KINH ĐẠI-THỪA
BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường,
Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
XIII.- PHẨM
CHÚC-LỤY [1]
Bấy
giờ, Đức Thích-Ca Mưu-Ni Như-Lai bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ
và vô số đại-chúng trong hải-hội rằng: “Tôi ở trong
vô-lượng ức trăm nghìn đại-kiếp, không tiếc thân-mệnh,
đầu mắt, tay chân, máu thịt, xương-tủy, vợ con, đất nước,
thành-quách, hết thảy ngọc báu, có ai lại xin Tôi, Tôi đều
đem bố-thí và Tôi tu-tập trăm nghìn hạnh khổ khó làm mà
chứng được tâm-địa-quán-môn của Đại-thừa này. Nay Tôi
đem pháp này phó-chúc cho các ông, các ông nên biết kinh rất
sâu rộng này, các bậc được Thập-lực vô-thượng trong
mười phương ba đời [2] đều tuyên thuyết. Kinh báu
nhiệm-mầu tối-cực như thế, làm cho hữu-tình được mọi
sự lợi-lạc. Trong tam-thiên đại-thiên thế-giới, quốc-độ
chư Phật trong mười phương này, có vô-biên các loại hữu-tình,
chúng-sinh trong bàng-sinh, ngã-quỷ, địa-ngục, do nhờ sức
uy-thần, công-đức thù-thắng của kinh Đại-thừa Tâm-Địa-Quán
này, mà làm cho họ khỏi các khổ-não, được hưởng sự
an-vui. Năng-lực của kinh và phúc-đức khó nghĩ bàn được
như thế, làm cho đất nước sở-tại vui-thịnh, không có
oán-địch. Ví như có người được ngọc Như-ý để trong
nhà, hay sinh ra hết thảy đồ vui nhiệm-mầu, kỳ-lạ; kinh
báu nhiệm-mầu này cũng như thế, hay làm cho quốc-giới được
an-vui vô-tận. Cũng như cái trống Mạt-ni trên cõi trời Tam-thập-tam
thiên (Đao-lỵ-thiên) hay phát ra trăm nghìn âm-thanh, làm cho
thiên-chúng ở đấy hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc; trống
pháp của kinh này cũng như thế, hay làm cho quốc-giới được
an-vui tối-thắng. Bởi nhân-duyên ấy, đại-chúng các ông
trụ trong đại-nhẫn-lực mà lưu-thông kinh này!” [3]
Khi
ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Đức Như-Lai hiếm có! Đấng Thiện-thệ hiếm có!
Nên Ngài mới nói ra kinh Đại-thừa Tâm-Địa-Quán nhiệm-mầu
sâu-rộng này, đem lại lợi-ích rộng lớn cho người tu-hành
Đại-thừa. Dạ, bạch Thế-Tôn! Kinh này thực là sâu-nhiệm!
Vậy, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào thụ-trì kinh
này, cho đến chỉ một bài bốn câu kệ, thời những người
như thế được bao nhiêu phúc?”
Đức
Thế-Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Nếu có thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhân nào trong Hằng-hà-sa tam-thiên đại-thiên thế-giới
đầy-dẫy bảy báu mà họ dùng đem cúng-dàng chư Phật ở
mười phương; họ vì mỗi một đức Phật tạo-lập một
tinh-xá bằng bảy-báu trang-nghiêm, đặt để đồ cúng-dàng
Phật và Bồ-tát đủ Hằng-sa kiếp; các Như-Lai kia còn có
vô-lượng đệ-tử Thanh-văn, họ cũng đem cúng-dàng các vị
ấy hết thảy những đồ cần-dùng, như cúng Phật không khác.
Các đức Phật và các vị Thanh-văn như thế sau khi nhập Niết-bàn,
họ lại xây bảo-tháp lớn, cúng-dàng xá-lỵ. Nếu thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhân nào tạm nghe và tin, hiểu một bài bốn câu
kệ trong kinh Tâm-Địa này, phát tâm Bồ-đề, thụ-trì, đọc,
niệm, giải-thuyết, viết chép, cho đến hết sức ít là vì
một người mà nói cho họ nghe, đem những công-đức cúng-dàng
kia, so-sánh với công-đức thu được về thuyết kinh này,
thời trong mười sáu phần kia cũng không bằng một phần này
và cho đến toán-số, thí-dụ cũng không thể sánh-kịp được,
huống là người thụ-trì, đọc tập đầy-đủ và rộng-rãi
vì người mà nói, thời chỗ phúc-lợi thu về không thể hạn-lượng
được.
Nếu
có nữ-nhân phát tâm bồ-đề, thụ-trì, học tập, viết chép,
giải-thuyết kinh Tâm-Địa này, nữ-nhân ấy chỉ phải làm
thân nữ-nhân lần tối-hậu này thôi, sau đây không phải
chịu thân nữ-nhân nữa và không phải sa-đọa vào ác-đạo
cùng tám nạn. Và, thân trong đời này cảm được mười phúc
thắng-lợi: Một là, thọ-mệnh tăng thêm. Hai là, trừ mọi
bệnh não. Ba là, diệt-trừ nghiệp-chướng. Bốn là, phúc-đức
trí-tuệ tăng bội. Năm là, không thiếu tiền của. Sáu là,
da-dẻ mịn-bóng. Bảy là, được người yêu kính. Tám là,
được con hiếu-dưỡng. Chín là, quyến-thuộc hòa-mục. Mười
là, thiện-tâm bền-vững. [4]
Ông
Văn-thù-sư-lỵ! Ở nơi này, nơi khác, nếu ai hoặc đọc tập,
hoặc phúng-tụng, hoặc giải-thuyết, hoặc viết chép kinh
này thời chỗ để kinh quyển này tức là tháp Phật, hết
thảy Thiên, Nhân, phi-nhân…nên đem những đồ trân-bảo quý
nhất trong nhân-gian, thiên-thượng mà cúng-dàng nơi ấy. Sở-dĩ
thế là sao?- Vì, nơi để kinh sách này tức là có Phật, Bồ-tát,
Duyên-giác, Thanh-văn ở đó. Sao vậy?- Vì, hết thảy Như-Lai
tu-hành kinh này, bỏ thân phàm-phu, được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác, hết thảy Hiền-thánh cũng đều từ kinh này mà
được giải-thoát. [5]
Ông
Văn-thù-sư-lỵ! Sau khi Tôi nhập Niết-bàn năm trăm năm, lúc
chính-pháp sắp diệt, nếu có Pháp-sư [6] nào thụ-trì,
đọc tập, giải-thuyết, viết chép kinh Tâm-Địa này, là
kinh đứng đầu trong mọi kinh, thời Pháp-sư ấy cùng Tôi
không khác. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào cúng-dàng,
tôn-trọng vị Pháp-sư ấy, tức là cúng-dàng hết thảy chư
Phật trong mười phương ba đời và phúc-đức được hưởng,
đều bình-đẳng như một không hai. Thế gọi là “Chân-pháp
cúng-dàng Như-Lai” và như thế gọi là “Chính-hạnh cúng-dàng”.
Sở-dĩ thế là sao?- Vì, vị Pháp-sư ấy, ở trong thời-gian
không có Phật, vì chúng-sinh tà-kiến trong đời ác-trược
mà diễn nói ra Tâm-Địa kinh-vương rất sâu rộng này, khiến
chúng-sinh bỏ ác-kiến, đi về đạo Bồ-đề và tuyên-truyền,
lưu-bá rộng-rãi, làm cho giáo-pháp này lâu bền tại thế-gian.
Như thế gọi là “Vô-tướng hảo Phật” (vị Phật không
có tướng tốt), hết thảy Nhân, Thiên đều nên cúng-dàng.
Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào chắp tay cung-kính
vị Pháp-sư ấy, Tôi thụ-ký cho Vô-thượng đại-bồ-đề
và người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
[7]
Nếu
người được nghe kinh Tâm-Địa này, vì báo tứ ân, phát
tâm bồ-đề, hoặc tự mình viết, hay mượn người viết,
hoặc đọc niệm thông-lợi, chỗ được phúc-đức của các
người như thế, đem sức trí-tuệ của Phật mà tính lường
là nhiều hay ít cũng không thể biết được đến đâu là
biên-giới, những người ấy là con thực (chân-tử) của chư
Phật. Hết thảy chư Thiên, Phạm-Vương, Đế-Thích, Tứ-đại-thiên-vương,
năm trăm quyến thuộc Ha-lỵ-đế-mẫu, [8] Nễ-la-bạt-đa
đại-quỷ-thần-vương (Đại-dược-xoa-thần), Long-thần tám
bộ, [9] hết thảy các quỷ-thần nghe pháp ngày đêm không
rời và thường sẽ ủng-hộ. Phật-tử như thế, tăng-trưởng
chính-niệm, trí-tuệ, cùng biện-tài vô-ngại và thường thường
giáo-hóa chúng-sinh, khiến họ vun-trồng nhân Phật. [10]
Ông
Văn-thù-sư-lỵ! Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân như thế khi
sắp mất, hiện-tiền được thấy chư Phật mười phương,
ba nghiệp (thân, khẩu, ý) không loạn. Bắt đầu được mười
thứ thân-nghiệp thanh-tịnh. Những gì là mười?- Một là,
thân không thụ khổ. Hai là, ngươi mắt không lộ. Ba là, tay
không cựa-cậy. Bốn là, chân không co, duỗi. Năm là, đại,
tiểu-tiện không rỉ ra. Sáu là, thân-thể không toát bồ-hôi.
Bảy là, không sờ mó ngoài. Tám là, nắm tay xòe mở. Chín
là, nét mặt không đổi. Mười là, quay nghiêng tự-như. Do
năng-lực của kinh mà có những tướng như thế! Thứ nữa
được mười thứ ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Những gì là mười?-
Một là, nói ra lời nói nhiệm-mầu. Hai là, nói ra lời nói
dịu-dàng. Ba là, nói ra lời nói tốt-lành. Bốn là, nói ra
lời nói thích nghe. Năm là, nói ra lời nói tùy-thuận. Sáu
là, nói ra lời nói lợi-ích. Bảy là, nói ra lời nói uy-đức.
Tám là, nói ra lời nói không trái với họ-hàng. Chín là,
nói ra lời nói Nhân, Thiên yêu-kính. Mười là, nói ra lời
nói khen-ngợi lời Phật nói. Lời nói thiện như thế, đều
do nơi kinh này mà được! Sau nữa, được mười thứ ý-nghiệp
thanh-tịnh. Những gì là mười?- Một là, không sinh giận-bực.
Hai là, không mang lòng kết-hận. Ba là, không sinh tâm bỏn-sẻn.
Bốn là, không sinh tâm ghen-ghét. Năm là, không nói lỗi ác.
Sáu là, không sinh tâm oán-hận. Bảy là, không sinh tâm điên-đảo.
Tám là, không tham mọi vật. Chín là, xa-lìa bảy thứ khinh-mạn.
Mười là, mong-muốn chứng được hết thảy Phật-pháp, viên-mãn
tam-muội. [11]
Ông
Văn-thù-sư-lỵ! Những công-đức như thế, đều do năng-lực
khó nghĩ, bàn được trong sự thụ-trì, đọc-tập thông-lợi,
giải-thuyết, viết chép kinh sách sâu-nhiệm này. Kinh Tâm-Địa
này, trong vô-lượng chỗ, trong vô lượng thời, có những
chúng-sinh không được nghe, huống là được thấy và tu-tập
đầy-đủ? Đại-hội các ông nên nhất tâm phụng-trì, sẽ
chóng xả được thân phàm-phu, thành Phật-đạo.
Bấy
giờ, Văn-thù-sư-lỵ Pháp-vương-tử, vô-lượng Đại-bồ-tát,
Trí-Quang Bồ-tát, nhiều vị Tân-phát-ý Bồ-tát, A-nhã-kiều-trần-như
cùng nhiều vị Đại-thanh-văn, thiên, long tám bộ, nhân, phi-nhân-chúng,
hết đều nhất tâm thụ-trì lời Phật và đều hoan-hỷ,
tín-thụ phụng-hành. [12]
TOÁT-YẾU
XIII.-
PHẨM CHÚC-LỤY
Đức
Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-thù, các Đại-bồ-tát khác cùng
đại-chúng: “Trong vô-lượng đại-kiếp Tôi hỷ-xả thân-mệnh,
tu nhiều hạnh khó làm, mà chứng được quán-môn tâm-địa
của Đại-thừa này. Nay Tôi đem pháp này phó-chúc cho các
ông. Các ông nên biết kinh này chư Phật trong mười phương
ba đời từng nói. Kinh này rất quý báu, làm cho chúng-sinh
trong 6 đạo khỏi khổ, được vui, làm cho đất nước sở-tại
giàu-thịnh. Các ông nên trụ trong đại-nhẫn-lực mà lưu-thông
kinh này!”.
Đại-bồ-tát
Văn-thù bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có người
thụ-trì kinh này, cho đến chỉ trì được bốn câu kệ, người
ấy được phúc thế nào?”
Đức
Phật bảo: “Nếu có người tạm nghe, tin hiểu 4 câu kệ,
phát tâm bồ-đề, thụ-trì, đọc niệm, giải-thuyết, viết
chép, cho đến nói cho một người nghe thời công-đức ấy
hơn 16 phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ chư Phật, Bồ-tát,
Thanh-văn trong mười phương trọn Hằng-sa kiếp. Còn người
thụ-trì đầy-đủ thời phúc-lợi không thể kể xiết được.
“Nếu
nữ-nhân thụ-trì đầy-đủ, đời sau không phải làm thân
nữ-nhân, không phải sa-đọa vào 3 đường ác, tám nạn và,
đời hiện-tại được 10 thắng-lợi: sống lâu, không bệnh,
khỏi nghiệp-chướng, thêm phúc-trí, nhiều của, da đẹp,
người yêu, con hiếu, họ hòa và thiện-tâm bền-vững”.
“Nơi
nào để kinh này được coi như là tháp Phật, Nhân, Thiên
nên tới cúng-dàng vì nơi đó là có Phật, Bồ-tát, Duyên-giác,
Thanh-văn. Sau khi Tôi nhập Niết-bàn 500 năm, có Pháp-sư nào
thụ-trì, đọc tụng, giải-thuyết, viết chép kinh này, thời
Pháp-sư ấy như Tôi không khác. Ai cúng-dàng vị Pháp-sư ấy
tức là cúng-dàng chư Phật trong 10 phương ba đời và được
công-đức cũng như vậy. Đó là “chân pháp cúng-dàng Như-Lai”,
là “chính hạnh cúng-dàng”. Vị Pháp-sư ấy là “Vô tướng
hảo Phật”.
“Ai
muốn báo đáp tứ-ân, phát tâm Bồ-đề, hoặc mình viết,
mượn người viết, hoặc đọc niệm kinh này, được phúc-đức
rất nhiều, dù đem trí-tuệ Phật mà suy-tính cũng không biết
hết được. Người ấy là con chư Phật, được Thiên, Long,
thiện-thần ủng-hộ, chính-niệm, trí-tuệ thêm lên, biện-tài
vô-ngại. Khi sắp mất được thấy chư Phật trong mười phương,
được 10 nghiệp thân thanh-tịnh, 10 nghiệp khẩu thanh-tịnh
và 10 nghiệp ý thanh-tịnh.
“Những
công-đức như thế, đều do năng-lực bất-tư-nghị trong việc
thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép kinh Tâm-Địa
này. Kinh này có nhiều nơi, nhiều thời chúng-sinh không được
nghe, huống là được thấy, được tu-tập! Vậy, các ông
nên nhất tâm phụng-trì, sẽ chóng xả thân phàm-phu và mau
thành Phật-đạo!”
Khi
ấy, các Đại-bồ-tát, các vị Bồ-tát mới phát tâm, các
vị Đại-thanh-văn cùng vô-lượng Thiên long tám bộ, đều
nhất tâm thụ-trì lời Phật và đều hoan-hỷ tín-thụ phụng-hành.
HẾT
[1] Chúc-lụy: Có nghĩa là giao-phó công việc đang làm cho người
sau gánh-vác, duy-trì và phát-triển, mà công việc ấy làm
cho người được giao-phó phải quan-tâm, bận-bịu (phiền-lụy)
tới.
[2] Thập lực… Mười lực của Như-Lai: 1/ Trí-lực hiểu biết
chỗ đúng đạo-lý hay không đúng đạo-lý của sự-vật.
2/ Trí-lực biết nhân-quả nghiệp-báo 3 đời của chúng-sinh.
3/ Trí-lực biết các môn thiền-định, giải-thoát tam-muội.
4/ Trí-lực biết các căn thắng (hơn), liệt (kém) của chúng-sinh.
5/ Trí-lực biết mọi tri-giải (sự hiểu biết) của chúng-sinh.
6/ Trí-lực biết mọi cảnh-giới của chúng-sinh. 7/ Trí-lực
biết được chỗ sẽ đến của mọi đường (đạo). 8/ Trí-lực
biết dùng Thiên-nhãn không chướng-ngại. 9/ Trí-lực biết
túc-mệnh vô-lậu. 10/ Trí-lực biết dứt hẳn tập-khí.
Đây
là chỉ về sự hiểu biết của chư Phật trong 10 phương ba
đời.
[3] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “kinh này”,
đức Phật nói về sự tu-hành của Ngài trong nhiều kiếp
Ngài mới chứng được quán-môn Tâm-địa này, nay Ngài giao-phó
cho đại-chúng, nên nhẫn-nhục cố-gắng truyền-bá kinh này
cho tất cả, trong khắp nơi, đừng để mất, vì kinh này ở
đâu, đem lại nhiều sự an-lạc cho nơi ấy.
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, tới chỗ “bền vững”,
Bồ-tát Văn-thù hỏi Phật về công-đức duy-trì kinh này,
đức Phật dạy: “duy-trì kinh này được nhiều lợi-ích
hơn cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát, Thanh-Văn. Và, nếu nữ nhân
nào duy-trì còn được thêm 10 thắng-lợi.”
[5] Đoạn trên, từ chỗ “Ở nơi này”, đến chỗ “giải-thoát”,
đức Phật nói kinh này để ở đâu cũng như tháp Phật ở
đó, nên cúng-dàng.
[6] Pháp-sư: Danh-từ tôn-xưng những vị tinh-thông Phật-pháp,
khả-dĩ làm khuôn thước cho người.
[7] Đoạn trên, từ chỗ “Sau khi”, đến chỗ “chính-giác”,
đức Phật nói về công-đức của vị Pháp-sư duy-trì kinh
này rất lớn, nên cung-kính cúng-dàng, cũng như Phật.
[8] Ha-lỵ-đế-mẫu: Ha-lỵ-đế (Hariti), Tàu dịch là “Hoan-hỷ”.
Ha-lỵ-đế-mẫu tức là quỉ tử-mẫu (mẹ con con thần-quỉ).
Bộ-tỳ-nại-gia tạp-sự quyển 31 nói: “Xưa kia trong thành
Vương-xá có một vị Độc-giác ra đời, mới thiết đại-hội.
Trong ngày đại-hội có 500 người nghe biết, cùng nhau tới
dự. Khi đi dọc đường họ gặp một người đàn bà chửa
chăn bò, bưng thùng nhũ-lạc (sữa), họ rủ bà ấy đi dự
hội. Bà kia đi theo. Tới nơi, thấy sự vui-vẻ, bà kia ra múa
góp vui, không ngờ bị trụy thai. Thấy sự thể thế, những
người kia bỏ đi, để mình bà đau-đớn, buồn rầu ở đó.
Bà liền tìm bán thùng nhũ-lạc, mua được 500 quả Am-ma-la.
Ngay lúc đó được vị Độc-giác tới thăm hỏi, an-ủi, bà
liền đỉnh lễ, đem quả cúng-dàng và bà nguyện: “Tôi nguyện
sau đây tôi sinh vào thành Vương-xá này ăn thịt hết những
con của những người ở đây”. Do ác-nguyện ấy mà sau này
bà ấy sinh làm con gái cả của quỉ Sa-la-dược-xoa, trong thành
Vương-xá, kết-hôn với Bán-chi-ca dược-xoa, con trai cả của
Bán-xoa-la dược-xoa nước Kiền-đà-la, sinh được 500 con,
hàng ngày cứ bắt những con trai, con gái thành Vương-xá ăn
thịt. Một hôm, đức Phật dùng phương-tiện giấu một đứa
con của quỉ-nữ đó. Quỉ-nữ buồn rầu, thương-xót đi tìm,
biết là ở bên Phật, vào xin Phật, đức Phật bảo: “Ngươi
có 500 con, còn thương một đứa con, huống là những người
khác chỉ một, hai đứa lại không thương ư? Ngay đó, đức
Phật khuyên quỉ-nữ không nên sát sinh và trao-truyền cho ngũ-giới,
thành Ưu-bà-di. Thụ-giới rồi, quỉ-nữ bạch: “Vậy, từ
nay tôi không có trẻ con để ăn thì chết đói mất!”. Đức
Phật bảo: “Ngươi đừng lo, từ nay trở đi nơi nào có Thanh-văn
đệ-tử của Ta, mỗi khi ăn cơm, gọi đến tên mẹ con ngươi,
mẹ con ngươi sẽ được no đủ, nhưng mẹ con ngươi đối
với trong giáo-pháp của Ta phải dốc lòng ủng-hộ nơi Già-lam
cùng các Tăng-Ni!” Mẹ con con quỉ đều vui-vẻ”.
[9] Tám bộ: 1/ Thiên. 2/ Long 3/ Dạ-xoa. 4/ Càn-thát-bà. 5/ A-tu-la.
6/ Ca-lâu-la. 7/ Khẩn-na-la. 8/ Ma-hầu-la-già.
[10] Đoạn trên, từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “nhân Phật”,
đức Phật nói công-đức duy-trì truyền-bá kinh này trong việc
báo tứ-ân.
[11] Đoạn trên, từ chỗ “Ông Văn-thù….” đến chỗ “Tam-muội”,
đức Phật nói về sự lợi-ích trong việc duy-trì, truyền-bá
kinh này khi sắp chết được thấy chư Phật, được 10 thứ
thanh-tịnh về thân, khẩu, ý-nghiệp.
[12] Đoạn trên, từ chỗ “Những công-đức như thế”, đến
chỗ “phụng-hành”, đức Phật kết-thúc, khuyên đại-chúng
nên nhất tâm tu-trì kinh này. Đại-chúng đều nhất tâm hoan-hỷ,
phụng-trì.
Đến
đây hết quyển thứ 8.
IX.- PHẨM
CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM [1]
Bấy
giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức thành-tựu
sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức
gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức
Thế-Tôn vì tôi mà giải-thuyết cho”.
Lúc
đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Các ông, thiện-nam-tử!
Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở
nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy
là gì? Là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não, tức là
tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở
nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị
người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi
theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới
phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là người ấy không
biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm
cảnh [2] từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở
nơi A-lan-nhã được bằng cách toàn-thiện. Bởi nhân-duyên
ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi tịch-tĩnh, cầu
vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt,
nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời
vô-thủy đến ngày nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ
nào ra được là đều tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo,
đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái nhiễm-trước”. Bồ-tát
như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã.
Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được
thành Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi
khổ trong ba cõi, phá bốn ma-quân [3] chóng thành Bồ-đề,
chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên, long
tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân
nào lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã như thế, được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như
có người đem mọi thứ trân bảo cúng-dàng bi-mẫu được
công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế không
khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác, quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng
khiến không đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh.
[4]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp ràng-buộc người tu hành,
làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một
là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu,
đồ vui.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không chịu đựng ở nơi
A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu
mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không nên ở nơi A-lan-nhã:
Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời Phật. Hai là,
hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những
người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng.
[5]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức cần nên an trụ
nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe giỏi):
tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu
biết rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn
không phóng-dật. Bốn là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành.
Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn thắng-đức
như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát, cầu
đạo vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, trang-nghiêm
tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn?
Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn
là, đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết
thảy phúc-đức, trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng
chúng-sinh, chóng chứng pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.
Lại
nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, giữ giới thanh-tịnh,
đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường trụ
trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh
Đầu-đà. Ba là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn
lừa, nịnh, ghen-ghét. Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào
bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được Đại-bồ-đề. [6]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp tóm
thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ giới
cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định,
đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông,
tu cả chủng-trí. Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không
phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, các Bồ-tát
trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia đủ bốn pháp, đối
với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là
bốn? Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn
là, đồng sự. Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường
đi tới Bồ-đề, là căn-bản lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát
đều nên tu học.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại đủ bốn đức
ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính,
để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là,
quán-sát tha-thân cũng không có bản-tính, để đối với kẻ
oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc,
để tâm và tâm sở-pháp không còn phân-biệt. Bốn là, được
bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có sự sai
khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát
nên tu-tập, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới
đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát lại có bốn nguyện
làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi Tam-bảo
trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những
gì là bốn? - Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là,
thề đoạn hết thảy phiền-não. Ba là, thề học hết thảy
pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy Phật-quả. Thiện-nam-tử!
Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập,
vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp ở
nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? - Một
là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ.
Hai là, được sự không sợ hãi, vì chứng được chính-định.
Ba là, đối với các chúng-sinh khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn
là, đối với hai thứ vô-ngã [7] , không có tâm chán-ngán.
Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu của hết
thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy
dứt bỏ được hai chướng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp, ở
nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là bốn? - Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ ngã-sở-kiến.
Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng
về mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế,
trừ được sự hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới,
trang-nghiêm tự thân.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm diệu-hạnh,
cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? - Một là, quán-sát
năm uẩn sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như
làng xóm trống. Ba là, quán-sát mười tám giới tính đồng
pháp-giới. Bốn là, đối với pháp tục-đế [8] không
bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy
Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên
một lòng tu-tập, cầu đạo vô-thượng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những
gì là bốn? - Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”.
Hai là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu
quán “bất kiến-ý”. Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến,
thành-tựu quán “nhất-thiết-trí” [9] . Thiện-nam-tử! Nếu
có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế, hiện-thân
chứng được “chính-tính ly-sinh” [10] , cho đến chóng chứng
được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử
các ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng
bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh,
khiến chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
[11]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội
thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh.
Ba là, xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục
thân-tâm, Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội
thanh-tịnh. Sáu là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy
là, xa-lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội
thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói pháp không cầu lợi-dưỡng,
Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập sẽ chóng
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? - Một là,
năm uẩn thiện-sảo [12] , trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười
hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Ba là, mười tám giới
thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai căn
[13] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm
là, ba giải-thoát-môn thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Sáu là, hay diệt hết thảy phiền-não thiện-sảo phương-tiện,
trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt tùy phiền-não [14] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt
sáu mươi hai kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Thiện-nam-tử! Tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát
các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng
chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là tám? - Một là, đối với mọi sắc-pháp [15] không
bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với
cảnh thanh-trần (tiếng), không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ
thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông).
Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của chúng-sinh không
bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi
sinh, nơi chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được
Túc-trụ-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh
(Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp vô-số cõi Phật trong mười
phương không bị chướng-ngại, được Thần-cảnh-trí thiện-sảo
phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thần-túc-thông). Sáu
là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay chưa hết
không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện
thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được
hết thảy phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện
thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân hồi-hướng chúng-sinh
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong
mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, hiện thân
được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là, thân-nghiệp
thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp
thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính [16] thanh-tịnh. Năm là,
chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh. Bảy là,
lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm
Bồ-đề thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ thanh-tịnh như thế, hiện-thân
thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị thoái-chuyển đạo
vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có tám thứ: Đa-văn
(nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn thanh-tịnh.
Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn thanh-tịnh.
Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là, an-trụ
chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp,
nói nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ
mình, chê người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát
hết thảy thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe
chính-pháp, y như chỗ nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ đa-văn thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều
nên tu-tập, sẽ chóng chứng được Vô-thượng chính đẳng
Bồ-đề! [17]
Khi
đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát như thế rồi, Ngài
bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi
nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt,
vô-lượng chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai,
phát-tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã,
vì đạo vô-thượng, tu-tập những hạnh-nguyện Bồ-tát như
thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển.
Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được
sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc
Bồ-tát) vô-biên phúc-trí trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử,
chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai sau ngồi dưới cây
Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Trong
lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai vạn năm nghìn vị Bồ-tát
mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị thoái-chuyển,
nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi Thập-tín
đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn
tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và
Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng,
vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]
TOÁT-YẾU
IX.-
PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM
Đại-bồ-tát
Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức
gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”
Đức
Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ cần tu một pháp là
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”,
là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai
không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của
5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn nhiễm-trước vào 6 trần, chưa
thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi tịch-tĩnh thấy
cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới
nay bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh
ra mê-hoặc, điên-đảo, tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như
thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau sẽ thành Phật
và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.
Có
những hạng người không ở nơi A-lan-nhã được: hạng người
thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui, kiêu-mạn, ghét
giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá
giới sai trì giới.
Những
người ở nơi A-lan-nhã có những đức sau đây: Đầy đủ
danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh, chính-niệm, tùy
thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4 vô-cấu-tính,
thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ
hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định,
đủ trí-tuệ, được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện,
không phóng-dật. Đủ bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự.
Quán tự thân không bản-tính, quán tha-thân không bản-tính,
thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn phiền-não,
độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích không-tính,
được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã.
Bỏ ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt,
quán 12 nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng
pháp-giới, tục-đế-pháp không bỏ không ham. Thành-tựu: quán
bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ, bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí.
(Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy, hiện-thân chứng
được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).
Đầy
đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8 pháp trí-tuệ thanh-tịnh,
8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8 thứ thanh-tịnh.
Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Đức
Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Sau khi Tôi nhập-diệt
chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm vô-thượng vào
nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều
chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp
ông (Di-Lặc) chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.
Khi
nghe đức Phật nói Pháp ấy xong, 15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố,
qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn
được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người phát tâm
vô-thượng-giác.
[1] Công-đức trang-nghiêm: “Công” là công-năng trong việc lợi-ích,
phúc-đức; công-năng ấy là đức của thiện-hạnh, nên gọi
là “công-đức”. “Đức” còn có nghĩa là được, do công
tu mà được, gọi là “Công-đức”. “Trang-nghiêm” có
nghĩa là đem những cái hay, cái đẹp, tô-điểm cho đất nước
huy-hoàng, hoặc đem những công-đức tô-điểm cho thân-thể
nghiêm-trang, đẹp-đẽ. Nơi đây, các Bồ-tát đem công-đức
tu được, tô-điểm cho tự-thân, quốc-giới, chúng-sinh được
tốt đẹp.
[2] Năm cảnh: Tức sắc, thanh, hương, vị và xúc.
[3] Bốn ma-quân: 1/ Phiền-não-ma: tham, sân, si…, làm não-hại
thân-tâm nên gọi là ma. 2/ Ngũ-ấm-ma: 5 thứ: sắc, thụ, tưởng,
hành, thức hay sinh ra mọi khổ-não nên gọi là ma. 3/ Tử-ma:
sự chết hay dứt thân-mệnh người ta, nên gọi là ma. 4/ Thiên-ma:
cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hay làm hại việc thiện của người
nên gọi là thiên-ma (ma nơi cõi trời).
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “chúng-sinh”,
Bồ-tát Di-Lặc hỏi về công-đức tu của Bồ-tát, đức Phật
thuyết-minh về một đức mà các Bồ-tát cần tu, đó là đức
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự tâm”.
Nghĩa là, tâm thanh-tịnh không nhiễm. Người được thế là
chân-Phật-tử, nên cúng-dàng.
[5] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “vô-thượng”,
đức Phật thuyết-minh về hai lỗi mà người ở Lan-nhã cần
xa tránh, như những người cho không có nhân-quả, chỉ một
đời là hết v.v…
[6] Chỗ này còn một đoạn: “Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát
xuất-gia lại có 4 pháp khỏi hẳn sinh-tử được đại-bồ-đề”.-
Vì không có những câu sau nữa, sợ lầm, nên không để trên
chính-văn, mà ghi đây để tồn cổ (lời dịch-giả)
[7] Hai thứ vô-ngã: 1/ Nhân-vô-ngã: Cái ta tự-thể, tự-chủ là
“ngã”. Người ta không hiểu thấu nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
cố chấp thân-thể con người là thực, có tự-chủ, tự-tại
gọi là “nhân-ngã”. Nay hiểu rõ nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
thấu suốt đến chỗ thực không có thực-thể của con người
là “Nhân-vô-ngã”. Đó là sự quán đạo của Tiểu-thừa
để dứt phiền-não-chướng, chứng Niết-bàn vậy. 2/ Pháp
vô-ngã: Cố chấp các pháp (sự vật) có thực-thể, thực-dụng
là “pháp-ngã”. Nay hiểu rõ các pháp do nhân-duyên-sinh, thấu
suốt đến chỗ thực không có tự-tính là “Pháp-vô-ngã”.
Đó là quán-đạo của Đại-thừa Bồ-tát, để dứt sở-tri-chướng,
mà được Bồ-đề vậy. Tiểu-thừa chỉ ngộ có “nhân-vô-ngã”,
nhưng Bồ-tát ngộ cả 2 thứ vô-ngã.
[8] Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “Thế-đế”.
Trái với Tục-đế là “Chân-đế”. Chân-đế là thực-nghĩa
của chân-lý. Là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhân thấy.
Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế”.
[9] 4 pháp trên là quán về thân, khẩu, ý và 62 kiến. Quán thân
như-huyễn, không khởi ra sự chấp-trước về thân-kiến.
Quán ngôn-ngữ tính không, không khởi ra 4 sự bất thiện về
nghiệp khẩu. Quán ý, tức tâm, tâm sở đều do duyên-khởi,
không có tự-tính, tức không khởi ra sự phân-biệt. Quán
62 kiến, bỏ hết thảy tà-kiến.
[10] Chính-tính ly-sinh: Còn gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Sinh vô-lậu-trí
dứt trừ phiền-não, nên gọi là “Thánh-tính”. Thanh-văn,
Duyên-giác vào ngôi Kiến-đạo, sinh được một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt phiền-não-chướng; Bồ-tát sinh một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt trừ cả hai chướng: phiền-não và sở-tri, nhân
đó mà được một phần Thánh-tính, xa lìa hẳn sự sinh-khởi
của dị-tính (phàm-phu), nên gọi là “Thánh-tính ly-sinh”.
Chữ “Thánh” có nghĩa là “chính”, nên “Thánh-tính ly-sinh”
tức là “chính-tính ly-sinh”.
[11] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa thiện-nam-tử! Người đủ
4 đức…”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật thuyết-minh
về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần có 11 loại thuộc về 4 đức.
[12] Thiện-sảo: Có nghĩa là tốt lành, hay đẹp, khéo-léo, nhiệm-mầu.
[13] 22 căn: 1/ Nhãn-căn (Caksurindriya): mắt. 2/ Nhĩ-căn (Srotrendriya):
tai. 3/ Tỵ-căn (Ghrànend-riya): mũi. 4/ Thiệt-căn (Jihvendriya):
lưỡi. 5/ Thân-căn (Kày-endriya): thân-thể. 6/ Ý-căn (Manendriya).
(Trở lên thường gọi là 6 căn). 7/ Nữ-căn (Strindriya): bộ
sinh-dục của đàn bà. 8/ Nam-căn (Purusendriya): bộ sinh-dục
của đàn ông. 9/ Mệnh-căn (Jivitendriya): thọ-mệnh của chúng-sinh.
10/ Khổ-căn (Duhkhendriya): đau khổ. 11/ Lạc-căn (Suk-hendriya):
vui sướng. 12/ Ưu-căn (Daumanasyendriya): lo-lắng. 13/ Hỷ-căn
(Saumanasyendriya): vui mừng. 14/ Xả-căn (Upekendriya): không vui
không buồn. (Trở lên 5 căn thuộc về sự hưởng-thụ, thường
gọi là 5 thụ). 15/ Tín-căn (Sraddhendriya): tin thực. 16/ Tinh-tiến-căn
(Viryen-driya): gắng tiến. 17/ Niệm-căn (Smrrtindriya): nhớ nghĩ.
18/ Định-căn (Samàdhindriya): an-định. 19/ Tuệ-căn (Pra-jnedriya):
hiểu biết. (Trở lên là ngũ-căn). 20/ Vị-tri-đương-tri-căn
(Anàjnàtamàsyàmindriya): người tu 9 căn: ý, lạc, hỷ, xả,
tín, tiến, niệm, định, tuệ trong Kiến-đạo, muốn biết
lý Tứ-đế chưa từng biết, mà phát-khởi ra hành-động.
21/ Dĩ-tri-căn (Àjnendriya): người tu 9 căn kia trong Tu-đạo
tuy đã biết rõ lý Tứ-đế rồi nhưng, lại vì dứt các phiền-não
khác, nên đối với cảnh Tứ-đế thường thường phải hiểu
biết. 22/ Cụ-tri-căn (Àjnàtàvindriya): người tu 9 căn kia ở
trong vô-học-đạo đã biết trong sự biết rõ lý Tứ-đế,
tức là đã có đầy-đủ về sự biết ấy. (Trở lên là
3 căn vô-lậu-căn).
[14] Tùy-phiền-não: Những phiền-não tùy thuộc vào căn-bản phiền-não.
Căn-bản phiền-não có 6 là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến,
(ác-kiến có 5: thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ,
giới-cấm-thủ). Tùy phiền-não có 20: 10 tiểu-tùy: phẫn,
hận, phú, não, tật, khan, cuống, xiểm, hại, kiêu; 2 trung
tùy: vô tàm, vô quý và 8 đại-tùy: điệu-cử, hôn-trầm,
bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất-niệm, tán-loạn, bất-chính-tri.
[15] Sắc-pháp: Chỉ cho những pháp (sự-vật) thuộc ảnh-tướng,
có đối-đãi, có hình-chất chướng-ngại. Duy-thức-học cho:
nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc và
một phần pháp-trần thuộc về sắc-pháp.
[16] Chính-tính: Cũng gọi là Thánh-tính. Chủng-tử của vô-lậu-trí
là “Thánh-tính”; xa lìa phiền-não là “Chính-tính”.
[17] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử…đầy-đủ
8 pháp”, đến chỗ “chính-đẳng Bồ-đề”, đức Phật
thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã có 8 pháp Tam-muội thanh-tịnh,
8 thứ trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh, 8
thứ thanh-tịnh nơi hiện thân và 8 thứ đa-văn thanh-tịnh.
Được những 8 đức ấy sẽ chóng chứng vô-thượng-giác.
[18] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chỗ “chính-giác”, đức
Phật nói sau này ai thực-hành hạnh Lan-nhã sẽ được nhiều
lợi-ích. Và đương thời, do nghe pháp, chúng-nhân cũng hưởng
được nhiều lợi-ích.
Đến
đây hết quyển thứ 7.