VI.- PHẨM
LY THẾ-GIAN
Bấy
giờ, Trong pháp-hội có một vị Đại-bồ-tát tên là NHẠO-VIỄN-LY-HẠNH
nhờ uy-lực Phật, từ tòa đứng dậy, ở trong đại-chúng
vì các Bồ-tát nói về A-lan-nhã-hạnh, phổ-cáo hết thảy
các Bồ-tát rằng: “Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã nên nghĩ:
Bởi nhân-duyên gì ta xa lìa thế-gian, tu diệu-hạnh thanh-tịnh
ở A-lan-nhã? Các Phật-tử nhất tâm nghe kỹ! Tôi thừa Phật-lực,
nay vì các vị phân-biệt diễn-thuyết về A-lan-nhã-hạnh!”
Các Bồ-tát nói: “Quý hóa thay! Đại-sĩ đã vì bọn chúng
tôi, cùng các vị cầu Bồ-tát-đạo đời mai sau, kính xin
Đại-sĩ cứ nói cho, chúng tôi muốn nghe!”
Khi
ấy, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh bảo đại-chúng: “Hết thảy
thế-gian có nhiều sự sợ-hãi, Bồ-tát xuất-gia vì chán những
sợ-hãi nơi thế-gian ấy nên lìa bỏ cha mẹ cùng các quyến-thuộc,
mà đến ở nơi A-lan-nhã, tu hạnh viễn-ly.
Thế
nào là những sự sợ-hãi? - Hoặc có Bồ-tát nghĩ: “ “Ngã”
(ta) là sợ-hãi, vì hết thảy phiền-não từ “ngã” sinh
ra”. Hoặc có Bồ-tát nói: “Ngã-sở” (chỗ của ta) là
sợ-hãi, vì hết thảy phiền-não từ “ngã-sở” sinh ra”.
Hoặc có Bồ-tát nói: “Bảy thứ mạn” là sợ-hãi, vì các
thứ mạn ấy đều không biết kính người thiện. Hoặc có
Bồ-tát lấy “ba độc” kia làm sợ-hãi, vì do nó tạo ra
vô lượng tội, phải sa-đọa vào các đường ác. [1]
Hoặc
có Bồ-tát lấy “năm dục” kia làm sợ-hãi, vì đam-trước
sự vui thế-gian, sẽ phải sa vào tám nạn. Ví như ở đời
có con rắn gọi là “thất-bộ-xà”, đương khi nó hại người,
sức độc của nó rất mạnh, người ta đi ra qua bảy bước
(thất bộ) bị trúng độc, thân-mệnh chết ngay. Sức của
một con rắn độc còn làm tổn-hại người như thế, huống
là năm con rắn cùng làm sự thương-sát, thời sức độc mạnh
thêm, thân-mệnh khó toàn được! Năm dục của đời cũng
thế, mỗi một thứ dục-lạc đều có thể dẫn khởi ra tám
vạn bốn nghìn vi-tế trần-lao, mê-hoặc kẻ ngu-phu, làm cho
họ sa-đọa vào địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng các tai-nạn
khác, chịu đại-khổ-não, huống là tham-đắm đầy-đủ các
món “trần” khác? Vô số chư Phật như số cát sông Hằng
ra đời, thuyết-pháp giáo-hóa, thời-gian vun-vút như ánh-sáng
qua chỗ hở nhanh-chóng, mà kẻ ngu-phu hoàn-toàn không được
trông thấy, vì thường ở trong các đường ác như ở nhà
mình, ở trong nơi không được thong-thả như xem trong vườn
hí-lạc. Thời quá-khứ có đức Phật muốn khiến chúng-sinh
chán bỏ năm dục mà nói bài kệ rằng:
Ví
như phi-nga thấy ánh lửa,
Bởi
yêu lửa quá, đua nhau vào;
Không
biết tính lửa có sức cháy,
Bỏ
mệnh trong lửa đành tự đốt.
Phàm-phu
trên đời cũng như thế,
Ham-thích
sắc đẹp đi tìm-tòi;
Không
biết sắc đẹp nhiễm vào người,
Lại
bị lửa đốt, mọi khổ tới.
Ví
như đàn hươu trong rừng-rú,
Ham
được cỏ ngon nuôi sống mình;
Thợ
săn giả tiếng con hươu mẹ,
Đàn
hươu trúng tên đều chết cả.
Phàm-phu
trên đời cũng như thế,
Tham
đắm mọi tiếng nghe vừa ý;
Không
biết tiếng kia nhiễm vào người,
Khổ
báo ba đường trở lại chịu.
Ví
như ong mật bay đi xa.
Dạo
tới rừng xuân hút mọi hoa;
Vì
thích mùi thơm nơi má voi,
Tai
voi nhân đó trập lại chết.
Phàm-phu
trên đời cũng như thế,
Ham
thích mọi mùi hương thụ-dụng;
Không
biết hương kia nhiễm vào tâm,
Sinh-tử
luân-hồi nhiều kiếp khổ.
Ví
như cá, rồng ở trong nước,
Bơi,
lội, lặn, nổi tự vui-vẻ;
Vì
tham mồi thơm bèn cắn câu,
Ham
mùi, quên sống đều đến chết.
Phàm-phu
trên đời cũng như thế,
Lưỡi
ham mùi ngon giúp thân-thể.
Giết
người, sống mình tâm thiên-lệch,
Cảm-báo
tam-đồ khổ cực trọng.
Ví
như voi trắng ở núi rừng,
Tự-tại
cũng như sư-tử chúa;
Lòng
dục loạn say thành mờ-tối,
Tìm-tòi
voi cái sinh tham-nhiễm.
Hết
thảy phàm-phu cũng như thế,
Tới
chỗ ái-ân như voi cuồng;
Ân-ái
ràng-buộc không ngừng thôi,
Chết
vào địa-ngục khổ khôn lường.
Trai,
gái trên đời tham-cầu nhau,
Đều
bởi ham-đắm các sắc-dục;
Nhân,
Thiên bởi thế nên ràng-buộc,
Sa-đọa
ba đường trong tăm-tối.
Nếu
lìa bỏ được tâm tham-dục,
Ở
A-lan-nhã tu phạm-hạnh;
Quyết
được vượt qua sinh-tử-khổ,
Chóng
vào cung “vô-vi, thường-lạc”. [2]
Hoặc
có Bồ-tát lấy sự tham nhiều của làm sợ-hãi. Của báu
nơi mình thường tìm, tích góp lại, mà không dám thụ-dụng,
huống là đem bố-thí cho chúng-sinh nghèo thiếu? Đối với
của báu của mình sinh tâm tham-trước lắm, còn đối với
của báu của người lại muốn cho tổn-giảm. Bởi nhân-duyên
ấy, sau khi mệnh mất phải sa-đọa vào đại-địa-ngục chịu
vô-lượng khổ. Khổ-báo như thế gọi là quả-báo chính-cảm
thứ nhất. Từ địa-ngục ra chịu thân súc-sinh, thân thường
khổ nhọc, nước cỏ không đủ và phải qua trong nhiều thời
đền trả sự tổn-hại của người trước. Mọi khổ như
thế gọi là quả-báo chính-cảm thứ hai. Chịu tội ấy xong,
sinh vào trong ngã-quỷ, nhân khổ đói khát vô-lượng, nghìn
kiếp không nghe thấy tên thức ăn, nước uống; cổ nhỏ như
kim, bụng to như núi, ví dù được thức ăn uống, theo nghiệp
liền biến thành lửa. Thân khổ như thế gọi là quả-báo
chính-cảm thứ ba. Hết tội ấy rồi, lại sinh về nhân-gian,
nghèo cùng hèn-hạ, bị người sai khiến; đối với các của
báu cầu gì khó được và đối với hết thảy thời, không
được tự-tại. Dư-báo như thế gọi là “tương-tự-quả”.
Hết thảy Bồ-tát thấy biết nhân quả phân-minh như thế,
nên thường sinh tâm sợ-hãi muốn cầu giải-thoát. Bởi chỗ
sợ-hãi ấy, nên xa-lìa quyến-thuộc và ở nơi A-lan-nhã. [3]
Hoặc
có Bồ-tát lấy tâm khát-ái làm sợ-hãi, vì đối với những
khi chưa được hết thảy của báu, ngày đêm tìm-tòi, sinh
tâm khát-ái. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngã, ngã-sở-kiến”
(chấp ngã) làm sợ-hãi, vì nó là chỗ nương-tựa của các
phiền-não. Hoặc có Bồ-tát lấy các “pháp-kiến” (chấp-pháp)
làm sợ-hãi, vì nó là chỗ nương-tựa cho sở-tri-chướng.
Hoặc có Bồ-tát lấy sáu mươi hai kiến làm sợ-hãi, vì vào
rừng tà-kiến thì khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát lấy
“nghi” làm sợ-hãi, vì đối với pháp chân-chính sinh tâm
nghi-hoặc. Hoặc có Bồ-tát lấy “đoạn kiến” (chấp dứt
hẳn) kia làm sợ-hãi, vì chấp không có đời sau, gạt đi,
cho là không có nhân-quả, sinh đại-tà-kiến phải đọa vào
địa-ngục. Hoặc có Bồ-tát lấy “thường-kiến” (chấp
thường còn) kia làm sợ-hãi, vì chấp thân của chúng-sinh
trong năm thú, thường hằng quyết-định, theo nghiệp thiện,
ác không biến-đổi. Hoặc có Bồ-tát lấy “tật-đố”
(ghen-ghét) kia làm sợ-hãi, vì không chịu sự vẻ-vang của
người, mang tâm-niệm ác. Hoặc có Bồ-tát thường lấy “điệu-cử”
(xao-động) làm sợ-hãi, vì tâm không tịch-tĩnh, sinh tán-loạn.
Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “bất-tín” (không tin) làm sợ-hãi,
ví như người không tay, tuy đến núi báu, nhưng hoàn-toàn
không lấy được gì; người không có bàn tay tin-tưởng, tuy
gặp Tam-bảo nhưng không được gì. Hoặc có Bồ-tát lấy
“vô-tàm” (không thẹn) kia làm sợ-hãi, vì trong không thẹn-hổ,
nên thường tạo các nghiệp ác, nghiệp-chướng vô-minh khó
thấy được Phật. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “vô-quí”
(không hổ) làm sợ-hãi, vì ngoài không thẹn-hổ, bỏ ân bội
đức, phải sinh-tử luân-hồi và sa-đọa vào ba đường. Hoặc
có Bồ-tát lấy “phẫn-hận” (giận-tức, oán-hận) làm
sợ-hãi, vì nó hay làm tổn-hại mình và người, thành ra sự
oán-kết lẫn nhau, trong nhiều kiếp, làm chướng-ngại đạo
Phật. Hoặc có Bồ-tát lấy sự “vong thất” (quên mất)
nhãng quên không nhớ kia làm sợ-hãi, vì đối với sự nghe
pháp không ghi nhớ được, quên mất văn-nghĩa, thêm sự ngu-si.
[4]
Hoặc
có Bồ-tát cho hết thảy những nghiệp đen tối bất thiện
là sợ-hãi. Sao vậy? – Vì hết thảy nghiệp bất thiện là
nhân sinh-tử, xoay chuyển trong ba cõi không thoát khỏi được,
đối với vô-lượng vô-biên sợ-hãi ấy đều làm chướng-ngại
thắng-pháp xuất-thế. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngũ cái”
[5] làm sợ-hãi, vì năm thứ phiền-não ấy che-lấp tâm
Bồ-đề của Bồ-tát. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm ghen-ghét
(tăng-ố) làm sợ-hãi, đối với các chúng-sinh không có tâm
thương-xót, thành tu hạnh Bồ-đề hay thoái-chuyển. Hoặc
có Bồ-tát lấy “phá-giới-cấu” làm sợ-hãi, làm nhơ-nhớp
Thánh-pháp, khó được quả-báo chân-chính. Hoặc có Bồ-tát
lấy “ưu-não” (lo-lắng phiền-não) làm sợ-hãi, vì vọng-tưởng
mạnh làm mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “ác-tác”
[6] làm sợ-hãi, vì đối với chỗ tu thiện sinh tâm hối-tiếc.
Hoặc có Bồ-tát nói sự “cuồng túy” (say cuồng) là sợ-hãi,
vì không biết thiện, ác, không có tôn-ty. Hoặc có Bồ-tát
lấy sự chết không đúng thời làm sợ-hãi, vì không an-trụ
chính-niệm, quay về vô-thường. Hoặc có Bồ-tát lấy nghiệp
vọng-ngữ làm sợ-hãi, vì kiếp kiếp đời đời có nói-năng
gì, hết thảy chúng-sinh đều không tin, nhận. Hoặc có Bồ-tát
lấy bốn món điên-đảo [7] làm sợ-hãi, vì do bốn món
điên-đảo ấy phải luân-hồi sinh-tử, khởi nghiệp phiền-não
không cầu Phật. Hoặc có Bồ-tát nói “bạn ác” là sợ-hãi,
vì theo bạn bất-thiện ấy mà tạo ra nghiệp ác. Hoặc có
Bồ-tát lấy “ngũ-uẩn-ma” làm sợ-hãi, vì thân ngũ uẩn
này từ phiền-não sinh ra, sinh rồi liền dấy lên vô-lượng
phiền-não; nhân các phiền-não tạo nghiệp bất thiện, do
các hoặc-nghiệp sa xuống hầm sâu lớn (các đường ác),
bởi nhân-duyên ấy sinh ra sợ-hãi. Hoặc có Bồ-tát lấy “phiền-não-ma”
làm sợ-hãi, vì đại, tiểu-phiền-não nối-tiếp sinh-tử,
làm thoái tâm Bồ-đề, bị sa-đọa vào đường ác. Hoặc
có Bồ-tát chán-ngán và lo-lắng về “tử-ma” (chết) làm
sợ-hãi, vì phát tâm Bồ-đề chưa được tới chỗ bất-thoái,
thân nát, mệnh mất, sinh tâm thoái-chuyển. Hoặc có Bồ-tát
cho các Thiên-ma là sợ-hãi, vì họ-hàng Thiên-ma đầy-dẫy
trong cõi Dục, làm chướng-ngại người tu đạo, thoái tâm
Bồ-đề. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “vô-ký” [8] làm
sợ-hãi, vì đối với thiện-pháp không tiến tu được, luống
qua thời-gian dài, lui mất thiện-nghiệp. Hoặc có Bồ-tát
lấy tám nạn kia làm sợ-hãi, vì sa-đọa vào tám nạn ấy
thời như từ chỗ tối lại vào chỗ tối; đêm dài sinh-tử
khó gặp được ánh sáng. Hoặc có Bồ-tát quán địa-ngục
kia làm sợ-hãi, vì một khi sa vào địa-ngục, thời trải
vô-lượng kiếp chịu đại-khổ-não, khó được giải-thoát.
Hoặc có Bồ-tát cho sự sa-đọa vào súc-sinh-đạo là sợ-hãi,
vì trong giới bàng-sinh chịu báo ngu-si, trải vô-lượng kiếp
khó thoát khỏi được. Hoặc có Bồ-tát thấy ngã-quỷ-đạo
là sợ-hãi, vì trong hằng-sa kiếp chịu khổ đói khát, khó
gặp được Phật, Pháp, Tăng. Hoặc có Bồ-tát tưởng sự
sinh vào cõi Dục làm sợ-hãi, vì phiền-não tạp-khởi, tạo
các nghiệp ác, bị sa-đọa vào ba đường. Hoặc có Bồ-tát
cho cõi Sắc kia là sợ-hãi, vì “hữu-phú phiền-não” [9] hay chướng-ngại tu Định. Hoặc có Bồ-tát cho cõi Vô-sắc
là sợ-hãi, vì trong ba cõi, cõi ấy tịch-tĩnh quá, cũng như
Niết-bàn, nên chúng-sinh vọng-chấp làm cứu-cánh, đến khi
kiếp hết mệnh mất phải sa vào địa-ngục. Hoặc có Bồ-tát
cho sự thường thường sinh-tử làm sợ-hãi, vì sinh vào nhà
tà-kiến, khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát cho sự chán
bỏ sinh-tử làm sợ-hãi, vì chết đây, sinh kia, thường chịu
khổ-não, như thế làm chướng-ngại hạnh Bồ-tát cầu Niết-bàn.
Hoặc có Bồ-tát cho giọng tiếng thế-gian là sợ-hãi, vì
nó làm cho tâm thường tán-loạn, phương-ngại thiện-nghiệp.
Hoặc có Bồ-tát lấy “tâm, ý, thức” [10] làm sợ-hãi,
vì những hành-tướng sở-duyên [11] của nó không biết
được. [12]
Nếu
ở nhà thế-tục, do những sự sợ-hãi ấy, ngày đêm nối-tiếp
nhau nhiễu-loạn thiện-tâm, không thể chứng được pháp “không
sợ-hãi”. Bồ-tát đời quá-khứ ở nơi A-lan-nhã đều chứng
được pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng
chính-giác. Bồ-tát đời vị-lai ở nơi A-lan-nhã, đều sẽ
được pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng
chính-giác. Các Đại-bồ-tát trong mười phương hiện-tại,
ở nơi A-lan-nhã, dứt bỏ hết thảy chướng-ngại, được
pháp không sợ-hãi, tức là vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Các
vị nên biết! Tùy theo căn-khí, nên tu học về sự nhiếp-niệm
thân-tâm ở nơi A-lan-nhã của các Bồ-tát trong ba đời, để
điều-phục vọng-tưởng vĩnh-viễn không sợ-hãi, đạt tới
cứu-cánh vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [13]
Lại
nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã nên làm nghiệp gì?
Nên làm những niệm gì? – Ngày đêm thường suy-nghĩ như
thế này: “Hết thảy sợ-hãi sở-hữu của thế-gian đều
từ “ngã” sinh , vì hết thảy sợ-hãi, chấp trước vào
“ngã” mà sinh ra hết thảy sợ-hãi, “ngã” là căn-bản,
hết thảy sợ-hãi “ngã-ái” sinh ra, hết thảy sợ-hãi “ngã-tưởng”
sinh ra, hết thảy sợ-hãi “ngã-kiến” sinh ra, hết thảy
sợ-hãi “ngã” là trụ-xứ, hết thảy sợ-hãi nhân “ngã”
mà sinh, hết thảy sợ-hãi phân-biệt sinh ra, hết thảy sợ-hãi
phiền-não sinh ra, hết thảy phiền-não “ngã-ái” sinh ra”.
[14]
Nếu
ta ở nơi A-lan-nhã không lìa bỏ được sự chấp-trước về
“ngã, ngã-sở”, không nên ở trong A-lan-nhã ấy và không
bằng trở về ở nhà bạch-y (tại-gia) còn hơn. Sao vậy? -
Nếu người có “ngã-tướng” (ta), không nên ở nơi A-lan-nhã.
Nếu người có “nhân-tướng” (người) không nên ở nơi
A-lan-nhã. Nếu người có đủ cả hai chấp: “ngã, ngã-sở”,
không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có “pháp-kiến”
không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có đủ bốn thứ điên-đảo
chấp ấy, không nên ở nơi A-lan-nhã. Các vị nghe kỹ! Nếu
có người tu-hành y vào Niết-bàn-tướng, cũng không nên ở
nơi A-lan-nhã, huống là còn khởi ra các tướng phiền-não.
[15]
Các
vị nghe kỹ! Nếu có người không chấp-trước vào hết thảy
tướng, nên an-trụ nơi A-lan-nhã, thế là đương ngồi trong
“Vô-trước đạo-tràng” (nơi không chấp-trước), hết thảy
các pháp đều “bất-khả-đắc”. [16] Nếu người tâm
điều-nhu được, không có tranh-luận, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.
Đối với nhân-duyên ở đời đều không chấp-trước, nên
an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc
mọi pháp, không còn nương-tựa vào nó, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.
Đối với hết thảy pháp có sự thấy biết bình-đẳng, nên
an-trụ nơi A-lan-nhã. Đối với bốn uy-nghi điều-phục được
tâm mình, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Bỏ được hết thảy các
sợ-hãi, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.
Các
Phật-tử! Dùng lẽ yếu-ước mà nói thì những người đối
với các phiền-não giải-thoát được, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.
Nếu người thành-tựu được nhân Niết-bàn, nên an-trụ nơi
A-lan-nhã. Người khéo tu-hành bốn vô-cấu-tính, nên an-trụ
nơi A-lan-nhã. Nếu người có tư-tưởng ít muốn, tri-túc,
nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người có trí-tuệ, đầy-đủ đa-văn,
nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người tu-hành được ba môn
giải-thoát, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người dứt hẳn được
phiền-não ràng-buộc, nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Người quán-sát
kỹ-lưỡng được mười hai nhân-duyên, nên an-trụ nơi A-lan-nhã.
Người mà chỗ tạo-tác đã biện-giải xong, nên an-trụ nơi
A-lan-nhã. Người đã bỏ được gánh nặng, nên an-trụ nơi
A-lan-nhã. Người chứng-ngộ diệu-lý sâu-xa của chân-như,
nên an-trụ nơi A-lan-nhã. [17]
Các
vị nên biết! Nơi A-lan-nhã các cây làm thuốc và gỗ lớn,
nhỏ đều sinh nơi A-lan-nhã, mà từng không sợ-hãi gì, cũng
không phân-biệt gì. Đại-bồ-tát ở nơi A-lan-nhã cũng thế,
quán-sát thân-tâm mình như cây khô, tường vách, ngói sỏi…không
khác, đối với hết thảy pháp, không có phân-biệt. Ta quán-sát
thân tâm ta cũng như huyễn-mộng không thực, từng niệm từng
niệm già-suy, hơi thở của ta ra rồi không vào được nữa;
khi đó, do nhân thiện, ác, theo nghiệp mà chịu báo. Thân này
vô-thường, chóng khởi, chóng diệt, thân này hư-giả, quyết
không tồn-tại lâu được. Như thế, trong thân không có “ngã,
ngã-sở” (ta, của ta), không có “hữu-tình” (chúng-sinh),
không có “mệnh” (thân-mệnh), không có “dưỡng-dục”
(nuôi-nấng), không có “sĩ-phu” (người sang, giỏi), không
có “nhân” (người), không có “tác-nghiệp” (gây nghiệp),
không có “hữu-kiến” (chấp có), mọi tướng như thế bản-lai
không-tịch, cũng như hư-không, cũng như bọt nước. Niệm
niệm thường nên thực-hành pháp quán như thế, thời hết
thảy sợ-hãi đều được giải-thoát, như cây gỗ kia không
có sự sợ-hãi. Khi ấy, các Bồ-tát được ở nơi đại-an-lạc
không còn có sự sợ-hãi sinh ra, thế gọi là Bồ-tát ở nơi
A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]
Lại
nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, suốt ngày đêm nên
quán như thế này: “Nơi A-lan-nhã này là nơi an-vui tu-tập
rành bốn vô-cấu-tính. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành
hạnh tri-túc. Nơi A-lan-nhã này là nơi giải-thoát các phiền-não.
Nơi A-lan-nhã này là nơi đầy đủ trí-tuệ, đa-văn. Nơi A-lan-nhã
này là nơi điều-phục và đoạn-diệt phiền-não-chướng,
sở-tri-chướng. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng-nhập ba môn
giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng trọn tám pháp
giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi quán-sát rành mười hai
nhân-duyên. Nơi A-lan-nhã này là nơi dứt-trừ được các nghiệp-chướng.
Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng quả Dự-lưu đầu tiên. Nơi
A-lan-nhã này là nơi chứng quả Nhất lai thứ hai. Nơi A-lan-nhã
này là nơi chứng quả Bất-hoàn thứ ba. Nơi A-lan-nhã này
là nơi chứng quả A-la-hán thứ tư. Nơi A-lan-nhã này là nơi
chứng quả Bích-chi-phật. Nơi A-lan-nhã này là nơi đã biện-giải
xong được chỗ tạo-tác, được tự-tại. Nơi A-lan-nhã này
là nơi bỏ được các gánh nặng, được nhẹ-nhàng an-vui.
Nơi A-lan-nhã này là nơi được “nhị không chân-như”.
Nơi
A-lan-nhã này là nơi tu vô-lượng đại-từ-tâm. Nơi A-lan-nhã
này là nơi tu chứng vô-lượng đại-bi-tâm. Nơi A-lan-nhã này
là nơi tu-tập rành “hỷ-vô-lượng”. Nơi A-lan-nhã này là
nơi tu-tập rành “xả-vô-lượng”. Nơi A-lan-nhã này là nơi
phát tâm Bồ-đề. Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu-trì
đến Thập-tín. [19] Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát
tu-tiến tuần-tự đến Thập-trụ. [20] Nơi A-lan-nhã này
là nơi Bồ-tát tu thêm dần-dà đến Thập-hạnh. [21] Nơi A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu-hành dần-dà đến Thập-hồi-hướng,
[22] Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập rành bốn thiện-căn.
Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-hành sáu pháp Ba-la-mật. Nơi A-lan-nhã
này là nơi tu-hành từ Sơ-địa đến Thập-địa. Nơi A-lan-nhã
này là nơi chứng được sáu căn [23] thanh-tịnh. Nơi
A-lan-nhã này là nơi chứng được Thiên-nhãn-thông. Nơi A-lan-nhã
này là nơi chứng được Thiên-nhĩ-thông và Túc-trụ-trí (túc-mệnh),
Sinh-tử trí-minh (lậu-tận), Thần-cảnh (thần-túc), Tha-tâm-thông.
Nơi
A-lan-nhã này là nơi có tàm-quý (thẹn-hổ). Nơi A-lan-nhã này
là nơi không phóng-dật (buông-lung). Nơi A-lan-nhã này là nơi
tu năm căn. [24] Nơi A-lan-nhã này là nơi chứng được
vô-lượng, vô-biên Tam-muội. Nơi A-lan-nhã này là nơi được
Hằng-sa Đà-ra-ni-môn, chứng tự-tại. Nơi A-lan-nhã này là
nơi ngộ vô-sinh-nhẫn. [25] Nơi A-lan-nhã này là nơi dứt
sinh-tử, ra hẳn ba cõi. Nơi A-lan-nhã này là nơi được Bất-thoái-chuyển.
Nơi A-lan-nhã này là nơi hàng-phục hết thảy mọi ma oán-địch,
tiêu-trừ nghiệp-chướng, thấy Phật, nghe Pháp. Nơi A-lan-nhã
này là nơi được “Bất-cộng tối-thượng pháp-môn” [26] của Phật. Nơi A-lan-nhã này là nơi tu-tập “giới-uẩn”
thanh-tịnh. Nơi A-lan-nhã này là nơi xuất-sinh “vô-lậu tam-ma-địa”
(Định). Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh Bát-nhã (trí-tuệ), chứng
giải-thoát. Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh “giải-thoát tri-kiến”.
[27] Nơi A-lan-nhã này là nơi được ba mươi bảy “Bồ-đề-phận-pháp”.
Nơi A-lan-nhã này là nơi được giải-thoát mười hai “nhập”.
[28] Nơi A-lan-nhã này là nơi lìa hẳn mười tám “giới”
[29] hữu-lậu. Nơi A-lan-nhã này là nơi quán-sát mười
tám “không” vi-diệu. Nơi A-lan-nhã này là nơi dung-thụ hết
thảy các “pháp-không”. Nơi A-lan-nhã này là nơi sinh và
tăng-trưởng mười thiện-pháp. Nơi A-lan-nhã này là nơi tăng-trưởng,
kiên-cố tâm Bồ-đề. Nơi A-lan-nhã này là nơi chư Phật ba
đời khen-ngợi. Nơi A-lan-nhã này là nơi hết thảy Bồ-tát
cung-kính, tán-thán.
Nơi
A-lan-nhã này là nơi đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin) thành đạo
ở dưới gốc cây Ni-câu-đà. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức
Phật Thi-Khí (Sikhin) thành đạo ở dưới gốc cây Thi-lỵ-sa.
Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Tỳ-Xá-Phù (Vessabhù) thành
đạo ở dưới gốc cây A-thi-bà-đa. Nơi A-lan-nhã này là nơi
đức Phật Câu-Lưu-Tôn (Kakusandha) thành đẳng-chính-giác ở
dưới gốc cây Vô-ưu. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật
Câu-Na-Hàm-Mưu-Ni (Konàgamana) thành đẳng-chính-giác ở dưới
gốc cây Ưu-đàm. Nơi A-lan-nhã này là nơi đức Phật Ca-Diếp
(Kassapa) thành đẳng-chính-giác ở dưới gốc cây Sa-đà. Nơi
A-lan-nhã này là nơi đức Phật Thích-Ca (Sàkya-muni) thành đạo
ở dưới gốc cây Tất-bát-la. Các ông nên biết! Nơi A-lan-nhã
có vô-lượng vô-biên công-đức thắng-lợi như thế! [30]
Lúc
đó, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh vì đại-chúng nói bài kệ
rằng:
Bồ-tát
xuất-gia ở Lan-nhã,
Cần
nên nghĩ gì, làm nghiệp gì?
Mọi
sự sợ-hãi, thế-gian có,
Đều
từ “ngã-kiến, ngã-sở” sinh.
Nếu
đoạn-trừ được “ngã, ngã-sở”,
Hết
thảy sợ-hãi không nơi dựa.
Nếu
còn có tâm chấp “ngã-kiến”,
Rốt-ráo
không thành Bồ-đề-đạo:
Niết-bàn
thường-trụ đều vô-tướng,
Huống
là phiền-não phi-pháp-tướng?
Không
chấp các pháp và chúng-sinh,
Tâm
không tranh-luận, tu chính-niệm;
Trong
bốn uy-nghi điều-phục tâm,
Nên
ở Lan-nhã thường tịch-tĩnh.
Dứt
được phiền-não, tâm tri-túc,
Ở
trong Lan-nhã nhà “không-tịch”;
Vào
ba môn giải-thoát vô-tướng,
Ở
nơi Lan-nhã lìa trần-cấu.
Hay
quán mười hai nhân-duyên-pháp,
Tứ-đế,
[31] nhị-không: chân diệu-lý;
Tám
pháp thế-gian [32] không rung-động,
Bồ-tát
như thế ở Lan-nhã.
Hay
quán thân mình như gỗ khô,
Cũng
như bọt nước, như huyễn-mộng;
Không
chấp hai bên, [33] tướng bình-đẳng,
Bồ-tát
như thế ở Lan-nhã.
Tội-nghiệp
ràng-buộc thân vô-thường,
Bản-lai
giả-dối vốn không thực;
Chấp
pháp, chấp ngã, chấp tội-tướng,
Ở
trong ba đời “bất-khả-đắc”.
Thân
mình, thân người không có hai,
Hết
thảy các pháp cũng như thế;
Xem
kỹ: pháp-tính không đi, lại,
Bồ-tát
như thế ở Lan-nhã.
Chiên-đàn
thoa mình và tán-thán,
Lấy
dao cắt xẻo và mạ-nhục;
Đối
hai người ấy không yêu, ghét,
Bồ-tát
như thế ở Lan-nhã.
Xuất-gia
thích ở A-lan-nhã,
Ngày
đêm nên quán-sát như vầy:
Nơi
Lan-nhã là chân-đạo-tràng,
Hết
thảy Như-Lai thành chính-giác;
Nơi
Lan-nhã là diệu-pháp-không,
Chính-pháp
xuất-thế từ đấy sinh.
Nơi
A-lan-nhã, Thánh tôn-kính,
Sinh
ra Tam-thừa Thánh-đạo vậy.
Nơi
Lan-nhã là nhà các Thánh,
Hết-thảy
Thánh-Hiền thường ở đó;
Nơi
Lan-nhã là cung Như-Lai,
Là
chỗ mười phương Phật y-chỉ.
Nơi
Lan-nhã là tòa Kim-cương,
Chư
Phật ba đời đắc-đạo vậy.
Nơi
Lan-nhã là cung Niết-Bàn,
Như-Lai
ba đời viên-tịch đấy.
Nơi
Lan-nhã là nhà “đại-từ”,
Bồ-tát
ở đó tu từ-tâm.
Nơi
A-lan-nhã là “bi-điền”,
Chư
Phật ba đời tu tâm “bi”.
Nơi
Lan-nhã là nhà “lục-thông”,
Bồ-tát
ở đó dạo chơi khắp.
Nơi
Lan-nhã là đại-vô-úy,
Dứt
trừ hết thảy sự sợ-hãi.
Nơi
Lan-nhã là Tam-ma-địa,
Các
người cầu đạo được Định vậy.
Nơi
Lan-nhã được Đà-ra-ni,
Những
người trì chú được thần-lực.
Nơi
Lan-nhã là nhà thiện-pháp,
Tăng-trưởng
hết thảy các thiện-pháp.
Nơi
Lan-nhã là nhà Bồ-đề,
Bồ-tát
tu đạo được nhẫn-pháp.
Nếu
muốn vượt hẳn tam-giới-khổ,
Bồ-đề
Niết-bàn nên tu chứng;
Quanh
khắp pháp-giới lợi quần-sinh,
Nên
ở nhà Bồ-đề Lan-nhã.
Tu
về lục-độ, tứ-nhiếp-pháp,
Hồi-thí
ba cõi và bốn ơn,
Mình,
người đều vào thành Cam-lộ,
Đồng
chứng “Nhất-như chân-pháp-giới”. [34]
Khi
Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh Bồ-tát ma-ha-tát vì đại chúng nói pháp
ấy rồi, đức Phật bảo: “Quý-hóa thay! Quý-hóa thay! Thiện-nam-tử!
Ông vì đại-chúng và người cầu Phật-đạo đời mai sau,
phân-biệt diễn nói về công-đức thù-thắng nơi A-lan-nhã,
đem lại lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh trong hiện-tại
và vị-lai xu-hướng Bồ-đề chính-chân giác-đạo, ông sẽ
thành-tựu vô-lượng công-đức, mà nghìn đức Phật cùng
nói cũng không cùng-tận được.
Lúc
ấy, trong pháp-hội, Bồ-tát Trí-Quang, vô-lượng a-tăng-kỳ
đại-chúng Bồ-tát, nghe công-đức tối-thắng nơi A-lan-nhã,
liền được “Văn-trì Đà-ra-ni-môn”. [35] Vô-lượng
chúng-sinh phát-tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng
chính-giác, được Bất-thoái-chuyển. Nghìn ức chúng-sinh xa-lìa
trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [36]
TOÁT-YẾU
VI.-
PHẨM LY THẾ-GIAN
Khi
ấy, trong pháp-hội Đại-bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh, thay
Phật đứng lên phân-biệt về hạnh A-lan-nhã. Bồ-tát nói:
“Thế gian có nhiều sự sợ-hãi. Vì chán sự sợ-hãi ấy,
Bồ-tát xa thân-thuộc, đến ở nơi A-lan-nhã, để tu hạnh
viễn-ly!”
“Các
Bồ-tát cho những sự và những nơi sau đây là đáng sợ:
ngã, ngã-sở, 7 mạn, 3 độc, 5 dục, tham-lam nhiều của, tâm
khát-ái, ngã, ngã-sở-kiến, pháp-kiến, 62 kiến, nghi-hoặc,
đoạn-kiến, thường-kiến, tật-đố, điệu-cử (xao-động)
chẳng tin, không thẹn, không hổ, phẫn-hận (giận-bực, ân-hận),
nhãng quên, hết thảy nghiệp bất thiện, ngũ-cái (5 thứ che
lấp), ghen-ghét, phá-giới, ưu-não (lo buồn) ác-tác (làm ác),
say cuồng, chết không đúng thời, nói dối, 4 món điên-đảo,
bạn ác, ngũ-uẩn-ma, phiền-não-ma, tử-ma, thiên-ma, tâm vô-ký,
8 nạn, địa-ngục, súc-sinh, ngã-quỉ, Dục-giới, Sắc-giới,
Vô-sắc-giới, thường sinh-tử, chán sinh-tử, tiếng thế-gian,
tâm, ý, thức…Ở nơi thế-tục, do những sự sợ-hãi ấy
ngày đêm nhiễu-loạn thiện-tâm, nên không thể chứng được
pháp “vô-úy”. Các Bồ-tát trong ba đời dứt được chướng-ngại,
chứng vô-thượng-giác đều là ở nơi A-lan-nhã!”
“Các
Bồ-tát ở Lan-nhã thường nghĩ: “Hết thảy sợ-hãi đều
từ “ngã, ngã-ái, ngã-tưởng, ngã-kiến” sinh ra. Nếu ai
không bỏ được sự chấp-trước về “ngã, ngã-sở, ngã-tướng,
nhân-tướng, pháp-kiến” không nên ở nơi Lan-nhã. Cho đến
người tu-hành còn y vào Niết-bàn-tướng cũng không nên ở
nơi Lan-nhã. Và, chỉ có những người không chấp mọi tướng,
tâm điều-nhu được, không chấp nhân-duyên, không chấp 6
trần, thấy, biết bình-đẳng, điều-phục được tâm và
bỏ được hết thảy sợ-hãi nên an-trụ nơi A-lan-nhã. Nghĩa
là những người giải-thoát phiền-não, có nhân Niết-bàn,
tu 4 vô-cấu-tính, ít muốn, tri-túc, có trí-tuệ, đa văn, được
3 giải-thoát, dứt phiền-não, quán 12 nhân-duyên, chỗ tạo-tác
biện-giải xong, bỏ được gánh nặng, chứng-ngộ diệu-lý
chân-như…nên an-trụ nơi A-lan-nhã!”
Dược-thảo,
cỏ cây nơi Lan-nhã không sợ-hãi, không phân-biệt, Đại-bồ-tát
ở đấy cũng thế. Đại-bồ-tát quán thân tâm mình như cây
khô, như huyễn-mộng…, là vô-thường, nên trong thân không
có “ngã, ngã-sở, hữu-tình, mệnh, dưỡng-dục, sĩ-phu, nhân
(chúng-sinh), tác-nghiệp, hữu-kiến”; vì mọi tướng ấy
bản-lai như hư-không, bọt nước! Quán-niệm được thế là
không sợ-hãi, được an-lạc. Là Bồ-tát ở nơi Lan-nhã, cầu
vô-thượng-giác!”
Nơi
A-lan-nhã là nơi tu: 4 vô-cấu-tính, hạnh tri-túc, giải phiền-não,
đủ trí-tuệ, đa văn, diệt 2 chướng, chứng 3 giải-thoát,
8 giải-thoát, quán 12 nhân-duyên, dứt nghiệp-chướng, chứng
quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-Phật,
được tự-tại, được khinh-an, được nhị không chân-như.
Nơi A-lan-nhã là nơi tu 4 vô-lượng-tâm, thập-tín, thập-trụ,
thập-hạnh, thập hồi-hướng, 4 thiện-căn, 6 ba-la-mật, thập-địa,
chứng được 6 căn thanh-tịnh, chứng được sáu thần-thông.
Nơi
A-lan-nhã là nơi có tàm-quý, không phóng-dật. Là nơi: tu 5
căn, chứng được vô-lượng vô-biên tam-muội, được Hằng-sa
Đà-ra-ni-môn, ngộ vô-sinh-nhẫn, dứt sinh-tử, ra ba cõi, được
bất-thoái-chuyển, hàng-phục mọi ma oán, tiêu-trừ nghiệp-chướng,
thấy Phật, nghe Pháp, được pháp-môn bất cộng tối thượng,
tu giới-uẩn thanh-tịnh, xuất-sinh vô-lậu tam-ma-địa, sinh
Bát-nhã, chứng giải-thoát, sinh giải-thoát tri-kiến, được
37 bồ-đề-phận-pháp, thoát 12 nhập, lìa 18 giới, quán 18
không, dung-thụ các pháp-không, sinh 10 thiện-pháp, tăng-trưởng
kiên-cố tâm bồ-đề, chư Phật ba đời khen ngợi, hết thảy
Bồ-tát cung-kính, tán-thán.
Và,
nơi A-lan-nhã là nơi đức Phật Tỳ-Bà-Thi, đức Phật Thi-Khí,
đức Phật Tỳ-Xá, đức Phật Câu-Lưu-Tôn, đức Phật Câu-Na-Hàm-Mưu-Ni,
đức Phật Ca-Diếp và đức Phật Thích-Ca thành đạo.
Bồ-tát
Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh nói xong, đức Phật khen Bồ-tát đã đem
lại lợi-ích cho chúng-sinh và Bồ-tát sẽ thành-tựu vô-lượng
công-đức, mà đến nghìn đức Phật cùng tán-thán cũng không
cùng-tận.
Lúc
đó, nhiều Bồ-tát được “Văn-trì đà-ra-ni-môn” và nhiều
chúng-sinh hoặc phát tâm vô-thượng được bất-thoái-chuyển,
hoặc xa lìa trần cấu được pháp-nhãn-tịnh.
[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “các đường
ác”, Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh thay Phật nói về sự lìa
bỏ thế-gian, tu hạnh A-lan-nhã. Thoạt tiên, Bồ-tát nói với
đại-chúng hoan-hỷ cho Bồ-tát nói về hạnh ấy. Bồ-tát
nói: sở-dĩ các vị tới ở nơi A-lan-nhã là do chán ngán những
phiền-não đáng sợ ở thế-gian.
[2] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy 5 dục”, đến
chỗ “thường lạc”, quán-sát riêng biệt về 5 dục ở
đời. 5 dục này ví như 5 con rắn “thất-bộ-xà”, làm hại
chúng-sinh rất nhiều. Chúng-sinh vì ham-đắm sắc, thanh, hương,
vị, xúc mà phải luân-hồi sinh-tử.
[3] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy sự tham…”,
đến chỗ “A-lan-nhã”, quán-sát riêng biệt về sự tham
của. Người tham của bỏn-sẻn ngay nơi mình, còn đâu là
có tâm bố-thí. Tham-lam phải chịu quả-báo chính-thức trong
địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh và cả khi trở lại làm người
cũng phải chịu những quả-báo tương-tự như khi gây nhân
(tương-tự-quả). Vì vậy phải xa-tránh.
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát lấy tâm khát-ái”,
đến chỗ “ngu-si” là quán-sát rộng về các phiền-não.
[5] Ngũ-cái: 5 thứ làm che-lấp tâm, tính không sinh được thiện-pháp:
1/ Tham-dục: tham-muốn. 2/ Sân-khuể: giận-bực 3/ Thụy-miên:
ngủ-nghỉ. 4/ Điệu-hối: xao-động, phàn-nàn. 5/ Nghi-pháp:
đối với pháp còn ngờ-vực, do-dự không quyết.
[6] Ác-tác: Có nghĩa là trước làm, sau hối.
[7] Bốn món điên-đảo: Tức 4 quỉ điên-đảo đã chú-thích
ở số 19 Phẩm Yếm-Xả.
[8] Vô-ký: Một trong 3 tính. Vô-ký là sự trung-dung của thể-tính
trong sự-vật, không thể ghi nhận là tính thiện, cũng không
thể ghi nhận là tính ác. Lại, cảm thiện-quả không thể
ghi-nhận được, cảm ác-quả cũng không thể ghi-nhận được,
đó là “vô-ký”. Thể-tính của vô-ký có 2: 1/ Hữu-phú
vô-ký: thể-tính vọng-hoặc rất yếu-ớt, nên gọi là “vô-ký”.
Song tự-tính vọng-hoặc ấy có thể che-lấp Thánh-đạo, nên
gọi là “Hữu-phú vô-ký”. 2/ Vô-phú vô-ký: Yếu-ớt, mà
chẳng phải tự-tính vọng-hoặc, không phải thiện, không
phải ác, là “vô-phú vô-ký”.
[9] Hữu-phú phiền-não: Ám-chỉ vào “Hữu-phú vô-ký”.
[10] Tâm, ý, thức: “Tâm” có nghĩa là tập-hợp lại và phát-hiện
ra, chỉ cho thức A-lại-gia thứ 8. “Ý” có nghĩa là suy-nghĩ,
so lường, chỉ cho thức Mạt-na thứ 7. “Thức” có nghĩa
là phân-biệt, chỉ cho Ý-thức thứ 6.
[11] Hành-tướng sở-duyên: Hành-tướng: Tâm-thức đều có tính-năng
cố-hữu của nó, tính-năng ấy du-hành trong tất cả tướng-trạng
của cảnh-giới (tức là tướng-trạng do hành-động, tạo-tác
mà có) nên gọi là “hành-tướng”. Sở-duyên: “Duyên”
là dính-líu, là liên-lạc. Tâm-thức là “năng-duyên”, chỗ
đối-tượng của tâm-thức là “sở-duyên”. “Hành-tướng
sở-duyên” tức là những sự-vật do hành-động tạo-tác,
là chỗ bị liên-lạc của tâm, ý, thức.
[12] Đoạn trên, từ chỗ “Hoặc có Bồ-tát cho hết thảy những
nghiệp đen-tối”, đến chỗ “không biết được” là quán
khắp tất cả những tạp-nhiễm làm chướng-ngại chính-đạo.
[13] Đoạn trên, từ chữ “Nếu”, đến chỗ “chính-giác”,
chỉ bảo nơi Lan-nhã là nơi tránh xa sợ-hãi của Bồ-tát
trong 3 đời.
[14] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “sinh ra”
là nói rõ nguyên-nhân phát-sinh ra sợ-hãi.
[15] Đoạn trên, từ chỗ “Nếu ta”, đến chỗ “phiền-não”
là nói muốn ở nơi Lan-nhã cần bỏ tất cả mọi chấp, ngay
đến chấp là chứng được Niết-bàn cũng phải bỏ.
[16] Bất-khả-đắc: Tựa như “vô-sở-đắc” (xem trên đã giải).
[17] Đoạn trên, từ chỗ “Các vị nghe kỹ!” đến chỗ “A-lan-nhã”
là nói những người có những công-đức, nên ở nơi A-lan-nhã.
[18] Đoạn trên, từ chỗ “Các vị nên biết!” đến chỗ “chính-giác”
là nên quán lý bình-đẳng làm cho tâm không sinh ra sự phân-biệt.
[19] Thập-tín: 1/ Tín-tâm. 2/ Tịnh-tiến-tâm. 3/ Niệm-tâm. 4/ Định-tâm.
5/ Tuệ-tâm. 6/ Thí-tâm. 7/ Giới-tâm. 8/ Hộ-tâm. 9/ Nguyện-tâm.
10/ Hồi-hướng-tâm. Mười bậc này đều lấy đức “Tín”
làm gốc, nên gọi là “Thập-tín”.
[20] Thập-trụ: 1/ Phát-tâm-trụ. 2/ Trị-địa-trụ. 3/ Tu-hành-trụ.
4/ Sinh-quý-trụ. 5/ Phương-tiện-trụ. 6/ Chính-tâm-trụ. 7/
Bất-thoái-trụ. 8/ Đồng-chân-trụ. 9/ Pháp-vương-tử-trụ.
10/ Quán-đỉnh-trụ. Mười bậc này đều gọi là “Trụ”,
nghĩa là chỗ ở của các vị Bồ-tát an-trụ tâm, đối với
sự tu-hành về lục-độ chưa được rốt-ráo mầu-nhiệm,
cho nên chỉ gọi là “Trụ”.
[21] Thập-hạnh: 1/ Hoan-hỷ-hạnh. 2/ Nhiêu-ích-hạnh. 3/ Vô-khuể-hạnh.
4/ Vô-tận-hạnh. 5/ Ly-si-loạn-hạnh. 6/ Thiện-hiện-hạnh.
7/ Vô-trước-hạnh. 8/ Tôn-trọng-hạnh. 9/ Thiện-pháp-hạnh.
10/ Chân-thực-hạnh. Mười bậc này chú-trọng tu-hành về
pháp lục-độ hơn các hạnh tu khác, nên gọi là “Hạnh”.
[22] Thập Hồi-hướng: 1/ Cứu-hộ chúng-sinh, ly chúng-sinh tướng
hồi-hướng (cứu-giúp chúng-sinh mà không chấp-trước về
sự cứu-giúp). 2/ Bất-hoại hồi-hướng (không bao giờ thoái
lui lòng cứu-giúp chúng-sinh). 3/ Đẳng chư Phật hồi-hướng
(lòng từ-bi cứu-giúp chúng-sinh đã bằng chư Phật). 4/ Chí
nhất-thiết-xứ hồi-hướng (lòng cứu-giúp chúng-sinh mọi
việc đều chu-đáo). 5/ Vô-tận công-đức tạng hồi-hướng
(tích chứa công-đức vô-tận). 6/ Tùy-thuận nhất-thiết kiên-cố
thiện-căn hồi-hướng (thuận theo hết thảy căn lành bền-chắc).
7/ Đẳng tâm tùy-thuận nhất-thiết chúng-sinh hồi-hướng
(đem tâm bình-đẳng tùy-thuận hết thảy chúng-sinh). 8/ Như-tướng
hồi-hướng (làm các công-đức đều hồi-hướng về tự-tính
chân-như). 9/ Vô-trước vô-phược giải-thoát hồi-hướng
(không chấp-trước, không ràng-buộc, một lòng giải-thoát).
10/ Pháp-giới vô-lượng hồi-hướng (hồi-hướng về vô-lượng
pháp-giới). Mười bậc này đều gọi là “Hồi-hướng”,
vì những sự tu-hành của các vị Bồ-tát ấy, đều đem công-đức
mà hồi-hướng cho hết thảy.
[23] Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. “Căn” có nghĩa
là căn-bản, chủ-động phát-sinh ra ngành-ngọn khác, như do
mắt mà sinh ra sự nhận-thức của mắt (nhãn-thức) v.v…
[24] Năm căn: 5 pháp căn-bản sinh ra các thiện-pháp khác: 1/ Tín-căn.
2/ Tinh-tiến-căn. 3/ Niệm-căn. 4/ Định-căn. 5/ Tuệ-căn.
[25] Vô-sinh-nhẫn: An-trụ nơi lý không sinh-diệt bất động.
[26] Bất cộng tối-thượng pháp-môn: Pháp-môn của Phật cao-siêu
hơn hết không cộng-đồng với các hàng Nhị-thừa, như :
18 pháp bất cộng v.v…
[27] Giải-thoát tri-kiến: Một trong 5 phần pháp-thân. Năm phần
pháp-thân là: 1/ Giới: 3 nghiệp của Như-Lai lìa hết thảy
lỗi trái. 2/ Định: chân-tâm tịch-tĩnh của Như-Lai lìa hết
thảy vọng-niệm. 3/ Tuệ: chân-trí viên-minh của Như-Lai quán
suốt pháp-tính, tức là căn-bản-trí. 4/ Giải-thoát: thân-tâm
Như-Lai giải-thoát hết thảy sự ràng-buộc, tức là Niết-bàn-đức.
5/ Giải-thoát-tri-kiến: biết đã thực giải-thoát, tức là
Hậu-đắc-trí. Bởi 5 pháp này mà thành thân Phật nên gọi
là “Năm (ngũ) phần pháp-thân”.
[28] 12 nhập: 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thiệp-nhập
với 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh ra “thức”.
[29] 18 giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức. 18 thứ này, mỗi mỗi thứ
đều có giới-hạn, địa-vị riêng-biệt của nó, không bị
lẫn-lộn nên gọi là “giới”.
[30] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, Bồ-tát xuất-gia ở nơi
A-lan-nhã, suốt ngày đêm…”, đến chỗ “như thế”, quán-sát
nơi A-lan-nhã đầy-đủ hết thảy công-đức, chư Phật cũng
do nơi đây mà thành vô-thượng-giác.
[31] Tứ-đế: 4 lẽ chân-thực: khổ, tập, diệt, đạo
[32] 8 pháp thế-gian: Tức 8 gió (bát phong) đã chú-thích ở trên.
[33] Hai bên: Là đoạn và thường. Là hữu và vô. Là tăng-ích
và tổn-giảm v.v…
[34] Nhất-như chân-pháp-giới: Tức là “Nhất-chân-pháp-giới”
hoặc “Chân-như pháp-giới”.
Toàn
bài kệ trên nói lại ý-nghĩa nên quán-tưởng vô-thường,
phá chấp-trước, tu muôn hạnh, thành chính-quả tại nơi A-lan-nhã.
[35] Văn-trì Đà-ra-ni-môn: Tức là một trong 4 thứ Đà-ra-ni. 4
thứ ấy là: 1/ Pháp-đà-ra-ni (tức Văn-trì đà-ra-ni): đối
với giáo-pháp của Phật, nghe, giữ (văn-trì) không quên. 2/
Nghĩa đà-ra-ni: đối với nghĩa của các pháp tóm giữ không
quên. 3/ Chú-đà-ra-ni: y vào thiền-định phát ra lời bí-mật,
có sự thần-nghiệm không lường, là “chú”. Đối với
lời chú ấy tóm giữ không quên, là “Chú-đà-ra-ni”. 4/
Nhẫn-đà-ra-ni: đối với sự an-trụ trong thực-tướng của
các pháp là “Nhẫn”, duy-trì sự an-trụ ấy (nhẫn) là “Nhẫn-đà-ra-ni”.
[36] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chữ “tịnh”, đức Phật
khen Bồ-tát Nhạo-Viễn-Ly-Hạnh và nói về sự đại-chúng
nghe pháp được lợi-ích.