (dữ lạc): đem đại-an-lạc cho nhân-dân. Bốn là, dẹp oán (phục-oán): hết thảy giặc oán tự-nhiên chịu nép. Năm là, khởi sợ (ly bố): đánh lùi tám nạn13, lìa khỏi sợ-hãi. Sáu là, trụ-hiền (ở với người hiền): họp các người hiền bàn-bạc việc nước. Bảy là, pháp-bản (gốc của chính-pháp): muôn họ an-cư nương nhờ Quốc-vương. Tám là, trì-thế (giữ-gìn thế-gian): đem pháp của Thiên-vương giữ-gìn thế-gian. Chín là, nghiệp-chủ (chủ của mọi nghiệp): các nghiệp thiện-ác đều thuộc Quốc-vương. Mười là, nhân-chủ: hết thảy nhân-dân, Quốc-vương là chủ. Hết thảy Quốc-vương, bởi phúc-đức đời trước thành-tựu mười thắng-đức như thế”.
Vì thế, Đại-phạm-thiên-vương cùng Đao-lỵ-thiên thường giúp Nhân-vương hưởng-thụ những sự vui thắng-diệu; các La-sát-vương và chư Thần… tuy không hiện-thân giúp-đỡ nhưng, ngấm-ngầm lại vệ-hộ Nhân-vương cùng quyến-thuộc Nhân-vương.
Nhân-vương thấy nhân-dân tạo các nghiệp ác không ngăn-cấm được, chư Thiên, Thần…đều xa-tránh. Nếu thấy nhân-dân tu thiện chư Thiên, Thần…vui-mừng, tán-thán và hết thảy đều xướng rằng: “Thánh-vương ta!...” long, thiên vui-mừng, rưới nước mưa Cam-lộ, ngũ-cốc14 thành-thục, nhân-dân vui-vẻ, thịnh-vượng. Nếu Nhân-vương không gần những người ác, chăm làm lợi-ích cho khắp thế-gian đều theo chính-hóa, thời ngọc báu Như-ý hiện ngay trong vương-quốc, các vua nước láng-diềng đều quy-phục, nhân, phi-nhân đều khen-ngợi. Và, nếu có ác-nhân ở trong vương-quốc sinh tâm phản-nghịch, trong chốc-lát, phúc của người ấy tự suy-diệt, mất đi, phải sa-đọa trong địa-ngục, qua sang súc-sinh chịu đủ mọi thứ đau-khổ. Sở-dĩ thế là sao? Bởi vì không biết ân-đức Thánh-vương, khởi ra những sự ác-nghiệp, nên phải quả-báo như thế. Nếu có nhân-dân thực-hành thiện-tâm, cung-kính, giúp-đỡ Nhân-vương và tôn-trọng như Phật, hiện-thế người ấy được yên-ổn, thịnh-vượng, vui-vẻ, có mong-cầu gì đều được vừa lòng. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy Quốc-vương trong thời-gian quá-khứ đã từng thụ-giới cấm thanh-tịnh của Như-Lai và đã thường làm Nhân-vương hưởng sự an-ổn, khoái-lạc. Bởi nhân-duyên ấy, quả-báo trái hay thuận đều như vang ứng tiếng. Ân-đức Thánh-vương rộng lớn như thế!15
Thiện-nam-tử! ƠN TAM BẢO: Ơn Tam-bảo là ơn không thể nghĩ, bàn được, vì Tam-bảo luôn luôn đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh không có thời nào và chỗ nào dừng nghỉ.
Thân chư Phật là chân-thiện vô-lậu, do tu nhân trong vô-số đại-kiếp mà chứng được. Chư Phật dứt hết nghiệp-quả ba cõi, công-đức như núi báu rực-rỡ, không gì so-sánh kịp, mà hết thảy hữu-tình không biết. Phúc-đức chư Phật rất sâu như bể cả, trí-tuệ vô-ngại như hư-không, thần-thông biến-hóa tràn đầy thế-gian, ánh sáng soi khắp mười phương ba đời.
Hết thảy chúng-sinh bị phiền-não nghiệp-chướng ngăn-che không hiểu biết gì, nên phải chìm-đắm trong bể khổ sinh-tử vô cùng. Tam-bảo ra đời làm Đại-thuyền-sư, ngăn chặn dòng ái-dục, để chúng-sinh vượt lên bờ Niết-bàn. Những bậc có trí ai cũng đều chiêm-ngưỡng!16
Thiện-nam-tử! Duy một ngôi PHẬT-BẢO đầy-đủ ba thân17: Một là, tự-tính-thân. Hai là, thụ-dụng-thân. Ba là, biến-hóa-thân.
Phật thân thứ nhất có ĐẠI-ĐOẠN-ĐỨC18, là chỗ hiển-lộ nhị-không,19 hết thảy chư Phật đều bình-đẳng.20
Phật thân thứ hai có ĐẠI-TRÍ-ĐỨC21 chân thường vô-lậu, hết thảy chư Phật đều đồng-ý.22
Phật thân thứ ba có ĐẠI-ÂN-ĐỨC23 định-thông biến-hiện, hết thảy chư Phật đều đồng-sự.24
Thiện-nam-tử! Tự-tính-thân của chư Phật vô-thủy, vô-chung, lìa hết thảy tướng, dứt mọi hí-luận25, tròn đầy, cùng khắp không còn bờ mé và lắng-im thường-trụ.26
Thụ-dụng-thân ấy có hai tướng: Một là, TỰ-THỤ-DỤNG-THÂN.27 Hai là, THA-THỤ-DỤNG THÂN.28
Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn hạnh , đem lại lợi-ích yên-vui cho các chúng-sinh trong ba vô-số kiếp, được Thập-địa mãn-tâm29, vận-dụng thân-lực đi thẳng đến cõi Sắc-cứu-cánh-thiên30, vượt quá quốc-độ thanh-tịnh vi-diệu trong ba cõi, ngồi trên hoa sen vô-số lượng đại-bảo, mà các Bồ-tát số nhiều không thể nói được, ở trong hải-hội vây quanh trước sau, đem lụa vô-cấu kết trên đỉnh đầu31, cúng-dàng cung-kính, tôn-trọng, tán-thán, như thế gọi là “lợi-ích hậu-báo”32. Khi ấy, Bồ-tát nhập Kim-cương-định, dứt bỏ hết thảy sở-tri-chướng, phiền-não-chướng33 vi-tế, chứng được vô-thượng chính-đẳng, chính-giác; diệu-quả như thế gọi là “lợi-ích hiện-tiền”. Chân-báo-thân ấy hữu thủy (có trước), vô chung (không sau), thọ mệnh tùy theo sự mong-muốn, kiếp số không có hạn-lượng. Và, lại từ khi bắt đầu thành chính-giác cho đến lúc tận cùng thuở vị-lai, các căn-tướng tốt trang-nghiêm cùng khắp pháp-giới.34
Bốn trí viên-mãn là chân-báo-thân thụ-dụng-pháp-lạc 35:
Một là, ĐẠI-VIÊN-KÍNH-TRÍ: Chuyển Dị-thục-thức36, được trí-tuệ này, như tấm gương tròn lớn hiện đủ các sắc-tướng. Như thế trong gương trí-tuệ (kính-trí) của Như-Lai, hay hiện ra các nghiệp thiện, ác của chúng-sinh. Bởi nhân-duyên ấy, trí-tuệ này gọi là “Đại-viên-kính-trí”. Y vào đại-bi nên thường duyên với chúng-sinh, y vào đại-trí nên thường như pháp-tính, quán-sát song-song cả chân-đế, tục-đế37, không gián-đoạn, thường chấp giữ căn-thân vô-lậu và là chỗ y-chỉ của hết thảy công-đức.38
Hai là, BÌNH-ĐẲNG-TÍNH-TRÍ: Chuyển Ngã-kiến-thức39 được trí-tuệ này. Vì chứng được ngã-tính tự-tha bình-đẳng không hai, như thế nên gọi là “Bình-đẳng-tính-trí”.
Ba là, DIỆU-QUÁN-SÁT-TRÍ: Chuyển Phân-biệt-thức40, được trí-tuệ này. Hay quán-sát tự-tướng, cộng-tướng41 của mọi pháp và ở trước chúng-hội nói mọi pháp nhiệm-mầu, làm cho chúng-sinh chứng được Bất-thoái-chuyển. Bởi thế nên gọi là “Diệu-quán-sát-trí”.
Bốn là, THÀNH-SỞ-TÁC-TRÍ: Chuyển nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân-thức được trí-tuệ này, hay hiện ra hết thảy mọi hóa-thân, làm cho chúng-sinh thành-thục thiện-nghiệp. Bởi nhân-duyên ấy nên gọi là “Thành-sở-tác-trí”.
Bốn trí ấy là trí-tuệ trên hết, đầy-đủ tám vạn bốn nghìn trí-tuệ-môn. Hết thảy các công-đức-pháp như thế gọi là “Tự-thụ-dụng-thân” của Như-Lai.42
Thiện-nam-tử! Hai là, Tha-thụ-dụng-thân của Như-Lai đầy-đủ tám vạn bốn nghìn tướng tốt, ở nơi chân-tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa43, làm cho các Bồ-tát thụ-dụng được pháp-lạc vi-diệu của Đại-thừa. Hết thảy Như-Lai vì hóa-độ các Bồ-tát-chúng nơi Thập-địa, hiện ra mười loại tha-thụ-dụng-thân: Phật thân thứ nhất ngồi trên hoa sen trăm cánh vì Bồ-tát Sơ-địa nói về trăm pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong trăm thế-giới của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-số chúng-sinh. Phật thân thứ hai ngồi trên hoa sen nghìn cánh, vì Bồ-tát Nhị-địa nói về nghìn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong nghìn thế-giới của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-lượng chúng-sinh. Phật thân thứ ba, ngồi trên hoa sen muôn cánh, vì Bồ-tát Tam-địa, nói về muôn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong muôn quốc-độ của chư Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô số chúng-sinh. Như thế, Như-Lai tăng-trưởng dần dần, cho đến tha-thụ-dụng-thân nơi Thập-địa, ngồi trên hoa sen diệu-bảo không thể nói được, vì Bồ-tát Thập-địa nói về các pháp-minh-môn số nhiều không thể nói được; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông biến-hóa lớn-lao, cùng khắp quốc-độ vi-diệu của chư Phật, số nhiều không thể nói được, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-lượng, vô-biên chủng-loại chúng-sinh với con số nhiều không thể tuyên-thuyết, không thể tuyên-thuyết được. Mười thân như thế, đều ngồi nơi cây Bồ-đề bằng bảy báu, chứng được vô-thượng chính-đẳng, chính-giác.
Các thiện-nam-tử! Mỗi một cánh hoa đều là một tam-thiên thế-giới, trong đó đều có trăm ức núi Diệu-cao cùng bốn đại-châu, mặt-trời, trăng, sao và chư thiên trong ba cõi cũng đầy-đủ cả. Các Nam-thiệm-bộ-châu ở trên mỗi cánh sen, có tòa Kim-cương, cây Bồ-đề, có trăm nghìn vạn, đến số nhiều không thể nói được những hóa Phật lớn, nhỏ, đều ở dưới gốc cây, phá ma-quân rồi, nhất thời chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Các thân của các hóa Phật lớn, nhỏ như thế đều đầy-đủ ba mươi hai tướng,44 tám mươi thứ tốt45, vì các Bồ-tát trong hàng Tư-lương46 và Tứ-thiện-căn47 cùng Nhị-thừa, phàm-phu, tùy nghi vì họ nói ra diệu-pháp Tam-thừa. Vì các Bồ-tát nói về sáu Ba-la-mật48 khiến các vị ấy được Vô-thượng chính-đẳng chính-giác cứu-cánh Phật-tuệ. Vì các vị cầu Bích-chi-Phật nói về mười hai pháp nhân-duyên.49 Vì các vị cầu Thanh-văn nói về pháp Tứ-đế,50 qua sinh, lão, bệnh, tử đến cứu-cánh Niết-bàn. Vì các chúng-sinh khác nói về Nhân-thiên-giáo, khiến họ được diệu-quả an-lạc trong Nhân, Thiên. Các hóa Phật lớn, nhỏ như thế gọi là “Biến-hóa thân của Phật”. Thiện-nam-tử! Hai loại ứng, hóa-thân Phật như thế, tuy hiện ra diệt-độ (nhập Niết-bàn) nhưng, thân Phật ấy vẫn nối tiếp thường-trụ.
Các thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng, vô-biên không thể nghĩ, bàn được những ân-đức rộng lớn đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh như thế, nên cũng bởi nhân duyên ấy mà gọi là Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hành-túc (viên-mãn), Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn.51
Thiện-nam-tử! Trong một Phật-bảo đầy-đủ sáu thứ công-đức vi-diệu: Một là, là ngôi vô-thượng có ruộng công-đức lớn-lao trên hết. Hai là, là ngôi vô-thượng có ân-đức lớn. Ba là, là ngôi chí-tôn trong những chúng-sinh không chân, hai chân cho đến nhiều chân. Bốn là, là bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm. Năm là, là ngôi độc nhất xuất-hiện trong Tam thiên đại thiên thế-giới. Sáu là, là ngôi đầy-đủ hết thảy nghĩa trong công đức thế-gian và xuất-thế-gian. Y vào chỗ đầy-đủ của sáu thứ công-đức như thế và thường đem lại lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh, thế gọi là ơn “Phật-bảo không thể nghĩ, bàn được!”
Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói: trong một Phật-bảo có vô-lượng hóa Phật, cùng khắp thế-giới đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh, vậy bởi nhân-duyên gì mà nhiều chúng-sinh trong thế-gian này không thấy Phật, phải chịu mọi khổ-não?”.
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Ví như mặt trời tỏa trăm nghìn ánh sáng soi sáng thế-giới, mà trong đó có những người mù không thấy ánh sáng mặt trời, thời ý các thiện-nam-tử nghĩ sao, mặt trời có bị lỗi không? -Các Trưởng-giả bạch: “Bạch đức Thế-Tôn! Mặt trời không có lỗi! “Đức Phật dạy: “Thiện-nam-tử! Chư Phật Như-lai thường diễn nói chính-pháp, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh nhưng, các chúng-sinh ấy thường tạo nghiệp ác, không hiểu biết gì, không có tâm thẹn-hổ, không ưa thân-cận Phật, Pháp, Tăng, chúng-sinh như thế tội-căn sâu nặng, trải vô-lượng kiếp không được trông thấy, nghe biết tên hiệu Tam-bảo, cũng như những người mù kia không trông thấy ánh sáng mặt trời vậy. Nếu có chúng-sinh cung-kính Như-Lai, ưa thích Đại-thừa, tôn-trọng Tam-bảo, nên biết người ấy nghiệp-chướng tiêu trừ, phúc-đức, trí-tuệ tăng-trưởng, căn lành thành-tựu, chóng được thấy Phật, khởi hẳn sinh-tử và sẽ chứng Bồ-đề”.52
Các thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng Phật, thời Như-Lai nói ra PHÁP-BẢO cũng thế. Nghĩa là trong một Pháp-bảo cũng có vô-lượng nghĩa.
Thiện-nam-tử! Trong PHÁP-BẢO có bốn loại: Một là giáo-pháp. Hai là, lý-pháp. Ba là, hành-pháp. Bốn là, quả-pháp. Hết thảy những thanh (tiếng), danh (tên) cú (câu), văn (chữ)53 thuộc pháp vô-lậu, phá tan vô-minh, phiền-não, nghiệp-chướng, gọi là “giáo-pháp”. Các pháp hữu-vi, vô-vi gọi là “lý-pháp”. Giới, Định, Tuệ-hạnh gọi là “Hành-pháp”. Diệu-quả vô-vi gọi là “Quả-pháp”. Bốn pháp như thế là PHÁP-BẢO, dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn.
Thiện-nam-tử! Thầy chư Phật tức là Pháp-bảo. Sở-dĩ thế là sao? -Chư Phật trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai do y vào pháp tu-hành, mà dứt được hết thảy chướng-ngại, thành Bồ-đề, cho đến tận cùng thuở vị-lai đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh. Bởi nhân-duyên ấy, Như-Lai trong ba đời thường cúng-dàng các Pháp-bảo Ba-la-mật nhiệm-mầu, huống là hết thảy chúng-sinh trong ba cõi chưa được giải-thoát, há không cung-kính Pháp-bảo vi-diệu!
Thiện-nam-tử! Kiếp xưa Tôi từng làm vị Nhân-vương cầu pháp, phải gieo mình vào trong hầm lửa lớn để cầu chính-pháp, mới dứt hẳn được sinh-tử và chứng được Đại-bồ-đề. Thế nên, Pháp-bảo phá hết thảy lao-ngục sinh-tử, cũng như Kim-cương làm hư-hoại muôn vật. Pháp-bảo soi sáng chúng-sinh tăm-tối, như mặt trời soi sáng thế-giới. Pháp-bảo cứu chúng-sinh nghèo thiếu, như ngọc Ma-Ni hóa-hiện mọi của báu. Pháp bảo cho chúng-sinh sự vui mừng cũng như tiếng trống cõi trời làm vui chư thiên. Pháp-bảo làm thềm báu cho chư thiên, vì nghe chính-pháp được sinh Thiên. Pháp-bảo là chiếc thuyền lớn bền vững, vượt qua bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo cũng như Chuyển-luân Thánh-vương, trừ giặc phiền-não tam độc. Pháp-bảo là y-phục đẹp quý, che phủ sự không thẹn của các chúng-sinh. Pháp-bảo cũng như giáp-trụ kim-cương, phá bốn loại ma54, chứng đạo Bồ-đề. Pháp-bảo cũng như gươm trí-tuệ sắc, cắt dứt sinh-tử thoát khởi ràng-buộc. Pháp-bảo chính là xe báu Tam-thừa, chuyên-chở chúng-sinh ra khỏi nhà lửa. Pháp-bảo cũng như hết thảy đèn sáng, soi sáng nơi ba đường tối-tăm. Pháp-bảo cũng như cung, tên, giáo, mác, chấn giữ quốc-giới, dẹp tan oán-địch, Pháp-bảo cũng như đạo-sư nơi đường hiểm, khéo dẫn chúng sinh đạt tới Bảo-sở.55
Thiện-nam-tử! Như-Lai trong ba đời nói ra diệu-pháp, có những sự khó nghĩ, bàn như thế, thế gọi là ơn “Pháp-bảo không thể nghĩ, bàn được”.56
Thiện-nam-tử! Thế-gian, xuất-thế-gian có ba hạng TĂNG; Một là, Bồ-tát-tăng. Hai là, Thanh-văn-Tăng. Ba là, Phàm-phu-Tăng.
Như các Ông Văn-Thù-Sư-lỵ, Di-Lặc…là BỒ-TÁT-TĂNG.
Như các Ông Xá-Lỵ-Phất, Mục-kiền-Liên…là THANH-VĂN-TĂNG.
Và, như có những vị chân-thiện phàm-phu, thành-tựu Biệt-giải-thoát-giới57 cho đến những vị đầy-đủ hết thảy chính-kiến, thường rộng-rãi vì chúng-sinh diễn-thuyết, khai-thị mọi pháp của Thánh-đạo, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh, gọi là PHÀM-PHU-TĂNG. Tuy rằng các vị ấy chưa được Giới, Định, Tuệ, Giải-thoát vô-lậu nhưng, cúng-dàng các vị ấy cũng được phúc vô-lượng.
Ba hạng Tăng như thế gọi là “Chân-phúc-điền-Tăng”.
Lại có một hạng gọi là PHÚC-ĐIỀN-TĂNG. Hạng này đối với xá-lỵ58 Phật, hình tượng Phật cùng các Pháp, Tăng, các giới Thánh-chế, sinh tâm kính-tín sâu-sa; tự nơi mình không có tà kiến và làm cho người ta cũng thế. Lại hay tuyên thuyết chính-pháp, tán-thán Nhất-thừa, thâm-tín nhân-quả, thường phát thiện-nguyện, tùy theo lỗi mình phạm, mà hối trừ nghiệp-chướng. Nên biết sức tin Tam bảo của người ấy hơn các ngoại đạo gấp trăm nghìn vạn lần và cũng hơn cả bốn loại Chuyển-luân thánh-vương, huống là các loại khác trong hết thảy chúng-sinh. Như Uất-kim-hoa tuy héo úa nhưng, còn hơn hết thảy các loại tạp-hoa. Tỷ-khưu có chính-kiến cũng thế, hơn chúng-sinh khác gấp trăm nghìn vạn lần. Tuy rằng vị ấy hủy giới cấm nhưng, không hại chính-kiến, bởi nhân-duyên ấy nên gọi là “Phúc-điền-Tăng”. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào cúng-dàng các vị Phúc-điền-Tăng như thế, được phúc-đức không cùng tận, như cúng-dàng ba hạng Chân-thực Tăng-bảo trước được công-đức thế nào, thời nơi đây được công-đức cũng bằng thế không khác. Bốn hạng Thánh, phàm Tăng-bảo như thế, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh thường không tạm xả, nên gọi là ơn “Tăng-bảo không thể nghĩ, bàn được”.59
Bấy giờ, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Ngày nay chúng tôi nghe pháp-âm của Phật, được hiểu sự lợi-ích của Tam-bảo tại thế-gian. Song, nay chúng tôi không biết bởi nghĩa gì mà nói Phật, Pháp, Tăng được gọi là BẢO? Kính xin Phật giải-thuyết, bầy tỏ để chúng-hội, cùng hết thảy chúng-sinh đời mai sau kính-tín Tam-bảo, dứt hẳn lưới ngờ-vực, được lòng tin bất-hoại, làm cho họ vào được bể bất-tư-nghị60 của Tam-bảo!”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các thiện-nam-tử hỏi được những diệu-pháp rất sâu của Như-Lai như thế, hết thảy chúng-sinh đời mai sau được lợi-ích yên-vui nhiều lắm! Ví như ngọc báu thứ nhất của thế-gian có đầy-đủ mười nghĩa, làm trang-nghiêm quốc-giới, lợi-ích chúng-sinh, thời Phật, Pháp, Tăng cũng thế: Một là, bền chắc: như ngọc Ma-Ni không ai phá được; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, ngoại-đạo, Thiên-ma không thể phá được. Hai là, không nhơ: ngọc báu hơn hết của thế-gian thanh-tịnh trong sáng không lẫn chút bụi nhơ; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, đều xa lìa những phiền-não trần-cấu. Ba là, cho vui; như bình Thiên-đức61 thường cho sự yên-vui ; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, thường cho chúng-sinh sự vui trong thế-gian và xuất-thế-gian. Bốn là, khó gặp: như ngọc báu tốt lành hiếm có khó gặp; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, chúng-sinh nhiều nghiệp-chướng, ức kiếp cũng khó gặp được. Năm là, phá-tán: như ngọc báu Như-ý phá tan sự nghèo cùng của con người: Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, phá tan những sự nghèo khổ của chúng-sinh trong thế-gian. Sáu là, uy đức: như Chuyển-luân-vương có cỗ xe báu, hay dẹp oán-địch; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, đủ sáu pháp thần-thông, hàng-phục bốn loại ma. Bảy là, mãn-nguyện: như ngọc Ma-ni tùy tâm mong cầu, sẽ hóa hiện ra mọi của báu; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, hay làm thỏa-mãn những chúng-sinh muốn tu thiện nguyện. Tám là, trang-nghiêm: như ngọc-báu thế-gian trang-nghiêm vương-cung; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, trang-nghiêm bảo-cung Bồ-đề của Pháp-vương. Chín là, tối diệu: như diệu bảo cõi trời rất vi-diệu; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, vượt trên các diệu-bảo tối-thắng của thế-gian. Mười là, bất-biến: ví như vàng thực vào lửa không biến; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, tám thứ gió62 của thế gian, không rung động được. Phật, Pháp, Tăng bảo đầy-đủ vô lượng thần-thông biến-hóa, đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, từng không có khi nào dừng nghỉ. Vì những nghĩa ấy nên chư Phật, Pháp, Tăng được gọi là “BẢO”. Thiện-nam-tử! Tôi vì các ông nói qua về bốn nơi có ơn của thế-gian, xuất-thế-gian như thế để các ông hiểu. Các ông nên biết: “Tu hạnh Bồ-tát cần phải trả bốn ơn như thế!”63
Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Bốn ơn như thế rất là khó trả, vậy nên tu hạnh gì để trả được những ơn ấy?”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Thiện-nam-tử! Người vì cầu đạo Bồ-đề cần phải có tâm tu về ba bậc64 của mười pháp Ba-la-mật: Một là, mười pháp Bố-thí Ba-la-mật-đa. Hai là, mười pháp Thân-cận Ba-la-mật-đa. Ba là, mười pháp Chân-thực ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thường đem bảy báu đầy ngập Tam thiên đại thiên thế-giới, bố-thí cho vô-lượng chúng-sinh nghèo cùng nhưng, bố-thí như thế chỉ gọi là Bố-thí Ba-la-mật-đa, chứ không được gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm đại-bi, vì cầu vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, đem thê-tử mình bố-thí cho người khác, tâm không sẻn tiếc; thân, thịt, tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, cho đến thân-mệnh, đem bố-thí cho người lại xin nhưng, bố-thí như thế mới chỉ gọi là Thân-cận Ba-la-mật-đa, chứ chưa được gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát-khởi tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, trụ nơi “vô-sở-đắc”, khuyên các chúng-sinh đồng phát tâm ấy, đem pháp chân-thực bằng một bài kệ bốn câu, bố-thí cho một chúng-sinh làm cho họ hướng về đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, thế mới gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Hai bậc bố-thí trước chưa gọi là báo-ân được, nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào tu bậc thứ ba: Chân-thực Ba-la-mật-đa như thế, mới gọi là chân-thực báo-đáp bốn ân. Sở-dĩ thế là sao? - Hai bậc bố-thí trước còn có tâm “sở-đắc”, bậc bố-thí thứ ba tâm “vô-sở-đắc”, đem chân-pháp bố-thí hết thảy chúng-sinh, khiến họ phát tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, sau này khi người ấy chứng được Bồ-đề, rộng độ chúng-sinh vô cùng tận, nối tiếp hạt giống Tam-bảo không đoạn-tuyệt, bởi nhân-duyên ấy nên gọi là báo-ân”.
Năm trăm ông Trưởng-giả theo Phật nghe được pháp báo-ân từ xưa tới nay chưa được nghe bao giờ ấy, tâm sinh hớn-hở, cho là được sự chưa từng có, các ông liền phát tâm cầu tới vô-thượng Bồ-đề, được Nhẫn-nhục tam-muội65, chứng-nhập trí-tuệ bất-tư-nghị, mãi mãi không thoái-chuyển.
Lúc đó, tám vạn bốn nghìn chúng-sinh trong pháp hội phát tâm Bồ-đề, được lòng tin kiên-cố và cũng được Tam-muội ấy; đại-chúng trong hải-hội đều được Kim-cương nhẫn-nhục tam-muội, ngộ Vô-sinh-nhẫn và Nhu-thuận-nhẫn, hoặc chứng Sơ-địa được Bất-khởi-nhẫn. Vô-lượng chúng-sinh phát tâm Bồ-đề ở ngôi Bất-thoái.66
Đức Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Hết thảy chúng-sinh trong đời vị-lai nếu nghe được phẩm Tâm-địa-quán báo tứ-ân này, thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép, lưu-bá xa rộng, những người ấy phúc-đức, trí-tuệ tăng thêm, chư Thiên vệ-hộ, hiện-thân không đau yếu, thọ-mệnh lâu dài; khi mệnh mất, được sinh lên nội-cung của đức Di-Lặc, trông thấy tướng bạch-hào của Ngài liền siêu-việt sinh-tử, trong ba hội Long-Hoa67 sẽ được giải-thoát và tùy ý vãng-sinh trong mười phương Tịnh-độ, thấy Phật, nghe pháp, nhập chính-định-tụ68 chóng thành trí-tuệ vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Như-Lai.69
Bấy giờ, về phía Đông-bắc đại-thành Vuơng-xá cách tám mươi do-tuần70 có một nước nhỏ tên là Tăng-trưởng-phúc. Trong nước kia có một ông Trưởng-giả tên là Trí-Quang, tuổi nhiều, già yếu, chỉ có một con. Mà người con ấy có tính ác-nghịch, không thuận cha mẹ, cha mẹ dạy răn gì đều không theo lời. Ông Trưởng-giả xa nghe thấy đức Thích-Ca Mưu-Ni Như-Lai ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương-xá, vì vô-lượng chúng-sinh trong đời độc-ác, nhơ-đục, tuyên-thuyết về pháp báo-ân của Đại-thừa. Khi ấy cả cha mẹ và con cùng mọi người quyến-thuộc của ông vì muốn nghe pháp, đem các đồ cúng đến nơi Phật, cung-kính cúng-dàng Phật.
Cúng-dàng rồi, ông Trưởng-giả liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tôi có một người con, tính nó tệ-ác quá, nó không chịu nghe lời dạy răn của cha mẹ. Nay tôi nghe thấy Phật nói về việc báo-đáp tứ ân, tôi vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật, kính xin đức Thế-Tôn vì bọn chúng tôi cùng các người trong quyến-thuộc tuyên-thuyết về nghĩa thú sâu-xa, nhiệm-mầu của tứ-ân, khiến người con tệ-ác của tôi sinh tâm hiếu-thuận, đời nay, đời sau sẽ được sự an-lạc”.
Đức Phật bảo ông Trí-Quang: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông vì pháp lại nơi Tôi, cúng-dàng cung-kính và muốn nghe Pháp ấy, vậy các ông nên nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo! Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào phát tâm Bồ-đề, muốn nghe pháp-yếu, khi cất chân, đặt chân xuống đất, tùy theo số lượng vi-trần (bụi nhỏ) của đường đất đi xa hay gần, mà do nhân-duyên ấy, người ấy cảm được Kim-luân chuyển-luân thánh-vương, khi phúc-báo của Thánh-vương hết, được làm Thiên-vương trong Dục-giới; khi phúc-báo của Thiên-vương trong Dục-giới hết, được làm Phạm-thiên-vuơng, được thấy Phật, nghe pháp và chóng chứng được diệu-quả. Đại-trưởng-giả cùng những người khác đi với ông vì cầu pháp lại nơi Tôi, tính ra như thế là phải qua tám mươi do-tuần đại-địa vi-trần, mỗi một số vi-trần sẽ chiêu-cảm được những quả-báo về Nhân, Thiên, Luân-vương. Và, được nghe pháp rồi, đời sau sẽ chứng vô-thượng chính-đẳng chính-giác)).
Tuy trước Tôi đã nói về nghĩa-thú sâu-xa, nhiệm-mầu của tứ-ân, nay vì các ông, Tôi lại tuyên lại nghĩa ấy, bằng lời kệ sau này:
Tối-thắng
Pháp-vương, Đại-thánh-chúa,
Hết
thảy Nhân, Thiên chẳng sánh bằng;
Trang-nghiêm
thân bằng mọi tướng tốt,
Bể
trí như hư-không vô-lượng.
Hạnh
lợi tự, tha đều viên-mãn,
Tiếng
khen đồn khắp trong các cõi;
Dứt
hẳn phiền-não cùng tập-khí…,71
Khéo
trì mật-hạnh, giữ mọi căn.
Trăm
bốn mươi thứ đức “bất-cộng”,72
Bể
phúc rộng lớn đều viên-mãn;
Chính-định,
thần-thông đầy-đủ cả,
Thường
vui chơi “Bát tự-tại-cung”.73
Nhân,
Thiên, ngoại-đạo trong mười phương,
Không
ai “năng-nan”74 như Điều-ngự;
Miệng
vàng nói biện-tài vô-ngại,
Tuy
không ai hỏi mà tự nói.
Như
đại-hải-triều75 không sai thời,
Cũng
như thiên-cổ76 hợp thiên-tâm;
Tự-tại
như thế duy Phật có,
Ngũ-thông-tiên,
Ma, Phạm đâu có.
Kiếp-hải77
tu-hành nguyện khó nghĩ,
Chứng
được đại-thần-thông như thế;
Trong
đại-tịch-thất78 Tôi nhập-định,
Quán-sát
các căn và bệnh, thuốc.
Tự
ra thiền-định mà tán-thán:
Ba
đời Phật-pháp “Tâm-địa-môn”;
Các
Trưởng-giả nghe thoái đại-tâm,
Ưa
hạng tự-lợi trong Nhị-thừa.
Tôi
mở đại-trí phương-tiện-giáo,
Dẫn
vào cửa giải-thoát “Tam không”;79
Ý-thú
Như-Lai chẳng thể lường,
Duy
Phật biết được chân-bí-mật.
Thanh-văn
lợi-căn và Độc-giác,
Bồ-tát
cần cầu ngôi bất-thoái;
Mười
hai kiếp số cùng so lường,
Không
có ai biết được phần nhỏ.
Giả-sử
phàm, thánh-trí mười phương,
Nhận
cho một người làm trí-giả;
Trí-giả
như thế như rừng trúc,
Không
thể so-lường được phần nhỏ.80
Thế-gian
phàm-phu không mắt tuệ,
Mê
nơi ân-đức mất diệu-quả;
Chúng-sinh
trong đời năm ác-trọc,81
Không
hiểu ơn sâu thường trái đức.
Tôi
vì khai-thị về bốn ân,
Khiến
vào chính-kiến Bồ-đề-đạo.82
TỪ-PHỤ
BI-MẪU, ơn trưởng-dưỡng,
Hết
thảy trai, gái đều yên vui.
Ơn
từ-phụ cao như núi lớn,
Ơn
bi-mẫu sâu như bể cả;
Nếu
Tôi ở đời trong một kiếp,
Nói
ơn bi-mẫu không hết được.
Tôi
nay nói qua một phần nhỏ,
Như
ruồi, muỗi uống nước bể cả.
Giả
sử có người vì phúc-đức,
Cúng-dàng
Bà-la-môn tịnh-hạnh.
Ngũ-thông
thần-tiên được tự tại,
Đại-trí
sư-trưởng cùng bạn lành.
Điện-đường
đặt để toàn bảy báu,
Phòng
toàn bằng gỗ Chiên-đàn-hương.
Đồ
nằm trăm báu bày trải khắp,
Mỹ-vị
thế-gian như cam-lộ;
Cùng
các thuốc men chữa muôn bệnh,
Đựng
đầy vàng bạc trong khí-vật.
Cúng-dàng
như-thế ngày ba thời,
Cho
đến đủ số một trăm kiếp;
Không
bằng một niệm tỏ chút phần,
Cúng-dàng
bi-mẫu đại-ân-điền.
Phúc-đức
vô-biên không lường được,
Tính-toán,
thí-dụ không sánh kịp.
Bi-mẫu
thế-gian có mang con,
Mười
tháng mang thai chịu khổ nhiều.
Tình
không ham đắm năm dục-lạc,
Tùy
thời ăn uống cũng đồng thế;
Ngày
đêm thường mang lòng thương xót,
Đi,
đứng, ngồi, nằm chịu mọi khổ.
Chính
sắp sinh con khỏi thai-tạng,
Như
góp mũi nhọn rạch chi-tiết;
Mê
cảm đông, tây không phân-biệt,
Khắp
mình đau-đớn không chịu nổi,
Hoặc
nhân nạn ấy mà mệnh mất,
Lục
thân83 quyến-thuộc đều bi-não;
Mọi
khổ như thế đều vì con,
Lo,
buồn, thống-thiết nói sao cùng.
Nếu
được bình-phục thân yên-vui,
Như
nghèo được ngọc mừng khôn tả;
Đoái
nhìn mặt con không biết chán,
Tâm
thương nhớ con không tạm xả.
Ân-tình
mẫu-tử thường như thế,
Xuất,
nhập không rời con trước ngực;
Sữa
mẹ như là suối Cam-lộ,
Trưởng-dưỡng
kịp thời không lúc kiệt.
Ơn
nơi từ-niệm thực khó ví,
Công-đức
nuôi-nấng cũng khó lường.
Thế-gian,
đại-địa gọi là nặng,
Ơn
bi-mẫu nặng hơn đất ấy.
Thế-gian
Tu-di gọi là cao,
Ơn
bi-mẫu cao hơn núi ấy;
Thế-gian,
nhanh-chóng duy gió dữ,
Một
niệm mống tâm nhanh hơn thế.
Nếu
có chúng-sinh làm bất-hiếu,
Khiến
mẹ tạm thời khởi tâm hận;
Thốt
lời oán-niệm chỉ phần nhỏ,
Con
theo lời ấy bị khổ-nạn.
Chư
Phật cùng các Kim-cương-thiên,
Bí-pháp
Thần-tiên không cứu được.
Nếu
có trai, gái theo mẹ dạy,
Thừa-thuận
nhan-sắc không dám trái.
Hết
thảy tai-nạn đều tiêu-trừ,
Chư
Thiên ủng-hộ thường an-lạc.
Nếu
hay thừa-thuận theo bi-mẫu,
Trai,
gái ấy đâu phải kẻ phàm.
Đại-bi
Bồ-tát hóa nhân-gian,
Thị-hiện
báo ân mọi phương-tiện.
Nếu
có con trai và con gái,
Vì
báo ân mẹ làm hiếu-dưỡng:
Cắt
thịt, trích huyết thường cung-cấp,
Như
thế đủ số trong một kiếp.
Mọi
thứ cần tu trong hiếu-đạo,
Còn
chưa báo được ơn tạm thời.
Mười
tháng con ở trong thai-tạng,
Thường
ngậm cuống vú uống thai-huyết.
Từ
khi là con-nít, trẻ thơ,
Uống
hơn trăm hộc sữa của mẹ.
Ăn
uống, thuốc-thang, y-phục đẹp,
Con
trước, mẹ sau đó lệ thường.
Con
nếu ngu-si bị người ghét,
Mẹ
cũng thương nhớ không vứt bỏ.
Xưa,
một nữ-nhân ẵm đứa con,
Lội
qua sông Hằng nước chảy mạnh;
Sức
khó vượt qua vì nước ngập,
Mẹ
chết cùng con không nỡ bỏ.
Vì
sức thiện-căn từ-niệm ấy,
Mệnh
mất được sinh lên Phạm-thiên;
Hưởng
vui chính-định trên cõi Phạm,
Được
gặp Như-Lai nhận Phật-ký.
Thế
nên bi-mẫu có mười đức,
Tùy
hợp nghĩa-lợi đặt ra tên:
Một
là, đại-địa; hai năng sinh,
Ba
là, năng-chính; bốn, dưỡng-dục.
Năm,
cho trí-tuệ; sáu, trang-nghiêm,
Bảy
là, an-ổn; tám, giáo-thụ;
Chín
là, giáo-giới; mười, cho nghiệp,
Ân
khác không hơn ân-đức mẹ.
Pháp
gì ở đời là rất giàu?
Pháp
gì ở đời là rất nghèo?
Khi
mẹ tại đường là rất giàu,
Mẹ
không tại đường là rất nghèo.
Khi
mẹ còn, là mặt trời ngọ,
Khi
mẹ mất, là mặt trời lặn;
Khi
mẹ còn, hết đều đầy-đủ,
Khi
mẹ mất, hết đều rỗng không.
Thế-gian
hết thảy thiện-nam-tử:
Ơn
cha mẹ nặng như gò, núi;
Hiếu
kính cần phải luôn ở lòng,
Biết
ơn, trả ơn là Thánh-đạo.
Không
tiếc thân-mệnh dâng đồ ngon,
Chưa
từng một niệm thiếu sắc-dưỡng;
Như
khi cha mẹ bỗng mất đi,
Toan
muốn báo-ân thực chẳng kịp.
Phật
xưa tu-hành vì từ-mẫu,
Cảm
được tướng tốt sắc thân vàng;
Tiếng
đồn
rộng lớn khắp mười phương,
Hết
thảy Nhân, Thiên đều khể-thủ.
Nhân
và phi-nhân đều cung-kính,
Từ
duyên xưa trước báo từ-ân.
Tôi
đã lên cung trời Đao-lỵ,
Ba
tháng, vì mẹ nói chân-pháp.
Khiến
mẹ Tôi nghe, quy chính-đạo,
Ngộ
Vô-sinh-nhẫn thường không thoái;
Như
thế đều là báo bi-ân,
Tuy
báo ân sâu còn chưa đủ.
Mục-Liên
được thần-thông đệ nhất,
Dứt
hết phiền-não trong ba cõi;
Dùng
sức thần-thông xem từ-mẫu,
Thấy
mẹ chịu khổ trong ngã-quỷ.
Mục-Liên
tự đi trả ơn mẹ,
Cứu
thoát từ-thân nơi thụ-khổ;
Sinh
lên các cõi trời Tha-Hóa,
Cùng
được vui chơi nơi Thiên-cung.
Nếu
biết ơn cha mẹ rất sâu,
Chư
Phật, Thánh-hiền đều báo đức.
Nếu
ai chí-tâm cúng-dàng Phật,
Có
tâm tinh-cần tu hiếu-dưỡng.
Phúc
hai người ấy bằng nhau cả,
Ba
đời hưởng báo cũng vô cùng.
Người
đời, làm con tạo các tội,
Sa
ba ngả ác chịu khổ mãi.
Người
chưa chứng Thánh, không thần-thông,
Không
thấy luân-hồi, khó báo được.
Thương
thay người đời không Thánh-lực,
Không
hay cứu gỡ cho từ-mẫu!
Bởi
nhân-duyên ấy, ông nên biết,
Cần
tu phúc-lợi công-đức tốt:
Đem
ngay thắng-phúc nơi nam, nữ,
Có
đại-kim-quang soi địa-ngục.
Trong
hào-quang diễn tiếng thâm-diệu,
Khai-ngộ
cha mẹ mở tâm-ý.
Nhớ
thuở xưa kia thường tạo tội,
Một
niệm hối-tâm đều trừ diệt.
Miệng
niệm: “Nam mô tam thế Phật”.
Thoát
thân khổ-nạn không thong-thả;
Sinh
lên Nhân, Thiên hưởng vui mãi,
Thấy
Phật, nghe pháp, sẽ thành Phật.
Hoặc
sinh tịnh độ tại mười phương,
Hoa
sen bảy báu là cha mẹ;
Hoa
nở thấy Phật ngộ Vô sinh,
Bồ-tát
Bất-thoái là đồng học.
Được
sáu thần-thông tự-tại-lực,
Được
vào cung bồ-đề vi-diệu:
Bồ-tát
đều là các nam, nữ.
Nương
đại nguyện-lực hóa nhân-gian.
Thế
là thực báo ân cha mẹ,
Các
ông, chúng sinh cùng tu học!84
CHÚNG-SINH
luân-hồi sinh sáu đạo,
Cũng
như bánh xe không sau, trước.
Hoặc
là cha mẹ, là trai, gái,
Đời
đời, kiếp kiếp ơn lẫn nhau.
Như
thấy cha mẹ… không khác chi,
Không
chứng Thánh-trí, do đâu biết!
Hết
thảy nam-tử đều là cha,
Hết
thảy nữ-nhân đều là mẹ;
Ơn
đời trước thế chưa trả xong,
Lại
sinh niệm khác thành oán ghét!
Thường
nên báo ân, ích lẫn nhau,
Không
nên đánh mắng thành hiềm-oán!
Nếu
muốn tu thêm phúc-trí-môn,
Ngày
đêm sáu thời85 nên phát nguyện:
Nguyện
con sinh sinh vô-lượng kiếp,
Được
Túc-trụ-trí86 đại-thần-thông;
Biết
được trăm nghìn kiếp quá-khứ,
Lại
nhớ biết nhau là cha mẹ.
Xoay-vần
sáu thú, bốn loài sinh,87
Cho
tôi một niệm đến nơi ấy;
Vì
nói diệu-pháp, lìa nhân khổ,
Trong
Nhân, Thiên họ hưởng vui mãi.
Khuyến
phát Bồ-đề-nguyện kiên-cố,
Tu-hành
lục độ của Bồ-tát;
Dứt
hẳn hai nhân của sinh tử,
Chóng
chứng Niết-bàn vô-thượng-đạo88
Mười
phương hết thảy các QUỐC-VƯƠNG
Chính
pháp hóa-nhân là Thánh-chúa;
Phúc-đức
Quốc-vương là tối-thắng,
Việc
làm tự-tại gọi là “Thiên” (trời).
Vua
trời Đao-lỵ và trời khác,
Thường
đem phúc-lực trợ vương-hóa;
Chư
Thiên ủng-hộ như con một,
Bởi
thế được tên là “Thiên-tử”.
Thế-gian
cho vua là cội-gốc,
Là
chỗ nhân-dân hết thảy nương;
Cũng
như nhà cửa của thế-gian,
Cột
là cội-gốc, dựng nên được.
Vua
dùng chính-pháp hóa nhân-dân,
Giả
như Phạm-vương sinh muôn vật.
Vua
làm phi-pháp không chính-lý,
Như
Diễm-ma vương diệt thế-gian.
Nếu
vua dung-nhận kẻ gian-tà,
Như
là voi xéo ao hoa vậy.
Đừng
bảo thời gặp đời ác-trọc,
Nên
biết thiện, ác do vua tu!
Như
mặt trời soi sáng thế gian,
Quốc-vương
dạy đời cũng như thế.
Mặt
trời, đêm tuy không chiếu tới,
Nhưng
khiến chúng-sinh được an-lạc.
Vua
đem phi-pháp ra dạy đời,
Hết
thảy nhân-dân không tin cậy.
Thế
gian có những sự sợ-hãi,
Nhưng
nhờ phúc vua không sinh được.
Thành
ra nhân-dân được an-lạc,
Như
thế là phúc vua soi tới.
Thế-gian
có những hoa rất đẹp,
Nhờ
phúc nhà vua mà nở toả.
Thế-gian
có những rừng, vườn đẹp,
Nhờ
phúc nhà vua đều tươi tốt.
Thế-gian
có những cây cỏ thuốc,
Nhờ
phúc nhà vua khỏi các bệnh.
Thế-gian
bách-cốc, cùng lúa má,
Nhờ
phúc nhà vua đều thành hạt.
Nhân-dân
trên đời hưởng vui sướng,
Nhờ
phúc nhà vua thường tự-nhiên.
Ví
như Trưởng-giả có một con,
Trí-tuệ
đoan nghiêm đời không sánh;
Cha
mẹ yêu mến như con mắt,
Ngày
đêm thường sinh tâm hộ-niệm.
Thánh-vương
trong nước cũng như thế,
Nhớ
mến chúng-sinh như con một;
Nuôi-nấng
người già, giúp cô độc,
Tâm
dù thưởng, phạt nhưng thường một.
Nhân-vương
như thế là Thánh-chúa,
Mọi
loài kính-ngưỡng như Như-Lai;
Nhân-vương
trị nước không tai-biến,
Muôn
họ kính, chăm thường an-ổn.
Vua
không đem pháp-chính dạy đời,
Tật-dịch
lưu-hành hại chúng-sinh;
Như
thế hết thảy nhân, phi-nhân,
Tội,
phúc rõ-ràng không che được.
Trong
pháp thiện, ác chia bảy phần,
Người
tạo được năm, vua được hai;
Nhà
cửa, ruộng, vườn, rừng đều thế,
Thuế-má
phân chia cũng như vậy.
Chuyển-luân
Thánh-vương khi xuất-hiện,
Chia
làm sáu phần vua được một;
Nhân-dân
khi ấy được năm phần.
Nghiệp-báo
thiện, ác cũng đều thế.
Nếu
có Nhân-vương tu chính-kiến,
Như
pháp dạy đời là “Thiên-chúa”;
Bởi
y pháp trời mà dạy đời,
Tỳ-sa-môn-vương
thường ủng-hộ.
Ba
cõi trời khác, chúng La-sát,
Đều
sẽ gìn giữ Thánh-vương-cung.
Thánh-vương
ra đời sửa-sang nước,
Lợi-ích
chúng-sinh thành mười đức:
Một
là, soi sáng trong quốc-giới,
Hai
là, trang-nghiêm cho quốc-độ;
Ba
là, thường cho sự yên-vui,
Bốn
là, hàng-phục các oán-địch.
Năm
là, cấm ngăn mọi sợ hãi,
Sáu
là, hợp-tập các Thánh hiền;
Bảy
là, căn-bản của mọi pháp,
Tám
là, hộ-trì cho thế-gian.
Chín
là, thường làm công tạo-hóa,
Mười
là, chủ nhân-dân, đất nước.
Nếu
vua thành-tựu mười thắng-đức,
Phạm-vương,
Đế-thích và chư Thiên.
Dạ-soa,
La-sát, Quỷ-thần-vương,
Ẩn
mình thường lại hộ quốc-giới.
Long-vương
hoan-hỷ tuôn Cam-vũ,
Ngũ-cốc
thành-thục muôn họ yên.
Khắp
nơi trong nước sinh ngọc báu,
Người,
ngựa sức mạnh, không oán-địch.
Như-ý
bảo-châu hiện trước vua,
Các
vua ngoại-cảnh tự triều-phục.
Ai
sinh tâm ác với Quốc-vương,
Một
niệm khởi tâm thành mọi ác;
Người
ấy mệnh mất sa địa-ngục,
Chịu
khổ nhiều kiếp khó kỳ ra.
Nếu
có tinh-thần chăm giúp vua,
Chư
Thiên hộ-niệm thêm vinh-lộc.89
Trưởng-giả
Trí-Quang, ông nên biết:
Hết
thảy Nhân-vương do nghiệp-cảm.
Các
pháp đều do nhân-duyên thành,
Nếu
không nhân-duyên không các pháp.
Nói
không sinh Thiên và ác-thú,
Những
người như thế không hiểu nhân,
Không
nhân, không quả: đại-tà-kiến,
Không
biết tội, phúc sinh vọng-chấp.
Nay
vua được hưởng mọi phúc vui,
Xưa
kia từng giữ ba tịnh-giới.90
Giới-đức
huân-tu chiêu-cảm tới,
Diệu-quả
Nhân, Thiên được thân vua91
Nếu
người phát-khởi Bồ-đề-tâm,
Nguyện-lực
giúp thành vô-thượng-quả.
Giữ
bền giới tịnh trong thượng-phẩm,
Đi,
ở tự-tại làm Pháp-vương;
Thần
thông biến-hóa khắp mười phương,
Tùy
duyên giúp hết cả muôn loài.
Trung-phẩm
thụ-trì Bồ-tát-giới,
Phúc-đức
tự-tại Chuyển-luân-vương;
Tùy
tâm làm gì đều nên cả,
Vô-lượng
Nhân, Thiên đều tuân-phụng.
Hạ-thượng-phẩm
trì: đại-quỷ-vương,
Hết
thảy phi-nhân đều theo phục;
Thụ-trì
giới phẩm tuy khuyết-phạm,
Nhưng,
do giới thắng được làm vua.
Hạ-trung-phẩm
trì: cầm-thú-vương,
Hết
thảy chim, muông đều y-phục;
Trong
thanh-tịnh-giới có khuyết-phạm,
Nhưng,
do giới thắng được làm vua.
Hạ-hạ-phẩm
trì: Diễm-ma-vương,
Ở
trong địa-ngục thường tự-tại;
Tuy
hủy giới cấm sinh ác-đạo.
Nhưng,
do giới thắng được làm vua.92
Bởi
vì nghĩa ấy các chúng-sinh,
Nên
thụ Bồ-tát thanh-tịnh-giới;
Hãy
gìn-giữ khéo không khuyết-phạm,
Tùy
chỗ sinh ra làm Nhân-vương.
Nếu
người không thụ-giới Như-Lai,
Còn
không được thân con cáo đồng;
Huống
là cảm-quả trong Nhân, Thiên,
Ở
ngôi vua hưởng vui sướng tuyệt?
Thế
nên làm vua phải có “nhân”,
Giới-nghiệp
tinh siêng thành diệu-quả.
Quốc-vương
tự là chủ nhân-dân,
Lành
thương như mẹ nuôi con nhỏ.
Như
thế Nhân-vương có ơn lớn,
Tấm
lòng phủ-dục93 khó báo được
Bởi
nhân-duyên ấy, các chúng-sinh,
Nếu
tu chứng được Đại-bồ-đề.
Đối
với chúng-sinh khởi đại-bi,
Nên
thụ Như-Lai tam-tụ-giới.94
Nếu
muốn như pháp mà thụ-giới,
Cần
nên sám95 tội cho tiêu-diệt.
Nguyên-nhân
khởi tội có mười duyên:96
Thân
ba, miệng bốn và ý ba.
Sinh-tử
vô-thủy, tội vô cùng,
Bể
lớn phiền-não sâu không đáy.
Nghiệp-chướng
cao vót như Tu-di,
Tạo-nghiệp
do nhân hai thứ khởi:
Tức
là HIỆN-HÀNH và CHỦNG-TỬ,97
Tạng-thức98
giữ, duyên NHẤT-THIẾT-CHỦNG.
Như
bóng theo hình không rời thân,
Trong
hết thảy thời chướng Thánh đạo;
Gần,
chướng diệu-quả của Nhân, Thiên,
Xa,
chướng vô-thượng Bồ-đề-quả.
Tại-gia
thường vời nhân phiền-não,
Xuất-gia
thì phá thanh-tịnh-giới.
Nếu
ai như pháp mà sám-hối,
Có
bao phiền-não đều trừ-diệt.
Cũng
như kiếp lửa hoại thế-gian,
Đốt
sạch Tu-di và bể cả.
Sám-hối,
đốt sạch củi phiền-não,
Sám-hối,
thường sinh lên đường trời.
Sám-hối,
được vui nơi Tứ-thiền,99
Sám-hối,
mưa báu ngọc Ma-ni;
Sám-hối,
thân kim-cương thêm thọ,
Sám-hối,
được vào cung “thường-lạc”.
Sám-hối,
ra khỏi ngục ba cõi,
Sám-hối,
nở ra hoa Bồ-đề;
Sám-hối,
thấy đại-viên-kính Phật,100
Sám-hối,
đến được nơi Bảo-sở.
Nếu
y như pháp mà sám-hối,
Nên
y hai pháp QUÁN-MÔN tu:
Một
là, QUÁN SỰ DIỆT TỘI MÔN,
Hai
là, QUÁN LÝ DIỆT TỘI MÔN.101
Quán
sự diệt tội lại chia ba:
Thượng,
trung, hạ-căn là ba phẩm.
Nếu
có thượng căn cầu tịnh giới,
Phát
đại tinh-tiến tâm không thoái.
Thương
khóc rơi huyết thường tinh-khẩn,
Ai-cảm
khắp mình đều ửng huyết;
Nghĩ
luôn đến thập phương Tam-bảo,
Cùng
các chúng-sinh trong lục-đạo.
Quỳ
dài, chắp tay tâm bất từ,
Gột
tâm phát-lộ cầu sám-hối:
“Kính
xin thập phương Tam-thế Phật,
Lấy
đại-từ-bi thương xót con.
Con
ở luân-hồi không chỗ nương,
Sinh-tử
đêm dài thường chẳng biết;
Con
ở phàm-phu đủ mọi buộc,
Tâm
cuồng giáo-giở, lăng-xăng khắp.
Con
ở trong nhà lửa ba cõi,
Nhiễm
bậy sáu trần102 không cứu-hộ;
Con
sinh trong nhà nghèo, hạ-tiện,
Không
được tự-tại thường chịu khổ.
…Sinh
vào nhà cha mẹ tà-kiến,
Tạo
tội nương theo quyến-thuộc ác.
Kính
xin chư Phật Đại-từ-tôn,
Thương
xót hộ-niệm như con một.
Một
sám không tạo các tội nữa,
Tam-thế
Như-Lai sẽ chứng-minh!”
Mạnh-mẽ
sám-hối như như thế,
Gọi
là thượng-phẩm cầu tịnh-giới.
Như
có trung-căn cầu giới-phẩm,
Một
lòng mạnh-mẽ sám mọi tội.
Nghĩ
mình lệ ứa không ai biết,
Khắp
mình bồ-hôi…, ai-cầu Phật:
“Dãi-bày
vô-thủy nghiệp sinh-tử,
Xin
nước từ bi gột bụi trần;
Giũ
bỏ tội-chướng sạch sáu căn,103
Cho
con tam-tụ-giới Bồ-tát.
Con
nguyện giữ vững không lùi chuyển,
Tinh-tu,
độ thoát khổ chúng-sinh,
Mình
chưa đắc độ, trước độ người,
Hết
thuở vị-lai thường không dứt”.
Như
thế tinh-cần, dũng-mãnh làm,
Không
tiếc thân-mệnh cầu Giác-đạo.
Cảm
tướng lạ thiêng của Tam-bảo,
Gọi
là trung-phẩm đại-sám-hối.
Nếu
có hạ-căn cầu tịnh-giới,
Phát
tâm Vô-thượng Bồ-đề ấy,
Rơi
lệ, thương khóc, lông thân rởn,
Với
chỗ tạo tội rất thẹn-hổ.
Đối
trước Tam-bảo khắp mười phương,
Và
trước chúng-sinh trong sáu đạo;
Chí
thành phát-lộ từ vô-thủy,
Có
những chúng-sinh bị não-loạn.
Khởi
tâm đại-bi không chướng-ngại,
Không
tiếc thân-mệnh hối ba nghiệp.
Những
tội đã làm đều phát-lộ,
Những
ác chưa làm không dám tạo.
Như
thế, ba phẩm sám mọi tội,
Đều
gọi thanh-tịnh-giới đệ-nhất.
Dùng
nước thẹn-hổ rửa trần-lao,
Thân
tâm đều là thanh-tịnh phẩm,
Các
thiện-nam-tử, ông nên biết!
Đã
nói tịnh-quán các sám-hối;
Trong
sự, lý ấy không sai khác,
Chỉ
bởi căn-duyên ứng chẳng đồng.
Nếu
khi tu-tập quán chính-lý,
Xa
lìa hết thảy mọi tán-loạn.
Mặc
áo mới sạch ngồi gia-phu,
Nhiếp-tâm,
chính-niệm bỏ mọi duyên:
Thường
quán diệu-pháp-thân chư Phật,
Thể-tính
như KHÔNG, không thể được;
Tính
của các tội cũng đều như,
Nhân-duyên
điên-đảo, tâm vọng khởi.
Tội-tướng
như thế bản-lai không,
Ở
trong ba đời “vô-sở-đắc”.
Không
nội, không ngoại, không trung-gian,
Tính,
tướng như-như đều chẳng động.
Diệu-lý
chân-như dứt danh-ngôn,
Chỉ
có Thánh-trí hay thông-suốt.
Phi
hữu, phi vô, phi-hữu-vô,
Phi
bất hữu-vô lìa danh-tướng.
Quanh
khắp pháp-giới không sinh diệt,
Chư
Phật bản-lai đồng một thể.
Kính
xin chư Phật thùy gia-hộ,
Diệt
được hết thảy tâm điên-đảo!
Nguyện,
con sớm ngộ nguồn chân-tính,
Chóng
chứng Như-Lai vô-thượng-đạo!
Nếu
có thanh-tín thiện-nam-tử,
Ngày
đêm hay quán diệu-lý-không.
Hết
thảy tội-chướng tự tiêu-trừ,
Thế
là giữ giới tịnh trên hết.
Nếu
người quán biết thực-tướng-không,
Hay
diệt hết thảy các tội trọng.
Cũng
như gió to thổi lửa dữ,
Đốt
cháy vô-lượng các cây cỏ.
Các
thiện-nam-tử chân-thực-quán,
Là
môn bí-yếu của chư Phật.
Nếu
muốn vì người phân-biệt rộng,
Hạng
người vô-trí đừng tuyên-thuyết.
Hết
thảy chúng-sinh loại phàm ngu,
Nghe
quyết sinh nghi tâm bất tín.
Nếu
có trí-giả sinh tín-giải,
Niệm
niệm quán-sát ngộ Chân-như;
Chư
Phật mười phương đều hiện trưóc,
Bồ-đề
diệu-quả tự-nhiên chứng.
Các
thiện-nam-tử! Sau Tôi diệt,
Những
người tịnh-tín trong đời sau;
Theo
hai quán-môn thường sám-hối,
Nên
thụ Bồ-tát tam-tụ-giới.
Nếu
muốn thụ-trì thượng-phẩm-giới,
Nên
thỉnh giới-sư : Phật, Bồ-tát.
Thỉnh
Tôi: Thích-Ca Mưu-Ni Phật,
Làm
vị Hòa-thượng104 giới Bồ-tát.
Long-chủng
Tịnh-trí tôn vương Phật
Sẽ
làm tịnh-giới A-xà-lê.105
Đạo-sư
mai sau: Di-Lặc Phật,
Sẽ
làm thanh-tịnh Giáo-thụ-sư.106
Hiện-tại
mười phương Lưỡng-túc-tôn,107
Sẽ
làm thanh-tịnh Chứng-giới-sư.108
Mười
phương hết thảy các Bồ-tát,
Sẽ
làm bạn-bè tu-học-giới.
Phạm,
Thích, Tứ-vương, Kim-cương-thiên,
Sẽ
làm chúng ngoại-hộ học-giới.
Phụng-thỉnh
Phật, Bồ-tát như thế,
Và,
các thầy truyền giới hiện-tiền.
Vì
muốn trả khắp bốn ân sâu,
Phát
khởi tâm Bồ-đề thanh-tịnh.
Nếu
thụ tam-tụ-giới Bồ-tát :
Nhiêu-ích
hết thảy hữu-tình-giới.
Tu-nhiếp
hết thảy thiện-pháp-giới,
Tu-nhiếp
hết thảy luật-nghi-giới.
Tam-tụ
thanh-tịnh giới như thế,
Như-Lai
ba đời đều hộ-niệm.
Chúng-sinh
phi-pháp không nghe biết,
Trong
vô-lượng kiếp không nghe, thấy.
Duy
có thập phương Phật quá-khứ.
Đã
thụ tịnh-giới thường hộ-trì.
Hai
chướng phiền-não dứt trừ hẳn,
Chứng
được quả Bồ-đề vô-thượng;
Hết
thảy Thế-Tôn đời vị-lai,
Giữ-gìn
tam-tụ tịnh-giới báu.
Dứt
trừ ba chướng109 cùng tập-khí,
Sẽ
chứng chính-đẳng đại-bồ-đề;
Mười
phương các Thiện-thệ hiện-tại,
Đều
tu nhân tam-tụ tịnh-giới.
Dứt
hẳn sinh-tử khổ luân-hồi,
Được
chứng tam thân110 Bồ-đề-quả.
Siêu-việt
bể sinh-tử sâu lớn,
Tịnh-giới
Bồ-tát là thuyền bè.
Dứt
hẳn ràng-buộc tham, sân, si,
Tịnh-giới
Bồ-tát là gươm sắc;
Đường
hiểm sinh-tử các sợ-hãi,
Tịnh-giới
Bồ-tát là nhà cửa.
Trừ
khỏi các nhân khổ nghèo hèn,
Tịnh-giới
thường làm ngọc Như-ý;
Bị
ma quỉ ốp, các tật-bệnh,
Tịnh-giới
Bồ-tát là lương-dược.
Làm
vua Nhân, Thiên được tự-tại,
Tam-tụ
tịnh-giới là duyên tốt;
Cùng
các thân vua trong bốn thú,
Tịnh-giới
là duyên được thắng-quả.
Thế
nên tu được nhân tự-tại,
Sẽ
được làm vua hưởng tôn-quý.
Trước
nên lễ kính mười phương Phật,
Ngày
đêm tu thêm thanh-tịnh-giới.
Chư
Phật hộ-niệm đương thụ-trì,
Giới
như kim-cương không phá-hoại;
Chư
Thiên thiện thần trong ba cõi,
Hộ-vệ
thân vua và quyến-thuộc.
Hết
thảy oán-địch đều quy-phục,
Muôn
họ vui mừng cảm vương hóa.
Thế
nên thụ-trì giới Bồ-tát,
Cảm
quả vô-vi thế, xuất-thế.111
Tam-Bảo
thường-trụ hóa thế-gian,
Ân-đức
rộng lớn bất tư-nghị;
Trong
kiếp-hải này cùng quá-khứ,
Công-đức
lợi sinh không dừng nghỉ.
Nghìn
ánh Phật-nhật112 thường soi đời,
Lợi
ích quần-sinh độ có duyên;
Vô
duyên không thấy từ-quang Phật,
Cũng
như người mù không trông thấy.
Pháp-bảo
nhất vị không biến-đổi,
Phật
trước, Phật sau nói đều đồng;
Như
mưa, một vị thấm khắp cả,
Cỏ
cây tươi-tốt, lớn, nhỏ khác.
Chúng-sinh
tùy căn đều được giải,
Cỏ
cây nhuần thấm cũng sai khác.
Bồ-tát,
Thanh-văn hóa chúng-sinh,
Như
nước sông lớn chảy không kiệt.
Chúng-sinh
không tín, hóa không tới,
Như
ở chỗ tối trời khó soi.
Ánh
trăng Như-Lai rất thanh-lương,
Hay
trừ mọi tối cũng như thế.
Cũng
như chậu úp trăng không soi,
Chúng-sinh
mê-hoặc cũng như thế.
Pháp-bảo
như cam-lộ, thuốc hay,
Trị
được hết thảy bệnh phiền-não.
Người
tin uống thuốc, chứng Bồ-đề,
Không
tin tùy duyên sa ác-đạo.
Bồ-tát,
Thanh-văn thường ở đời,
Vô
số phương-tiện độ chúng-sinh.
Chúng-sinh
nếu có lòng tin, thích,
Nhập
ngôi an-lạc của Tam-thừa.
Như-Lai
không xuất-hiện thế-gian,
Hết
thảy chúng-sinh vào tà-đạo.
Chê
hoài cam-lộ, uống thuốc độc,
Chìm
mãi bể khổ không kỳ ra.
Phật-nhật
xuất-hiện ba nghìn cõi,
Tỏa
ánh-sáng lớn chiếu đêm dài.
Chúng-sinh
như ngủ không hay biết,
Nhờ
sáng được vào vô-vi-thất.
Như-Lai
chưa nói Nhất-thừa-pháp,
Quốc
độ mười phương đều không-hư.
Phát
tâm tu-hành thành chính-giác,
Hết
thảy cõi Phật đều nghiêm-tịnh.
Pháp-bảo
Nhất-thừa: mẹ chư Phật,
Như-Lai
ba đời từ đấy sinh.
Bát-nhã
phương-tiện tu không dứt,
Thành
đạo giải-thoát lên Diệu-giác.
Nếu
Phật, Bồ-tát không xuất-hiện,
Chúng-sinh
ở đời không đạo-sư.
Hiểm-nạn
sinh-tử do đâu qua,
Làm
sao đến được nơi Bảo-sở?
Dùng
đại-nguyện-lực làm bạn lành,
Thường
nói diệu-pháp cho tu-hành.
Xu-hướng
Thập-địa chứng Bồ-đề,
Khéo
vào nơi Niết-bàn an-lạc.
Đại-bi
Bồ-tát hóa thế-gian,
Phương-tiện
dẫn-dắt các chúng-sinh.
Trong
ẩn hạnh chân-thực Nhất-thừa,
Ngài
hiện ra Duyên-giác, Thanh-văn.
Độn-căn,
trí-nhỏ nghe Nhất-thừa,
Sợ-hãi
phát tâm qua nhiều kiếp.
Không
biết thân có Như-Lai-tạng,113
Chỉ
vui tịch-diệt, chán trần-lao.
Chúng-sinh
vốn có giống Bồ-đề,
Đều
ở trong Tạng-thức: Lại-gia.
Nếu
gặp bạn lành phát đại-tâm,
Ba
thứ rèn, mài114 tu diệu-hạnh;
Dứt
hẳn phiền-não, sở-tri-chướng,
Chứng
được thân thường-trụ Như-Lai.
Diệu-quả
Bồ-đề chẳng khó thành,
Chân
thiện-trí-thức thực khó gặp.
Hết
thảy Bồ-tát tu thắng-đạo,
Bốn
thứ pháp-yếu cần nên biết:
Thân-cận
bạn lành là thứ nhất,
Lắng
nghe chính-pháp là thứ hai;
Như
ý nghĩ lường là thứ ba,
Như
pháp tu chứng là thứ tư.
Hết
thảy Đại-thánh-chúa mười phương,
Tu
bốn pháp ấy chứng Bồ-đề.
Các
ông Trưởng-giả, đại-hội-chúng,
Và,
thanh-tín-sĩ đời vị-lai.
Bốn
pháp nơi Bồ-tát như thế,
Cốt
nên tu-tập thành Phật-đạo.115
Các
thiện-nam-tử nên nghe kỹ,
Như-Lai
nói ra bốn ơn trên.
Thì
ơn Phật-bảo là tối thượng,
Vì
độ chúng-sinh phát đại-tâm.
Ba
vô số kiếp trong đại-kiếp.
Tu
đủ trăm nghìn các khổ-hạnh.
Công-đức
viên-mãn khắp pháp-giới,
Thập-địa
rốt-ráo chứng ba thân.
Pháp-thân
thể khắp mọi chúng-sinh,
Muôn
đức cô-đọng tính thường-trụ.
Không
sinh, không diệt, không đi, lại,
Không
một, không khác, phi đoạn, thường;
Đầy
khắp pháp-giới như hư-không,
Hết
thảy Như-Lai cùng tu chứng.
Hữu-vi,
vô-vi các công-đức,
Nương-tựa
Pháp-thân thường thanh-tịnh.
Bản-tính
Pháp-thân như hư-không,
Xa
lìa sáu trần không nhiễm-trước.
Pháp-thân
vô hình lìa mọi tướng,
Năng-tướng,
sở-tướng hết đều không.
Như
thế, diệu-pháp-thân chư Phật,
Tướng
ngôn-từ, hí-luận tịch-diệt.
Xa
lìa hết thảy các phân-biệt,
Tâm-hành-xứ
diệt116 thể đều như.
Vì
muốn chứng được thân Như-Lai.
Bồ-tát
khéo tu về muôn hạnh.
Thể
“trí” vô-vi chân-pháp-tính,
Sắc,
tâm hết thảy chư Phật đồng.
Ví
như chim bay đến núi vàng,
Làm
cho thân chim đồng sắc ấy.
Hết
thảy Bồ-tát như chim bay,
Thể
pháp-thân Phật tựa núi vàng.
Tự-thụ-dụng
thân các tướng tốt,
Mỗi
một đầy khắp cõi mười phương.
Bốn-trí
viên-minh hưởng pháp-lạc,
Phật
trước, Phật sau thể đồng nhau.
Tuy
khắp pháp-giới không chướng-ngại,
Diệu-cảnh
như thế không nghĩ, bàn.
Thân
ấy thường-trụ báo-Phật-độ,
Tự
hưởng pháp-lạc không gián-đoạn.
Tha
thụ-dụng-thân các tướng tốt,
Tùy
cơ ứng-hiện không thêm, bớt.
Vì
hóa các Bồ-tát Địa-thượng,
Một
Phật hiện ra mười loại thân.
Tùy
chỗ ứng-hiện đều bất đồng,
Dần-dà
tăng gấp đến vô-cực.
Hợp
căn vì nói các pháp-yếu,
Khiến
hưởng pháp-lạc vào Nhất-thừa.
Vị
được thần-thông dần tăng-trưởng,
Pháp-môn
sở ngộ cũng như thế.
Bồ-tát
Hạ-địa khởi trí-tuệ,
Không
thấu suốt được về Thượng-địa.
Năng-hóa,
sở-hóa tùy Địa tăng,
Đều
tùy bản-duyên làm sở-thuộc.
Hoặc
một Bồ-tát, nhiều hóa Phật,
Hoặc
nhiều Bồ-tát, một hóa-Phật.
Như
thế, mười Phật thành chính-giác,
Đều
ngồi dưới Bồ-đề thất-bảo.
Phật
trước nhập-diệt, Phật sau thành,
Hóa-Phật
chẳng đồng trải kiếp hiện.
Mười
Phật ngồi trên đài hoa sen,
Quanh
khắp đều có trăm nghìn cánh.
Mỗi
một cánh sen một cõi Phật,
Tức
là cõi Tam-thiên đại-thiên.
Trong
mỗi một cõi có trăm ức,
Mặt
trời, trăng, sao bốn đại-châu.
Sáu
cõi trời Dục và bốn Thiền,
Không-xứ,
Thức-xứ đến Phi-tưởng.
Riêng
châu Nam-thiệm trong bốn châu,
Mỗi
một đều có tòa Kim-cương.
Cùng
với Bồ-đề đại-thụ-vương,
Các
thân Phật hóa trong khi ấy;
Nhất
thời chứng được Bồ-đề-đạo,
Quay
xe diệu-pháp trong Đại-thiên.
Bồ-tát,
Duyên-giác và Thanh-văn,
Tùy
chỗ hợp căn thành Thánh-quả.
Như
thế, nói ra ba thân Phật,
Trên
hết, không gì sánh, là “BẢO”.117
Ứng,
Hóa hai thân nói ra pháp,
Giáo,
lý, hành, quả là PHÁP-BẢO.
Chư
Phật lấy PHÁP làm đại-sư,
Tu
tâm chứng được Bồ-đề-đạo.
Pháp-bảo
ba đời không biến-đổi,
Hết
thảy chư Phật đều quy, học.
Tôi
nay đỉnh-lễ Nhất-thiết-trí,
Nên
nói Pháp-bảo là thầy Phật.
Hoặc
vào lửa dữ không cháy được,
Ứng
thời liền được chân giải-thoát.
Pháp-bảo
hủy phá ngục sinh-tử,
Cũng
như Kim-cương phá muôn vật.
Pháp-bảo
soi vào tâm chúng-sinh,
Ví
như mặt trời trên không-giới.
Pháp-bảo
hay làm thuyền bền chắc,
Vượt
qua bể ái lên bờ giác.
Pháp-bảo
hay cho chúng-sinh vui,
Ví
như thiên-cổ hợp thiên-tâm;
Pháp-bảo
hay giúp chúng-sinh nghèo,
Như
ngọc Ma-ni mưa mọi báu.
Pháp-bảo
hay làm thềm Tam-bảo,
Nhân
tu nghe pháp sinh thượng-giới;
Pháp-bảo:
Kim-luân đại-thánh-vương,
Dùng
sức đại-pháp phá bốn ma.
Pháp-bảo
hay làm xe báu lớn,
Chuyên
chở chúng-sinh ra nhà lửa;
Pháp-bảo
hay làm đại-đạo-sư,
Dẫn-dắt
chúng-sinh đến Bảo-sở.
Pháp-bảo
hay thổi loa đại-pháp,
Giác-ngộ
chúng-sinh thành Phật-đạo;
Pháp-bảo
hay làm đèn đại-pháp,
Soi
chỗ tối-tăm trong sinh-tử.
Pháp-bảo
hay làm tên Kim-cương,
Chấn
giữ quốc-giới dẹp mọi oán.
Những
pháp của Phật ba đời nói,
Làm
lợi chúng-sinh khỏi khổ-phọc.
Dẫn
vào thành Niết-bàn an-lạc,
Thế
là ơn PHÁP-BẢO khó trả.118
Trưởng-giả
Trí-quang ông nghe kỹ,
Thế,
xuất-thế Tăng có ba hạng:
Bồ-tát,
Thanh-văn thánh, phàm-chúng,
Là
thửa ruộng phúc, ích chúng-sinh.
Văn-thù-sư-lỵ:
đại-thánh-tôn,
Chư
Phật ba đời cho là mẹ.
Như-Lai
mười phương mới phát tâm,
Đều
do giáo-hóa của Văn-Thù.
Hết
thảy thế-gian, các hữu-tình,
Nghe
tên, thấy thân và hào-quang.
Cùng
thấy thân hóa hiện tùy loại,
Đều
thành Phật-đạo khó nghĩ, bàn,
Di-lặc
Bồ-Tát: Pháp-vương-tử,
Từ
mới phát tâm không ăn thịt.
Bởi
nhân-duyên ấy gọi “Từ-Thị”,
Vì
muốn thành-thục các chúng-sinh.
Ở
cõi thứ tư: Đâu-suất-thiên,
Trong
Như-ý-điện bốn chín trùng.
Ngày
đêm thường nói “bất-thoái-hạnh”,
Vô
số phương-tiện độ Nhân, Thiên.
Nước
tám công-đức119 ao Diệu-hoa,
Chúng-sinh
có duyên đồng sinh đến.
Đệ-tử
Tôi nay giao Di-Lặc,
Trong
hội Long-Hoa được giải-thoát.
Các
Thiện-nam-tử đời mạt-pháp,120
Một
nắm cơm ăn cho chúng-sinh.
Bởi
thiện-căn ấy thấy Di-Lặc,
Cứu-cánh
sẽ được Bồ-đề-đạo.
Ông
Xá-lỵ-phất…Đại-thanh-văn,
Trí-tuệ
thần-thông hóa mọi loài.
Nếu
thành-tựu được giới giải-thoát,
Thực
là người tu-hành chính-kiến;
Vì
người thuyết-pháp truyền Đại-thừa,
Ruộng
phúc như thế là thứ nhất.
Hoặc
có một hạng phàm-phu Tăng,
Giới-phẩm
không trọn, sinh chính-kiến;
Tán-vịnh
Nhất-thừa pháp mầu-nhiệm,
Tùy
phạm, tùy hối, chướng đều trừ.
Vì
muốn chúng-sinh thành Phật nhân,
Phàm-phu
ấy cũng là Tăng-bảo.
Như
Uất-kim-hoa121 tuy héo úa,
Còn
hơn hết thảy các hoa quý.
Tỷ-khưu
chính-kiến cũng như thế,
Bốn
hạng Luân-vương so chẳng kịp.
Như
thế, bốn hạng Thánh, phàm Tăng,
Lợi-lạc
hữu-tình không tạm nghỉ.
Là
ruộng phúc tốt của thế-gian,
Thế
là Tăng-bảo ân-đức lớn.122
Như
Tôi đã nói bốn ân-nghĩa,
Là
ân tạo ra ruộng phúc đời.
Hết
thảy muôn vật từ đấy sinh,
Nếu
rời bốn ân không thể được.
Ví
như các sắc-trần thế-gian,
Sinh
được do nơi bốn ĐẠI123 tạo.
Hữu-tình
thế-gian cũng như thế,
Bởi
bốn ân kia được an-lập.124
Khi ấy, Trí-Quang trưởng-giả cùng con ông v.v…nghe Phật nói về bốn ân lớn ấy, cho rằng được nghe sự chưa từng có bao giờ, hoan-hỷ chắp tay bạch Phật rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại-từ Thế-Tôn! Ngài đã vì những chúng-sinh tà-kiến không tin nhân-quả, không hiếu cha mẹ trong đời trọc-ác, nói chân diệu-pháp đem lại lợi-lạc cho thế-gian, nay kính xin đức Thế-Tôn nói thêm cho về nghĩa báo-ân. Chúng tôi đã ngộ được ý rất sâu của bốn ân nhưng, nay chúng tôi chưa biết tu nghiệp thiện gì để báo được ân ấy.
Đức Phật bảo ông Trưởng-giả: “Các thiện-nam-tử! Trước kia tôi đã vì năm trăm ông Trưởng-giả nói rộng về nghĩa ấy rồi, nay Tôi sẽ vì các ông nói qua chút ít phần mà thôi! Các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn được vô-thượng chính-đẳng chính-giác nên tinh siêng tu-hành mười pháp Ba-la-mật. Song, nếu còn “sở đắc” vẫn chưa được gọi là “báo-ân”. Nếu người nào chỉ trong giây lát làm được một thiện-tâm “vô-sở-đắc” mới được gọi là “báo-ân”. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy Như-Lai tới “vô-sở-đắc” mới thành Phật-đạo, hóa-độ chúng-sinh. Nếu có thiện-nam-tử tịnh-tín nào được nghe kinh này, tín-giải, thụ-trì, giải-thuyết, viết chép, đem “vô-sở-đắc, tam luân thể không”125 riêng vì một người nói pháp bốn câu khiến họ trừ được tâm tà-kiến, xu-hướng đạo Bồ-đề, thế tức là báo tứ-ân. Sao vậy? Vì, người ấy sẽ được Vô-thượng Bồ-đề, triển-chuyển giáo-hóa cho vô-lượng chúng-sinh, khiến họ nhập Phật-đạo làm cho hạt giống Tam-bảo mãi không đoạn-tuyệt”.
Khi ông Trưởng-giả Trí-Quang nghe bài kệ ấy rồi được Nhẫn-nhục tam-muội, yếm-ly thế-gian, được bất thoái-chuyển. Cùng lúc đó, tám nghìn người, con và quyến-thuộc cũng được Tam-muội ấy và đều được tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác; bốn vạn tám nghìn người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu,126 được pháp-nhãn-tịnh.127
TOÁT-YẾU
II.-
PHẨM BÁO-ÂN
Khi đức Thế-Tôn từ chính-định dậy Ngài gọi Bồ-tát Di-Lặc bảo: “Quý hóa! Các ông cùng hết thảy đại-chúng vì muốn thân-cận Tôi, muốn nghe pháp xuất-thế, muốn suy-nghĩ như-như-lý, muốn tu-tập như-như-trí nên tới đây cung-kính,cúng-dàng. Nay Tôi sẽ nói về diệu-pháp (Tâm-địa)), dắt-dẫn chúng-sinh chứng-nhập Phật-trí. Chúng-sinh chỉ xu-hướng về Bồ-đề của Nhị-thừa mà không thích diệu-quả thường-lạc của Đại-thừa. Song, Như-Lai chuyển-pháp-luân tùy bệnh cho thuốc, làm sao phải hợp hoàn-cảnh, hợp thời, hợp trình-độ, hợp pháp, khiến họ thoát khỏi được sự mê-chấp ấy!”
Lúc đó, có 500 ông Trưởng-giả ở thành Vương-xá thấy những ảnh-hiện khó làm ở nơi hào-quang của Phật và nghe đức Phật tán-thán về pháp-môn “Tâm-địa” của Đại-thừa, các ông ấy liền bạch Phật: “Hành-nguyện tu-hành của Bồ-tát không phải là sự “tri-ân, báo-ân” và phải tu lâu lắm mới tới nơi Bồ-đề được, không bằng tu về Thanh-văn, Duyên-giác chóng ngộ đạo và được là báo-ân!”
Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Ơn của thế-gian, xuất-thế-gian có bốn bậc: 1/ Ơn cha mẹ. 2/ Ơn chúng-sinh. 3/ Ơn Quốc-vương. 4/ Ơn Tam-bảo.
Ơn cha mẹ: Cha thuộc từ-ân, mẹ thuộc bi-ân. Bi-ân của mẹ dù nói một kiếp cũng không hết được. Vì sự vất-vả khó-nhọc, hy-sinh và thương nhớ con của mẹ từ khi có thai, khi sinh nở, trưởng-thành cho đến trọn đời, quá lớn-lao không kể xiết được. Ngay như sữa mẹ giúp con sinh-trưởng đến 180 hộc. Do nhân-duyên ấy nơi mẹ có mười thắng-đức. Thế nên, người con biết thừa-thuận cha mẹ, được chư Thiên hộ-niệm, được là dòng-giống của Thiên, Nhân tôn-quý và là Bồ-tát hóa-hiện độ-sinh. Kể sự báo ân cha mẹ vô cùng, nhưng nếu chỉ một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng cha mẹ, công-đức ấy còn gấp trăm nghìn vạn phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ tứ sự và những thứ cao quý cho hàng trăm vị Đại-bà-la-môn, Đại-thần-tiên, bạn lành trong trăm nghìn kiếp.
Ơn chúng-sinh: Hết thảy chúng-sinh từ đời vô-thủy tới nay, đều là cha mẹ họ-hàng lẫn nhau. Hết thảy đàn ông là cha lành, hết thảy đàn bà là mẹ hiền. Đã là cha mẹ, là đã có ơn lớn. Đã có ơn lớn đương nhiên phải trả ơn ấy bằng cách phải làm lợi-ích lẫn nhau, không nên gây vọng-nghiệp, oán-hại, chấp-trước.
Ơn Quốc-vương: Quốc-vương là người đứng đầu việc cai-trị trong một nước. Người đứng đầu việc cai-trị này thành-thực vì chúng-sinh, đem chính-pháp hóa-trị nhân-dân, nhân-dân vui-vẻ, trong nước giàu thịnh, không bị ngoại xâm, nội loạn, ác-quỷ, tật-bệnh, đói thiếu, gió mưa quá thời, trái thời, nhật, nguyệt-thực và tinh-tú biến quái. Trái lại, thì nhân-dân đau khổ, trong nước bất an. Mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của người đứng đầu trong nước đều có quan-hệ mật-thiết đến đời sống, tinh-thần,vận-mệnh của nhân-dân, của quốc-giới và mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của nhân-dân cũng vậy. Việc tu thiện được bảy phần phúc-lợi, người tu được năm phần, Quốc-vương được hai phần; Quốc-vương tu nhân lành nhân-dân cũng đồng hưởng. Do nhân-duyên ấy, Quốc-vương còn được gọi là “Thánh-vương, Thiên-chúa, Nhân-vương, Phúc-đức-vương, Chính-pháp-vương” và, cũng do đó Chính-pháp-vương có mười thắng-đức và được Thiên, Thiện-thần, nhân-dân ủng-hộ. Ân-đức của Chính-pháp-vương rộng lớn đối với nhân-dân như-thế, nhân-dân phải biết cung-kính tôn-trọng đền đáp lại.
Ơn Tam-bảo: Tam-bảo là ba ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng.
Phật-bảo: đầy-đủ ba thân:
1/- Tự-tính-thân (còn gọi là pháp-thân) có Đại-đoạn-đức.
2/- Thụ-dụng-thân (còn gọi là báo-thân) có Đại-trí-đức. Thụ-dụng-thân có 2 tướng: Tự-thụ-dụng-thân và tha-thụ-dụng-thân. Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn hạnh, thành-tựu 4 trí cùng hết thảy các pháp công-đức, được căn-tướng trang-nghiêm. Tha-thụ-dụng-thân là thân của Như-Lai có đầy-đủ các tướng tốt ở nơi chân tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa cho các hàng Bồ-tát được lợi-lạc trong chính-pháp vi-diệu. Ở nơi Thập-địa, Như-Lai hóa-hiện ra mười tha-thụ-dụng-thân. Và, còn hóa-hiện độ cho Duyên-giác, Thanh-văn cùng các chúng-sinh khác.
3/- Biến-hóa-thân có Đại-ân-đức, ứng hiện thân-hình hóa-độ các bậc Thánh, phàm.
Phật-bảo có nhiều ân-đức rộng lớn như thế nên có đầy-đủ 10 hiệu và 6 công-đức vi-diệu.
Tới đây đức Phật dạy tiếp: “Sở-dĩ chư Phật hóa-hiện nhiều thân mà có chúng-sinh không được gặp là vì do chúng-sinh tạo nhiều nghiệp ác, tội-căn sâu nặng, cũng như người mù không trông thấy mặt trời vậy!”
Pháp-bảo: Pháp-bảo vô-lượng nghĩa nhưng, chia làm 4 loại: giáo-pháp, lý-pháp, hành-pháp và quả-pháp.
Pháp-bảo là phương-pháp dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo là thầy chư Phật. Pháp-bảo như kim-cương, như mặt trời, như ngọc Ma-ni, như tiếng trống cõi trời, như thềm báu, như thuyền lớn, như Chuyển-luân-vương, như y-phục đẹp, như giáp-trụ bền, như gươm trí-tuệ, như xe báu, như đèn sáng, như binh-khí, như đạo-sư.
Chư Phật trong ba đời nói ra diệu-pháp bất-tư-nghị ấy làm cho chúng-sinh giác-ngộ, nên Pháp-bảo có ân-đức bất-tư-nghị.
Tăng-bảo: Trong sự tu-hành, hóa-độ, thế-gian xuất-thế-gian có ba hạng Tăng:
1/- Bồ-tát-tăng: Các vị tu lục-độ, vạn hạnh như Bồ-tát Di-Lặc, Văn-Thù v.v…
2/- Thanh-văn-tăng: Các vị tu tứ-đế chứng Thánh-đạo như ông Xá-lỵ-phất v.v…
3/- Phàm-phu-tăng: Các vị chân-thiện phàm-phu được biệt-giải-thoát-giới và những vị đầy-đủ chính-kiến đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
Ba hạng Tăng trên được gọi là “Chân-phúc-điền-tăng”.
Còn một hạng nữa là Phúc-điền-tăng. Phúc-điền-tăng là những vị có tâm tín-kính Tam-bảo, thâm-tín nhân-quả, thuờng phát thiện-nguyện, đầy-đủ chính-kiến, mặc dù những vị ấy có hủy giới cấm.
Tất cả các hạng Thánh, phàm Tăng-bảo trên luôn luôn đem lại sự lợi-ích cho chúng-sinh, nên có ân-đức lớn đối với chúng-sinh. Phật, pháp, Tăng được gọi là Bảo vì có mười nghĩa: bền chắc, không nhơ, cho vui, khó gặp, phá nghèo, uy-đức, mãn-nguyện, trang-nghiêm, tốt diệu và bất biến.
Nay muốn trả bốn ơn lớn-lao ấy cần phải tu-hành đầy-đủ ba bậc: danh-tự, thân-cận, chân-thực trong mười pháp Ba-la-mật-đa: 1/ Bố-thí. 2/ Trì-giới. 3/ Nhẫn-nhục. 4/ Tinh-tiến. 5/ Thiền-định. 6/ Bát-nhã. 7/ Phương-tiện. 8/ Nguyện. 9/ Lực. 10/ Trí.
Khi nghe đức Phật nói về sự tri-ân, báo-ân rồi, các ông Trưởng-giả cùng vô số chúng-sinh phát-tâm Bồ-đề và trong đó có nhiều người chứng được đạo-quả.
Đức Phật kết-khuyến: “Sau đây nếu ai thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép và truyền-bá phẩm báo-ân này, hiện-tại được chư Thiên vệ-hộ, mạnh-khỏe, sống lâu, phúc-tuệ thêm lên, đương-lai được sinh trong hội Long-Hoa của đức Di-Lặc và sẽ được thành Phật”.
Sau đó đức Phật lại giảng lại ý-nghĩa tri-ân, báo-ân như trên bằng lời kệ, thể theo lời thỉnh-cầu của ông Trưởng-giả Trí-Quang ở nước Tăng-trưởng phúc. Sở-dĩ có sự giảng lại như thế vì ông Trí-Quang muốn giác-ngộ cho người con ác nghịch của ông.
Kết-quả
cuộc thuyết-pháp về sự báo-ân lần thứ hai này ông Trưởng-giả
Trí-Quang cùng quyến-thuộc đều được Nhẫn-nhục tam-muội,
phát tâm vô-thượng bất thoái-chuyển và những người khác
cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.
1 Báo-ân: Những người có ơn đức với mình, mình tận-tâm, chí-lực đền đáp lại.
2 Di-Lặc: Tiếng Phạm gọi là “Mai-đê-lê” (Maitrya) Tàu dịch nghĩa là “Từ-Thị”. “Di-Lặc” là tên họ, chính tên là “A-dật-đa” (Adjita), Tàu dịch nghĩa là “Vô-năng-thắng”. Ngài sinh trong họ Bà-la-môn, thuộc Nam-Ấn-độ. Ngài là vị Bổ-xứ Bồ-tát, nối Phật Thích-Ca làm Giáo-chủ cõi Sa-bà sau này.
3 Như-như-lý, như-như trí: “Như-như”: lý-thể của pháp-tính bình-đẳng không hai, nên gọi là “như” và các pháp này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”, là chính-trí hợp với lý-thể. Đại-thừa Nghĩa-chương nói: “Như-như là chính-trí hợp với lý-thể: thể của các pháp đồng, nên gọi là “như”. Trong “nhất-như”, thể của nó đầy-đủ trong pháp-giới Hằng-sa Phật-pháp, tùy pháp phân-biệt “như”, thời nghĩa “như” chẳng phải một, mà này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”. “Như” không hư-vọng, nên trong kinh cũng gọi là “Chân-như”. “Như-như-lý” là lý thể như-như. “Như-như-trí” là trí-tuệ hợp lý-thể như-như.
4 Tương-ứng: Có nghĩa là khế-hợp với nhau.
5 Bất-cộng : Công-đức của Phật không cộng đồng với các hàng Nhị-thừa, Bồ-tát nên gọi là “bất-cộng”. Theo trong kinh thời đức bất-cộng của Phật có 18 pháp: 1/ Thân không lầm. 2/ Miệng không lầm. 3/ Niệm không lầm. 4/ Không có tưởng khác. 5/ Không có cái gì là không định tâm. 6/ Không có cái gì là không biết xả. 7/ Lòng mong muốn độ-sinh không diệt (chữ “diệt” có chỗ lại in là chữ “giảm”). 8/ Tinh-tiến không diệt. 9/ Niệm không diệt. 10/ Tuệ không diệt. 11/ Giải-thoát không diệt. 12/ Giải-thoát tri-kiến không diệt. 13/ Hết thảy nghiệp thân làm theo trí-tuệ. 14/ Hết thảy nghiệp khẩu làm theo trí-tuệ. 15/ Hết thảy nghiệp ý làm theo trí-tuệ. 16/ Trí-tuệ biết được đời quá-khứ không bị chướng-ngại. 17/ Trí-tuệ biết được đời vị-lai không bị chướng-ngại. 18/ Trí-tuệ biết được đời hiện-tại không bị chướng-ngại.
6 Đoạn trên từ câu “Bấy giờ, đức Thế-Tôn…” đến chỗ “chính-giác” là đức Phật khen các Bồ-tát tới nghe pháp và Ngài nói Ngài sẽ thuyết về diệu-pháp Tâm-địa. Ngài than chúng-sinh không biết hướng về Đại-thừa. Song, nếu ai biết, nghe qua diệu-pháp này sau sẽ thành Phật.
7 Tư-lương: “Tư” là tư-trợ (giúp-đỡ), “lương” là lương-thực. Như người đi xa phải nhờ lương-thực giúp đỡ thân mình. Người tu-hành muốn chứng quả Tam-thừa, cần phải lấy công-đức thiện-căn làm lương-thực, để giúp-đỡ thân mình.
8 Đoạn trên , từ chỗ “Khi ấy…” đến chỗ “báo-ân” là nói về các ông Trưởng-giả nghe Phật nói về pháp-môn Tâm-địa của Đại-thừa khó quá không muốn, chỉ muốn tu về Nhị-thừa chóng và mới là báo-ân.
9 Đoạn trên từ chỗ “Đức Phật…” đến chỗ “gánh chịu”, đức Phật khen các ông Trưởng-giả và Ngài nói: thế-gian, xuất-thế-gian có 4 ơn.
10 Chiên-đàn (Candana): Tên một thứ gỗ thơm ở núi Ma-la-da, Nam Ấn-độ. Núi này hình đầu. trâu nên gọi là Ngưu-đầu. Có chỗ gọi là Ngưu-đầu chiên-đàn, Tàu dịch là “dữ-lạc” (cho vui), vì nó chữa được bệnh.
11 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử ! Ơn cha mẹ…” cho đến chỗ “báo ơn phụ mẫu như thế!” đức Phật giải-thuyết rõ về ơn cha mẹ; nhất là ơn mẹ đối với con phải báo đáp lại.
12 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử ! Ơn chúng-sinh…” cho đến đây, đức Phật nói rõ về chúng-sinh trong 3 đời đều là thân-thích với nhau, cần phải làm lợi-ích cho nhau.
13 Tám-nạn: Thấy Phật, nghe pháp có 8 chỗ chướng-nạn: 1/ Địa-ngục. 2/ Ngã-quỉ. 3/ Súc-sinh. 4/ Bắc Câu-lô-châu được hưởng quả-báo vui sướng thù-thắng, cho là không có khổ. 5/ Ở các cõi trời trường-thọ, an-ổn, cho là không có khổ. 6/ Điếc, mù, câm, ngọng. 7/ Trí đời biện-thông. 8/ Sinh trong khoảng giữa đức Phật trước, đức Phật sau.
14 Ngũ-cốc: 5 giống thóc: lúa nếp, kê, đậu, lúa mì, lúa sạ.
15 Đoạn trên từ chỗ “Ơn quốc-vương….” “đến chỗ như thế!” đức Phật nói rõ phúc-đức và ảnh-hưởng sự cai trị của vị Nguyên-thủ chân-chính trong một nước rất lớn lao, cùng ảnh-hưởng về hành-động của người dân đối với quốc-gia cũng rất hệ-trọng.
16 Đoạn trên, nêu chung chỗ tu nhân và công-đức Tam-bảo đối với chúng-sinh.
17 Ba-thân: Chư Phật có 3 thân: 1/ Tự-tính-thân: thể-tính chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng trong hết thảy pháp. Còn gọi là “Pháp-thân” là chân-thân của Phật đầy-đủ vô-lượng pháp-công-đức. 2/ Thụ-dụng-thân hay là “báo-thân”: Do tu nhiều công-đức được quả-báo sắc-thân thanh-tịnh, trang-nghiêm và được hưởng pháp-lạc rộng lớn nhiệm-mầu. 3/ Biến-hóa-thân: Do Phật-trí biến hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ chúng-sinh mà hóa-độ.
18 Đại-đoạn-đức: Đoạn-trừ hoàn-toàn hết thảy phiền-não; đầy-đủ vô-thượng Niết-bàn.
19Nhị không : Hai thứ “không”, chia làm 5 loại:
A.- 1/ Nhân không (còn gọi là ngã-không, sinh-không): người và ta là không. 2/ Pháp-không: các pháp là không.
B.- 1/ Tính-không: pháp không có thực-tính. 2/ Tướng-không: pháp không có thực-tính chỉ có giả-tướng, tướng ấy chẳng phải thực.
C.- 1/ Đản-không: Tiểu-thừa chỉ cần thấy không. 2/ Bất đản không: Đại-thừa không những thấy không, mà cả cái thấy không cũng không.
D.- 1/ Nội không: Nội-thân là không. 2/ Ngoại-không: Khí-vật bên ngoài là không.
E.- 1/ Như-thực-không: thể chân-như, trong không có các vọng-nhiễm. 2/ Như-thực bất không: thể chân-như trong đủ hết thảy công-đức vô-lậu.
20 Toàn câu “Phật thân thứ nhất…” này nói: về tự-tính-thân, thể khắp pháp-giới, bình-đẳng thanh-tịnh, đoạn diệt hết thảy, nhân-không, pháp-không hiển-lộ, nên chư Phật chứng tự-tính-thân, là thể-nhập bình-đẳng.
21 Đại-trí-đức: Phá hoàn-toàn hết thảy sự mê-lầm không biết ; đầy-đủ vô-thượng-giác.
22 Toàn câu “Phật thân thứ hai…” này nói: Báo-thân do trí-tuệ thành, thành với lẽ chân-thực, thường hằng, không dò-rỉ, không biến-đổi. Không biến-đổi, là thường-hằng, chân-thực, tức là không còn sự suy-lường về ngã-tính, mà đồng một ý trong chung cùng và bình-đẳng tất cả; nghĩa là Phật, Phật đều đồng.
23 Đại-ân-đức: Đầy-đủ hoàn-toàn tâm đại-bi, cứu giúp hết thảy chúng-sinh.
24 Toàn câu “Phật thân thứ ba…” này nói: chư Phật đồng một tâm đại-bi, đồng một sự độ-sinh, nên tùy cơ nhập-định, hiện thần-thông và thị-hiện thân-hình.
25 Hí-luận : Bàn đùa. Là ngôn-luận phi-lý, vô-nghĩa, là giả-danh không thực.
26 Toàn câu “tự-tính-thân…” này đại-ý nói : pháp-thể của nó không còn sinh-diệt, tạo-tác, không còn danh-ngôn giả đặt, không còn cục-hạn, mà nó là như-như và cùng khắp.
27 Tự-thụ-dụng thân: Thân do tu phúc-đức, trí-tuệ thành, tự được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị trong cõi thực-báo trang-nghiêm.
28 Tha-thụ-dụng-thân: Đem tính-đức do quả-báo mình được, hiện ra 10 thân, làm cho các Bồ-tát Thập-địa được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị.
29 Thập-địa-mãn-tâm: Thập-địa là: 1/ Hoan-hỷ-địa 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi, dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “địa”. Thập-địa mãn-tâm tức là ngôi Đẳng-giác.
30 Sắc-cứu-cánh-thiên: Tiếng Phạm gọi là A-ca-ni-tra thiên (Akanistha). Tên một cõi trời cao nhất trong 18 cõi của Sắc-giới.
31 Câu này ví-dụ cho địa-vị tối-cao của Bồ-tát.
32 Hậu-báo: Đây là nói quả-báo tối-hậu của Bồ-tát.
33 Sở-tri-chướng, phiền-não-chướng: Đây là hai chướng: 1/ Phiền-não-chướng: Nghiệp buộc chúng-sinh trong sinh-tử, do đó, làm chướng-ngại lý Niết-bàn tịch-tĩnh. 2/ Sở-tri-chướng: tham, sân, si… làm mê-ám, không hiểu biết được sự-tướng và thực-tính của các pháp, tức là làm chướng-ngại diệu-trí bồ-đề.
34 Đoạn trên, từ chỗ “chân-báo-thân…” đến chỗ “pháp-giới” là nói: do diệt-trừ hết phiền-não, thành diệu-quả, là được chân-báo-thân (tự-thụ-dụng-thân). Được chân báo-thân thời kể từ đó là đầu, nên gọi là “hữu thủy” nhưng, “vô chung”, nghĩa là sự sống lâu không cùng-tận. Và, từ khi được chân-báo-thân, chính-báo trang-nghiêm cùng khắp.
35 Pháp-lạc : Lấy pháp-vị làm vui tâm-thần gọi là “pháp-lạc”. Làm thiện, tích-đức, để tự vui cũng là “pháp-lạc”.
36 Dị-thục (Vipaka): Xưa dịch là “quả-báo”, nay dịch là “dị-thục”. Dị-thục là tên chung của quả-báo do y vào thiện, ác quá-khứ mà được. Và, nó có tính-chất quả khác nhân mà thành-thục, như thiện-nghiệp cảm lạc-quả, ác-nghiệp cảm ác-quả v.v…Theo Duy-thức thuật-ký thời “Dị-thục hoặc khác thời mà chín (dị thời nhi thục), biến khác mà chín (biến dị nhi thục), khác loại mà chín (dị loại nhi thục). Di-thục-thức là tên riêng của thức thứ 8.
37 Chân-đế, tục-đế: “Chân-đế”: thực-nghĩa của chân-lý, là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy. Còn gọi là “không-đế” hay “thắng-nghĩa-đế”. “Tục-đế”: thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “giả-đế” hay “thế-đế”.
38 Đoạn trên từ chỗ “Một là”… đến chỗ “công-đức” là nói: do chuyển thức thứ 8 mà thành Đại-viên-kính trí. Nơi đây bao gồm bi, trí, chân, tục-đế, duy-trì căn-thân vô-lậu và làm chỗ y-chỉ cho hết thảy công-đức.
39 Ngã-kiến-thức: “Ngã-kiến” là “chấp-ngã”: thân tâm này do 5 uẩn giả-hợp, lại coi là “thường hằng”, đối với cái “phi-ngã-chấp”, chấp càn là “ngã” (ta), nên gọi là “ngã-kiến”. Ngã-kiến-thức tức là thức Mạt-na thứ 7. Thức này phân-biệt, chấp thức thứ 8 làm “ngã”. Thức này luôn luôn tương-ứng với si, kiến, mạn, ái nên gọi là “ngã-kiến-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là trừ bỏ được chấp-ngã, thành “Bình-đẳng tính-trí”.
40 Phân-biệt-thức: Tức là Ý-thức thứ 6. Đối với 6 trần, các cảnh, thức này hay khởi ra sự phân biệt, gọi là “Phân-biệt-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là bỏ được sự phân biệt, thành “Diệu-quán-sát-trí”.
41 Tự-tướng, cộng-tướng: Các pháp có hai tướng: Tướng riêng là “tự-tướng”, tướng chung là “cộng-tướng”. Tướng cục-hạn nơi tự-thể là “tự-tướng”; tướng thông cả với người gọi là “cộng-tướng”.
42 Đoạn trên, từ chỗ “Hai là…” đến chỗ “Như-Lai” là nói về chuyển thức thứ 7, thức 6 cùng 5 thức trước thành trí-tuệ; do 4 trí này thành 84.000 trí. Và, kết-thành cho rằng tự-thụ-dụng-thân có hết thảy các công-đức.
43 Nhất-thừa: Giáo-pháp duy-nhất để thành Phật. “Thừa” là cỗ xe, lấy ví-dụ cho giáo-pháp của Phật. Giáo-pháp hay chở người, đi đến bờ Niết-bàn, nên gọi là “Thừa”.
44 Ba mươi hai tướng: 1/ Lòng bàn chân bằng. 2/ Lòng bàn chân có nghìn vòng xoáy. 3/ Ngón tay thon dài. 4/ Tay chân mềm-mại. 5/ Tay, chân có màng lưới giao-tiếp. 6/ Gót chân đầy-đặn. 7/ Mu chân cao đẹp. 8/ Vế tròn lăm như con hươu. 9/ Tay dài quá gối. 10/ Dương-vật ẩn-tàng như dương-vật con ngựa. 11/Mình cao lớn, từ chân đến đầu cao bao nhiêu, 2 tay duỗi ra cũng bằng ấy. 12/ Lỗ chân lông sinh sắc xanh. 13/ Lông trên mình chia xoáy hướng đều. 14/ Thân sắc vàng. 15/ Luôn luôn có hào-quang phóng xa một trượng. 16/ Da-dẻ mịn bóng. 17/Bảy nơi: 2 lòng bàn chân, 2 lòng bàn tay, 2 vai và đỉnh đầu đều đầy, bằng. 18/ Hai nách đầy-đặn. 19/ Thân uy-nghiêm như sư-tử. 20/ Thân hình đoan-chính. 21/ Vai tròn , đầy. 22/ Có 40 cái răng. 23/ Răng trắng, bằng và khít. 24/ Bốn răng nanh trắng sạch. 25/ Má đầy như má sư-tử. 26/ Nước tân-dịch trong cổ họng có thượng-vị. 27/ Lưỡi dài, rộng. 28/ Tiếng phạm-âm (thanh-tịnh) vang xa và sâu nhiệm. 29/ Con ngươi mắt xanh-biếc. 30/ Lông mi mắt cong dài, đẹp như lông mi mắt trâu. 31/ Khoảng giữa hai lông mày có tia hào-quang trắng. 32/ Đầu có nhục-kế (thịt nổi lên như búi tóc).
45 Tám mươi thứ tốt: 80 thứ (giống) tốt này y theo 32 tướng mà phân-biệt tỷ-mỷ ra: 1/ Vô-kiến-đỉnh (tướng nhục-kế cao không trông thấy được). 2/ Mũi cao không thấy lỗ. 3/ Lông mày như mặt trăng đầu tháng mới mọc. 4/ Vành tai rủ xuống. 5/ Mình dắn chắc như lực-sĩ. 6/ Chỗ đầu xương giao nhau như vòng câu. 7/ Khi quay lại, nhất thời thân quay lại như voi quay lại. 8/ Khi đi, chân cách đất 4 tấc, mà đất vẫn có vằn in xuống. 9/ Móng tay, chân mỏng, bóng và đỏ như đồng đỏ. 10/ Xương đầu gối dắn, tròn và đẹp. 11/ Thân thanh-khiết. 12/ Thân mềm-mại. 13/ Thân không nghiêng-vẹo. 14/ Ngón tay tròn, thon, nhỏ. 15/ Vằn ngón tay lặn khuất. 16/ Mạch sâu không nổi. 17/ Mắt cá chân không nổi. 18/ Thân bóng đẹp. 19/ Thân tự giữ được không xiên-xẹo. 20/ Thân đầy-đủ. 21/ Dung-nghi bị-túc. 22/ Dung-nghi đầy-đủ. 23/ Trụ-xứ yên không động. 24/ Uy-đức chấn-động hết thảy. 25/ Hết thảy chúng-sinh thấy đều vui. 26/ Mặt không dài, lớn. 27/ Dung-mạo nghiêm-chỉnh, sắc không biến-đổi. 28/ Mặt tròn đầy. 29/ Môi sắc đỏ như quả Tần-bà. 30/ Tiếng nói vang xa, sâu-nhiệm. 31/ Rốn sâu, tròn, đẹp. 32/ Lông xoáy về bên hữu. 33/ Tay, chân đầy-đặn. 34/ Tay, chân như ý. 35/ Vằn tay thẳng, rõ. 36/ Vằn tay dài. 37/ Vằn tay không đứt. 38/ Hết thảy chúng-sinh có ác-tâm trông thấy đều vui-mừng. 39/ Mặt rộng đẹp lạ. 40/ Mặt đầy-đặn, trong-trẻo như mặt trăng. 41/ Theo ý hòa-duyệt của chúng-sinh mà nói. 42/ Từ nơi lỗ chân lông tỏa ra hơi hương. 43/ Từ miệng tỏa ra mùi hương vô-thượng. 44/ Nghi-dung như sư-tử. 45/ Đi, ở như voi đầu đàn. 46/ Tướng đi như con ngan đầu đàn. 47/ Đầu như quả Ma-đà-na. 48/ Đầy-đủ hết thảy tiếng. 49/ Bốn răng nanh trắng nhọn. 50/ Lưỡi màu đỏ. 51/ Lưỡi mỏng. 52/ Lông màu đỏ. 53/ Lông mềm sạch. 54/ Mắt dài rộng. 55/ Đủ tướng tử-môn. 56/ Tay, chân trắng hồng như màu hoa sen. 57/ Rốn không lồi ra. 58/ Bụng không phình. 59/ Bụng nhỏ. 60/ Thân không rung-động, nghiêng-ngả. 61/ Thân trì-trọng. 62/ Thân to lớn. 63/ Thân cao. 64/ Tay chân mềm, sạch, trơn bóng. 65/ Hào-quang bốn bên phóng ra xa một trượng. 66/ Ánh sáng soi cho thân đi. 67/ Coi chúng-sinh bình-đẳng. 68/ Không khinh chúng-sinh. 69/ Theo giọng tiếng chúng-sinh, không thêm, không bớt. 70/ Thuyết-pháp không chấp trước. 71/ Thuyết-pháp theo tiếng nói của chúng-sinh. 72/ Cất giọng nói hợp tiếng chúng-sinh. 73/ Theo nhân-duyên thuyết-pháp lần-lượt. 74/ Hết thảy chúng-sinh xem dung-tướng mãi không hết. 75/ Xem không thấy chán và đủ. 76/ Tóc dài đẹp. 77/ Tóc không rối. 78/ Tóc cuộn đẹp. 79/ Màu tóc như ngọc xanh. 80/ Tay, chân coi dáng có đức.
46 Hàng-Tư-lương: Tức Tư-lương-vị là: Thập- trụ. Thập-hành và nửa phần trong Thập Hồi-hướng.
47 Tứ-thiện-căn: 4 thiện-căn (tức Gia hành-vị), là 4 môn thiền-định và là mãn-vị của Thập hồi-hướng: 1/ Noãn: hơi nóng, ví cho lửa trí-tuệ sắp phát-khởi. 2/ Đỉnh: ví như đỉnh núi có thể lên xuống. 3/ Nhẫn: nhẫn-tiến. 4/ Thế-đệ-nhất: pháp tối-thắng hơn đời.
48 Saú Ba-la-mật: 1/ Đàn-na (bố-thí) Ba-la-mật-đa (Dànapàramità). 2/ Thi-la (trì-giới) Ba-la-mật-đa (Silapàramità). 3/ Sàn-đề (nhẫn-nhục) Ba-la-mật-đa (Ksantipàramità). 4/ Tì-lê-gia (tinh-tiến) Ba-la-mật-đa (Viryapàramità). 5/ Thiền-na (thiền-định) Ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità). 6/ Bát-nhã (tuệ) Ba-la-mật-đa (Prajnàpà-ramità).
49 Mười hai nhân duyên: 1/ Vô-minh. 2/ Hành. 3/ Thức. 4/ Danh-sắc. 5/ Lục-nhập. 6/ Xúc. 7/ Thụ. 8/ Ái. 9/ Thủ. 10/ Hữu. 11/ Sinh. 12/ Lão tử.
50 Tứ-đế: Khổ, tập, diệt, đạo.
51 Đây là mười hiệu của Phật :
1/ Như-Lai: (Đa đà a già đà: Tathàgata): Noi theo đạo như thực, thành ngôi chính-giác,
2/ Ứng-cúng (A-la-ha: Arhat): Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên.
3/ Chính-biến-tri (Tam miệu tam Phật-đà: Samya Ksambuddha): Chính thực biết khắp hết thảy mọi pháp.
4/ Minh-hành-túc (Bệ đa thứ la na tam bát na: Vidyàcaranampanna): Thực-hành đầy-đủ ba phép minh: a.- Túc-mệnh-minh: Biết tướng sinh-tử đời trước của thân mình và thân người. b.- Thiên-nhãn-minh: Biết tướng sinh-tử đời vị-lai của thân mình và thân người. c.- Lậu-tận-minh: Trí-tuệ biết khổ-tướng hiện-tại, dứt hết thảy phiền-não.
5/ Thiện-thệ (Tu-già-đà: Sugata): Nghĩa là “đi tốt”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi trên đường bát chính, rảo tới Niết-bàn.
6/ Thế-gian-giải (Lộ-già-bị: Lokavid): Hiểu rõ những sự thuộc hữu-tình và phi-tình ở thế-gian.
7/ Vô-thượng-sĩ (A-nốc-đa-la: Anuttara): Trong các pháp, Niết-bàn là hơn cả và, trong hết thảy chúng-sinh, Phật là vô-thượng.
8/ Điều-ngự trượng-phu: (Phú lâu sa nẵng miệu bà la đề: Puru-sa-dnmya-sàrathi): Phật tùy thời dùng lời hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ thiết…trông nom, điều-trị chúng-sinh, làm cho họ không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo.
9/ Thiên-nhân-sư: (Xá đa đề bà ma nâu sa nẫm: Sastà-deavama-nusyànàm): Phật là bậc Đạo-sư cõi Nhân, cõi Thiên, thường hay dạy bảo những sự nên làm.
10/ Phật, Thế-tôn (Phật-đà, Lô-ca-na-tha: Buddha-Locanatha): Phật nghĩa là người giác-ngộ, Thế-Tôn có nghĩa là được thế-gian tôn-trọng. Thế-Tôn còn có chỗ gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavàn).
52 Đoạn trên , từ chỗ “Thiện-nam-tử!” (trang 38) đến chỗ “chứng Bồ-đề” là nói về Tha-thụ-dụng-thân của Phật-bảo. Phật-bảo biến-hóa nhiều thân độ cho các Bồ-tát Thập-địa, Nhị-thừa, Nhân, Thiên chóng được cứu-cánh Niết-bàn. Vì vậy, Phật-bảo có 10 hiệu, 6 công-đức vi-diệu. Và, sở-dĩ chúng-sinh không được thấy Phật-bảo, vì chúng-sinh tạo nhiều ác-nghiệp.
53 Thanh, danh, cú, văn: Là tiếng nói của Phật nói ra những giáo-pháp cao-siêu (vô-lậu) nhưng, phải dùng đến tên gọi, đặt thành từng câu và văn-tự để làm cửa hiển-lộ.
54 Bốn loại ma: 1/ Phiền-não ma (tham, sân, si ). 2/ Ngũ-ấm-ma (sắc, thụ, tưởng, hành, thức ). 3/ Tử-ma (sự chết). Tha-hóa-tự-tại-thiên-ma.
55 Bảo-sở: Nơi có những ngọc báu. Đây ám-chỉ cho Nhất-thừa, Bồ-đề, Niết-bàn.
56 Đoạn trên, từ chỗ “Các thiện-nam-tử!....” (trang 41) cho đến chỗ “không thể nghĩ, bàn được” là nói về Pháp-bảo. Pháp-bảo có: giáo, lý, hành, quả. Pháp-bảo là thầy chư Phật, là tất cả những cái đem lại lợi-ích an-vui cho chúng-sinh và tới chỗ giải-thoát.
57 Biệt-giải-thoát-giới: Là một trong ba thứ luật-nghi. Trong Dục-giới, y vào sự tác-pháp thụ các giới-pháp, giới-pháp ấy phát-sinh giới-thể, làm cho thân, khẩu ác-nghiệp được giải-thoát riêng-biệt.
58 Xá-lỵ (Sarira): Có chỗ gọi là “Thất-lỵ-la” hay “Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân cốt của Phật. Xá-lỵ do vô-lượng công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu của Giới, Định, Tuệ mà thành. Xá-lỵ có 3 hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen là xá-lỵ bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ: 1/ Toàn thân xá-lỵ: Như xá-lỵ Phật Đa-bảo (trong kinh Pháp-hoa). 2/ Toái-thân-xá-lỵ: Thân đốt vụn ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có hai thứ nữa: 1/ Sinh-thân-xá-lỵ: Thân do tu Giới, Định, Tuệ mà thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt lưu lại thân cốt, làm cho Nhân, Thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi-mãi. 2/ Pháp thân-xá-lỵ: Tức là hết thảy kinh sách Đại, Tiểu-thừa.
59 Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử! Thế-gian…” (trang 42) đến chỗ “không thể nghĩ-bàn được”, đức Phật nói rõ về giới-đức của 3 hạng Chân-phúc-điền-tăng và một hạng Phúc-điền-tăng. Ai cúng-dàng 4 hạng Tăng ấy đều được phúc-đức vô-lượng.
60 Bể bất-tư-nghị: “Bất-tư-nghị”: hoặc là lý sâu-sa, huyền-diệu, hoặc là sự hiếm có lạ-lùng, không thể dùng tâm suy-nghĩ và không thể dùng lời bàn-bạc được. Đây nói Tam-bảo có nhiều sự, lý bất tư-nghị ấy nên gọi là “bể bất-tư-nghị”.
61 Bình Thiên đức: Cái bình hiện ra tất cả những thứ theo như tâm mong muốn, như ngọc Như-ý vậy. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm bồ-đề là bình Thiên-đức, cho đầy-đủ hết thảy sự mong muốn.”
62 Tám thứ gió: Còn gọi là 8 pháp. Có 8 pháp là chỗ yêu, ghét của thế-gian, nó hay thổi động tâm người, nên gọi là “tám thứ gió”: 1.- Lợi. 2.- Suy (kém, sút). 3.- Hủy (nói xấu). 4.- Dự (khen-ngợi). 5.- Xưng (tâng bốc). 6.- Cơ (quở-trách). 7.- Khổ. 8.- Lạc (vui).
63 Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ….” ( trang 43) đến chỗ “như thế”, đức Phật nói: Phật, Pháp, Tăng có 10 nghĩa cao-quý, nên được gọi là “Bảo”. Vậy nên cần báo ân.
64 Ba bậc: Tức là danh-tự, thân-cận và chân-thực.
65 Nhẫn-nhục tam-muội: “Tam-muội” là chính-định; “Nhẫn” là nhẫn-khả (an-trụ), tức là y vào pháp-nghĩa của Như-Lai nói ra, nhẫn-khả nơi tâm được an-lạc. “Nhẫn-nhục tam-muội” là do sức định an-trụ nơi đạo-lý, tâm không rung-động mà được yên-vui.
Theo các kinh nói thì : Đẳng-giác Bồ-tát được Kim-cương-nhẫn (an-trụ kiên-cố như kim-cương). Bát-địa Bồ-tát được Vô-sinh-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, diệt bất động). Địa-tiền Bồ-tát được Nhu-thuận-nhẫn (tâm nhu, trí thuận, không trái với thực-tướng). Sơ-địa Bồ-tát được Bất-khởi-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, không khởi).
66 Bất thoái: Tiếng Phạm là A-tỳ-bát-chí (Aviniv-artan hay Avaivartika), có nghĩa là công-đức, thiện-căn càng tăng-tiến mà không lui mất, lui chuyển vậy. Bất-thoái có 3 bậc: Vị-bất-thoái, hành-bất-thoái, niệm-bất-thoái.
67 Hội Long-hoa: Đức Di-Lặc sau đây thành Phật ở dưới cây Long-hoa trong vườn Hoa-Lâm, Ngài mở 3 pháp-hội độ hết chúng-sinh thượng, trung, hạ căn. Cây này cành hoa như đầu rồng nên gọi là “Long-Hoa”.
68 Chính-định-tụ: Có nghĩa là tu tập chính-định, quyết định chứng-ngộ.
69 Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-gỉa…” đến chỗ “Như-Lai”. Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả muốn báo tứ-ân cần tu 3 bậc của 10 Ba-la-mật. Đại chúng nghe pháp chứng-ngộ. Và , ngài khuyên: Ai thụ-trì, tuyên-bá phẩm báo-ân này thời đời này, đời sau được nhiều lợi-ích.
Đến đây hết quyển thứ hai.
70 Do-tuần:(Yojma): Theo Thánh-giáo chép thời mỗi Do-tuần là 16 dậm, mỗi dậm 576 thước tây. Như thế mỗi Do-tuần chừng 9216 thước tây.
71 Tập-khí: Hơi-hướng cuả sự huân-tập (vọng-hoặc), trong Đại-thừa chia ra làm 3 phần: Hiện-hành, chủng-tử và tập-khí. Dẹp hiện-hành, dứt chủng-tử nhưng còn phần hơi-hướng của vọng-hoặc mà hiện ra tướng-trạng của vọng-hoặc, phần ấy là “tập-khí”.
72 140 đức bất cộng: Là: 32 tướng, 80 thứ tốt, 4 tịnh, 10 lực, 4 vô-úy, 3 niệm-xứ, 3 bất-hộ, cùng đại-bi, thường bất-vong-thất (thường không quên mất chính-niệm), đoạn phiền-não-tập và nhất-thiết-trí. Đây là những đức-trí theo nơi Phật được đầy-đủ hoàn toàn mà các bậc khác không có đủ nên gọi là “bất cộng”.
73 Bát tự-tại: Tám nghĩa tự-tại… Còn gọi là “Bát đại tự-tại-ngã”: Niết-bàn có bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đức “ngã” lấy tự-nhiên tự-tại làm nghĩa; tự-tại có 8 nghĩa nên gọi là “bát đại tự-tại-ngã”: 1.- Thị-hiện một thân làm nhiều thân. 2.- Thị-hiện thân như một hạt bụi, đầy khắp cõi Đại-thiên. 3.- Thân lớn nhưng cử-động nhẹ một cái cũng đến được nơi xa. 4.- Hiện thành nhiều loại mà thường thường ở trong một cõi. 5.- Các căn đều có tác dụng hỗ-tương. 6.- Được hết thảy các pháp nhưng tưởng như không có pháp nào. 7.- Nói nghĩa một bài kệ trải vô-lượng kiếp. 8.- Thân biến khắp mọi nơi cũng như hư-không.
Đoạn trên, từ chỗ “tối-thắng…” tới chữ “cung” là những câu kệ tán-thán về thực-đức tự-chứng của Phật.
74 Năng nan: Có nghĩa là hay làm những việc khó làm.
75 Đại-hải-triều: Nước bể lớn lên, xuống đúng thời.
76 Thiên-cổ: Trống cõi trời.
77 Kiếp-hải: Kiếp số nhiều ví như nước bể.
78 Đại-tịch-thất: Nhà rất yên-lặng. Là chỉ cho nơi nhập-định. “Đại-tịch” có nghĩa là xa-lìa hết thảy sự tán-động, được tịch-tĩnh rốt-ráo.
79 Tam không: 3 lý không, tức là 3 môn giải-thoát: Không, vô-tướng, vô-nguyện (Xem chú-giải của Phẩm-tựa, phần chú-giải số 53).
80 Đoạn trên, từ chỗ “Nhân, Thiên…” đến chỗ “phần nhỏ”, nói về quyền-đức hóa-tha của Phật.
81 Năm ác-trọc: Tức là ngũ-trọc ác-thế “Thế-gian có 5 thứ vẩn-đục, tệ-ác”: 1.- Kiếp-trọc: Thời-gian có 4 thứ ác-trọc sau. 2.- Kiến-trọc: Những tư-tưởng chấp trước, tà-vạy (như 5 lợi-sử). 3.- Phiền-não-trọc: Nhiều tham, sân, si, v.v… 4.- Chúng-sinh-trọc: Chúng-sinh nhiều khổ, ít vui. 5.- Mệnh-trọc: Thọ-mệnh ngắn-ngủi (chết non).
82 Đoạn trên, từ chỗ “thế-gian” đến chỗ “Bồ-đề-đạo” là nêu chung về bốn ân cần trả.
83 Lục thân: Sáu bậc thân-tình: Cha, mẹ, vợ, con, anh, em.
84 Đoạn trên, từ chỗ “từ phụ” tới chỗ “tu-học” đức Phật nhắc lại ân-đức phụ-mẫu cần phải trả.
85 Sáu thời: Sáng, trưa, chiều, chập tối, nửa đêm, gần sáng.
86 Túc-trụ-trí: Tức là Túc-mệnh-thông.
87 Bốn loại sinh: Loại sinh trứng, loại sinh con, loại sinh nơi ẩm-thấp và loại hóa-sinh.
88 Đoạn trên, từ chỗ “Chúng-sinh” đến chỗ “vô-thượng-đạo”, đức Phật nhắc lại ơn chúng-sinh cần phải trả.
89 Đoạn trên, từ chỗ “Mười phương” đến chỗ “vinh-lộc” là nhắc ân-đức của Quốc-vương đối với quốc-dân.
90 Ba tịnh-giới: 1.- Nhiếp luật-nghi-giới: giữ giới-luật. 2.- Nhiếp thiện-pháp-giới: tu hết thảy pháp lành. 3.- Nhiếp chúng-sinh giới hay Nhiêu-ích hữu-tình-giới: làm lợi-ích chúng-sinh.
91 Đoạn trên, từ chỗ “Trưởng-giả” tới chỗ “thân vua”, nói về nhân-quả của Quốc-vương.
92 Đoạn trên, từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “làm vua” là biện-biệt về giới-phẩm.
93 Phủ-dục: Vỗ-về, nuôi-nấng.
94 Tam-tụ-giới: Tức là “Ba tịnh-giới” đã chú-thích trong phẩm này số 90.
Đoạn trên, từ chỗ “Bởi vì” đến chỗ “tam-tụ-giới” là nêu rõ nhân, chỉ rõ quả.
95 Sám: Tức là “Sám-hối”. Sám tiếng Phạm gọi đủ là “sám-ma” (Ksamayati). Tàu dịch là “Hối-quá”, có nghĩa là tự mình bày-tỏ những lỗi-lầm trước, ăn-năn từ nay sửa-đổi và không dám phạm nữa. Sám-hối là hai chữ ghép chung của tiếng Phạm (Ấn-độ) và tiếng Hán mà thành.
96 Mười duyên: Tức là mười nghiệp thiện hay ác do thân, khẩu, ý tạo ra.
97 Hiện-hành, chủng-tử: A-lại-gia thức có công-năng sinh hết thảy pháp gọi là “chủng-tử (hạt giống). Từ đây sinh ra các pháp của sắc, tâm gọi là “hiện-hành”: những hành-động hiển-hiện.
98 Tạng-thức: Tức là thức A-lại-gia thứ 8. “Tạng” có 3 nghĩa: năng-tạng, sở-tạng và ngã-ái-chấp-tạng. Tạng-thức gìn-giữ và liên-lạc với hết thảy hạt giống.
99 Tứ-thiền: 4 cõi thiền-định là Sơ, Nhị, Tam, Tứ-thiền. Tứ-thiền bao gồm 18 cõi trời thuộc Sắc-giới.
100 Đại-viên-kính Phật: Tức Đại-viên-kính-trí của Phật.
101 Đây nói về sự, lý sám-hối. Sự sám có hai: 1.- Tác-pháp-sám: Y-pháp, hướng Phật-tiền sám-hối. 2.- Thủ-tướng-sám: Định-tâm vận-tưởng sám-hối, thấy Phật xoa đầu hoặc thấy hào-quang. Lý-sám thuộc về “vô-sinh-sám”: Chính tâm, quán lý vô-sinh (không sinh diệt).
102 Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
103 Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
104 Hòa-thượng: Chính tiếng Phạm gọi là Ô-xã hay Hòa-xã, Hòa-xà (Khosha), Ngài La-Thập phiên nghĩa là “Lực-sinh”, có nghĩa là người đệ-tử y vào đấy mà đạo-lực được sinh-trưởng. Hòa-thượng là một chức-vị thứ nhất trong đàn truyền giới cho các đệ-tử.
105 A-xà-lê: (Àcàtya): Tàu dịch là “Quỹ phạm chính-hạnh” có nghĩa là bậc thầy uốn-nắn ngay thẳng những hành-vi của đệ-tử, là bậc sư-phạm làm khuôn-mẫu cho người. A-xà-lê là 1 chức-vị thứ hai trong giới đàn.
106 Giáo-thụ-sư: Thầy dạy bảo và trao-truyền giới-pháp cho các đệ-tử. Giáo-thụ-sư là chức-vị thứ 3 trong giới-đàn.
107 Lưỡng-túc-tôn: Các Thế-Tôn (Phật) đầy-đủ hai bề: phúc-đức và trí-tuệ.
108 Chứng-giới-sư: Các vị tôn-đức ngồi chứng-minh đàn truyền giới. Chứng-giới-sư có chỗ gọi là “Tôn-chứng-sư” là chức-vị thứ tư trong giới-đàn.
109 Ba chướng: Ba thứ làm chướng-ngại chính-đạo, tổn-hại thiện-tâm: 1.- Phiền-não-chướng: tham, sân, si, v.v… 2.- Nghiệp-chướng: tạo nghiệp ngũ-nghịch, thập-ác v.v… 3.- Báo-chướng: chịu khổ-báo trong ba đường dữ.
110 Tam (3) thân: Pháp-thân, báo-thân và hóa thân.
111 Đoạn trên, từ chỗ “Nếu muốn như pháp” đến chỗ “xuất-thế”, do trước Phật đã nói về nhân-quả của Quốc-vương, nên đây Ngài khuyên nên sám tội, dạy pháp sám-hối được ích, bảo cho nghi-thức thụ-giới, nói rõ về giới-đức và Ngài khuyên nên thụ-trì giới.
112 Phật-nhật: Trí-tuệ của Phật soi thấu sự tăm-tối của thế-gian chúng-sinh cũng ví như mặt trời.
113 Như-lai-tạng: Có nghĩa là kho-tàng của tự-tính, vì hết thảy các pháp không ra ngoài tự-tính Như-Lai. Chân-như ở trong phiền-não là “Như-lai-tạng”; chân-như ra ngoài là “Pháp-thân”. Y vào phẩm Như-lai-tạng Phật tính luận thời Tạng có 3 nghĩa: 1.- Sở-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong chúng-sinh hàm-tàng: hòa-hợp, bất hòa-hợp, nhiễm-pháp, tịnh-pháp tất cả đều nhiếp-thuộc tính Như-Lai nên gọi là Như-Lai-tạng. 2.- Ẩn-phú-nghĩa: Chân-như khi ở trong phiền-não, bị phiền-não che-lấp, tính-đức Như-Lai không hiển-hiện được, nên gọi là “Như-Lai-tạng”. 3.- Năng-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong phiền-não hàm-nhiếp hết thảy công-đức quả-địa của Như-Lai, nên gọi là “Như-lai-tạng”.
114 Ba thứ rèn, mài: (luyện-ma): 1/ Dẫn người đã chứng Đại-bồ-đề rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về đạo Bồ-đề rộng lớn. 2/ Xét kỹ ý muốn nơi mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về muôn hạnh khó tu. 3/ Chỉ dẫn chỗ thô-thiện của người đem so-sánh với diệu-nhân của mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về sự khó chứng được 2 diệu-quả chuyển-y (Bồ-đề, Niết-bàn).
115 Đoạn trên, từ chỗ “Tam-bảo thường-trụ” đến chỗ “Phật-đạo” là nói về tướng chung của Tam-bảo.
116 Tâm-hành-xứ diệt: Nói đủ là “tâm-hành-xứ diệt, ngôn-ngữ-đạo đoạn”. Là chân-lý cứu-cánh. Đường ngôn-ngữ dứt (ngôn-ngữ-đạo đoạn). Không thể ngôn-thuyết được; chỗ tâm-niệm diệt (tâm-hành-xứ-diệt), không thể nhớ nghĩ được. Đó là cảnh-giới bất-khả tư-nghị.
117 Đoạn trên, từ chỗ “Các thiện-nam-tử” đến chỗ “bảo” là nhắc lại 3 thân của Phật-bảo.
118 Đoạn trên, từ chỗ “Ứng-hóa hai thân” đến chỗ “khó trả” là tán-dương công-đức của Pháp-bảo.
119 Nước tám công-đức: 1/ Trừng-tịnh: lặng, sạch. 2/ Thanh-lãnh: trong mát. 3/ Cam-mỹ: ngon-ngọt. 4/ Khinh-nhuyến: dịu-dàng 5/ Nhuận-trạch: Thấm-nhuần. 6/ An-hòa. 7/ Khi uống khỏi đói-khát và khỏi vô-lượng tội-lỗi, tai-hoạn. 8/ Uống rồi quyết-định nuôi lớn các căn và thân tứ-đại thêm ích-lợi.
120 Mạt-pháp: Một trong 3 thời truyền pháp của Phật, sau khi Phật nhập-diệt: 1/ Phật nhập-diệt nhưng chính-pháp của Ngài không thay-đổi, có giáo-lý, có thực-hành, có người chứng chính-quả, là “chính-pháp-thời”. 2/ Chính-pháp dần sai, pháp-nghi, pháp-hành chân-chính không thực-hành, chỉ còn tương-tự, theo mà không chứng quả được là “Tượng-pháp-thời”. 3/ Chính-pháp bị suy-vi, chuyển-biến; có giáo-lý nhưng không thực-hành không chứng quả, là “Mạt-pháp-thời”.
121 Uất-kim-hoa: Tên một thứ cây chính tiếng Phạm gọi là Cung-củ-ma (Kunkumam). Cây này hoa vàng mà thơm, khả-dĩ dùng làm huân-hương.
122 Đoạn trên, từ chỗ “Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ “ân-đức lớn” là nói về ân-đức Thánh, phàm Tăng
123 Bốn đại: Đất (chất dắn), nước (chất lỏng), gió (chất hơi), lửa (chất nóng).
124 Tám câu trên là tổng-kết về 4 ơn.
125 Tam-luân thể-không: Cũng như Tam-luân-không.
126 Trần-cấu: Tiếng gọi chung cho phiền-não.
127 Pháp-nhãn-tịnh: Nghĩa là thấy chân-lý bằng cách rõ-ràng.
Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” đến chỗ “pháp-nhãn-tịnh”, đức Phật nói về cách báo-ân và sự chứng-ngộ của đại-chúng nghe pháp.
Đến đây hết quyển ba.