Ý NIỆM VỀ MẸ
NHÂN MÙA BÁO HIẾU VU LAN
Lâm Như Tạng
Mẹ trong văn hóa và tập tục của Đông Phương và Tây Phương như thế nào?
Mẹ trong kinh điển Phật Giáo, và phương pháp báo hiếu ra sao?
I. DANH TỪ MẸ
Tiếng Việt gọi Mẹ là người đàn bà đã sinh ra ta. Trong đó bao gồm ý nghĩa mười tháng cưu mang chịu không biết bao nhiêu điều cực nhọc cho đến ngày khai hoa nở nhụy và nuôi nấng dạy dỗ cho đến khi khôn lớn nên người. Những thâm ân đó chỉ khi nào chúng ta nuôi con mới biết được công ơn của Cha Mẹ. Như Đức Khổng Tử đã nói: “dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân” (Khi nuôi con mới biết được công ơn Cha Mẹ).
Danh từ Mẹ ấy, tiếng Tây Ban Nha gọi là Madre, tiếng Ý cũng gọi là Madre. Tiếng La Tinh là Mater. Tiếng Anh là Mother. Tiếng Đức là Mutter. Tiếng Pháp là La Mère. Tiếng Hy Lạp là Mitera. Tiếng Nga là Matb (Moma). Tiếng Iran là Modar, Tiếng Trung Hoa là Mouchan (Ma, Mu). Tiếng Ấn Độ là Mata, Tiếng Nhật là Okaasan. Tiếng Ả Rập là Waldetak.
Kể cả tiếng Việt, tất cả 14 ngôn ngữ vừa nêu trên hầu như là đại đa số các dân tộc trên thế giới ngày nay đang dùng những ngôn ngữ đó. Trừ tiếng Nhật và tiếng Ả Rập có âm vận riêng, còn mười hai ngôn ngữ còn lại âm vận na ná giống nhau và đều bắt đầu bằng mẫu tự “M”.
Có
điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tất cả các dân tộc
trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng, thế nhưng khi
nói danh từ Mama tất cả đều biết đó là Mẹ. Làm sao tôi có thể cả quyết được điều đó. Bởi vì chính
tôi đã tiếp xúc trực tiếp với mấy chục người nói những
ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau nhưng khi hỏi danh từ Mẹ
trong ngôn ngữ của họ tất cả đều gọi là Mama. Tôi
chưa thỏa mãn. Vì tôi biết từ đó không phải là ngôn ngữ
chính gốc của họ nên lần lượt họ mới cho biết từ chính
gốc trong ngôn ngữ riêng biệt của mỗi dân tộc. Thế
nhưng tại sao lại có một từ cộng thông như thế. Theo tôi
nghĩ, đó là tiếng nói bập bẹ đầu tiên của đứa bé vừa
mới tập nói mà ra, rồi thành ra tiếng nói phổ thông bất
thành văn trong dân gian của mỗi dân tộc mà thành. Trừ danh
từ Mama là Mẹ vừa nói, ngoài ra không có một từ nào có
tính phổ thông như thế cả. Như vậy đủ chứng tỏ
Mẹ là thiêng liêng cao cả không có người nào hoặc vật
gì khác có thể sánh bằng Mẹ. Khi nghĩ về công sinh thành
dưỡng dục đứa con mà nói, ngay cả Cha cũng không bằng Mẹ.
Vì chỉ có thân thể người Mẹ mới có thể thai nghén và
sinh con được mà thôi.
II.
MẸ TRONG TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Mẹ
là mười tháng cưu mang, ba năm bồng bế, sau đó là giáo
dục cho con nên người hữu ích trong xã hội như Chinh
Phụ Ngâm đã nói:
Ngọt
bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy
con đèn sách thiếp làm phụ thân
Hai
câu thơ trên còn nói lên bổn phận, công lao của người Mẹ
đối với con với chồng trong gia đình Việt Nam.
Cha
Mẹ là chỗ dựa về tinh thần và là cây đa cổ thụ để
con nương nhờ về vật chất:
Gió
đưa cây cửu lý hương
Con
xa cha mẹ thất thường bữa ăn
(không
rõ tác giả)
Hoặc
là:
Có
Cha có Mẹ thì hơn
Không
Cha không Mẹ như đờn đứt dây
(Ca
dao)
Hay
là những câu thơ sau đây đã nói lên được một phần công
ơn của người Mẹ. Trong thời kỳ đầu của sự thai nghén,
người Mẹ phải chịu:
...
Sự
buồn nôn của thời kỳ đầu thai nghén
Mặt
mày xanh choáng váng lúc về chiều
Mắt
tối sầm dù nắng đẹp trưa hè
Những
thú vui không màng mơ tưởng đến
(thơ
Như Tạng)
Khi
bào thai trong thời kỳ phát triển trong cơ thể người
Mẹ:
...
Mỗi
ngày con mỗi lớn
Da
căng theo ngày tháng bước nặng dần
Cữ
kiêng từng hành động lẫn thức ăn
Đêm
trằn trọc dáng nằm ngồi khó nhọc
(thơ
Như Tạng)
Nỗi
lo lắng và đau đớn của người Mẹ trong lúc sinh nở:
...
Nỗi
lo của người gần sinh nở
Những
cơn đau quằn quại vỡ người
Kịp
đến khi nghe con khóc chào đời
Hồn
nhẹ nhõm cơn đau dường đứng lại
(thơ
Như Tạng)
Công lao của người Mẹ nuôi con và lo giáo dục, lo tương lai cho con mình:
Và
con sẽ lớn lên Người dạy bảo
Nuôi
nấng, nâng niu, ấp ủ, dỗ dành
Vì
tương lai, Mẹ lo lắng tảo tần ...
(thơ
Như Tạng)
Biết bao nhiêu là thơ, nhạc, văn chương nói về Mẹ. Nào là ví lòng Mẹ như biển rộng bao la như trời cao không cùng tột... Bài nào nói về Mẹ cũng hay, cũng réo rắt, cảm động dễ đi vào lòng người. Bởi vì nói về Mẹ là nói về tình thương, mà tình thương là bắt đầu từ cõi lòng chân thật và sâu lắng nhất của tâm hồn mình. Do đó nói về Mẹ là nói về những gì mình có kinh nghiệm sống thực, những xúc động chân thành, những suối nguồn êm dịu trong lành mát mẻ nhất. Vì thế cho nên những bài thơ, nhạc... viết về Mẹ đều hay và cảm động.
Vì ân trọng đối với Mẹ như thế nên ngày xưa trong xã hội Việt Nam không được làm đám cưới hoặc người vợ không được có thai trong lúc thọ tang Cha Mẹ. Trong sách “Hải Dương Phong Vật Chí” của Trần Đạm Trai có ghi: “Cổ thời trọng đạo hiếu đến nỗi luật pháp cấm vợ có thai trong khi tang chế, đến đời Lê Thánh Tông mới bỏ lệ ấy, nhân vì có người tỉnh Hải Dương huyện Đường An xã Thời Cử tên là Nguyễn Kim An, thuở nhỏ hàn vi, thời Hồng Đức (1470-1497) làm lính chầu trong cung. Vua thấy có tài nên cho về đi học. 22 tuổi đỗ Hương Cống, rồi thi Hội thi Đình đỗ Bảng Nhãn (học vị của người thi đỗ thứ hai, sau Trạng Nguyên, trong khoa thi Đình). Được bổ làm quan ít lâu sau, về cư tang, giữ trọn ba năm đạo hiếu thì mất, không có con trai, vua cảm thương, từ đó bỏ lệ kia.”
“Các triều vua thường khuyến miễn thuần phong mỹ tục vẫn nhắc nhở đạo hiếu, như lệnh vua Lê Huyền Tông ra năm Cảnh Trị thứ ba (1665) cho tinh biểu những người có hiếu hạnh (cho biển vàng biểu dương hiếu hạnh, trong biển ghi tên tuổi quán chỉ người được khen thưởng và nói rõ duyên do có hiếu hạnh như thế nào) (Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính). Lệnh vua Hàm Nghi năm đầu (1884) ban thưởng biển son khắc bốn chữ vàng “Hiếu Hạnh Khả Phong” cho những người có tiếng hiếu hạnh (Đại Nam Điển Lệ)". (theo sách Đất Lề Quê Thói, của Nhất Thanh, 1992).
Những gương hiếu thảo ngày xưa nhiều khi đã phải hy sinh thân mình để cứu mạng Cha Mẹ. Trong sách “Việt Nam Văn Học Toàn Thư” của Hoàng Trọng Miên có ghi trường hợp: “Lãnh Tạo, người làng Tuần Lễ tỉnh Nghệ An, chống đối triều Minh Mạng. Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng Trấn Nghệ An để dẹp Lãnh Tạo, bị Tạo lừa, ngang nhiên đem quân lính tới dinh trấn giả làm đi thanh tra; Lê Văn Duyệt dụ hàng, tâu vua cho làm quan, Tạo không chịu, chỉ ưng nhận vàng bạc rồi đi. Sau đó Lê Văn Duyệt sai lính bắt giữ mẹ và vợ của Tạo. Vì thương Mẹ mà Tạo phải ra hàng...”
Năm 1962, Thầy Nhất Hạnh cho ra đời tác phẩm Bông Hồng Cài Áo rất nổi tiếng và rất thành công trong mục đích cổ võ cho Ngày Mẹ nhằm ngày Vu Lan rằm tháng bảy Âm Lịch. Hiện nay ngày rằm tháng bảy đã nghiễm nhiên trở thành Ngày Mẹ của người Việt Nam. Trong ngày ấy hoa hồng được cài cho người có diễm phúc còn Mẹ và hoa trắng cho những người mà Mẹ đã qua đời.
Theo truyền thống Đông Phương thì Hiếu đứng đầu trăm hạnh lành như trong Nhị Thập Tứ Hiếu Diễn Âm của Lý Văn Phức có câu:
Chữ
hiếu hạnh niệm tròn một tiết
Thời
suy ra trăm nết đều nên
Người bất hiếu nghĩa là đối xử không tốt với đấng sinh thành của mình thì khi ra đời không còn ai tin tưởng được người ấy nữa. Do đó mà trăm sự trăm việc sẽ đổ vỡ, không thể thành công trên đường đời dù là việc nhỏ hay việc lớn.
III.
MẸ TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO
A.
Tấm Gương Hiếu Hạnh của Đức Phật
Trong bài kinh Ba Mẹ hồi các đời trước (trong sách “Một Trăm Bài Kinh Phật” của Đoàn Trung Còn, không ghi năm xuất bản) có ghi tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật như sau:
Lúc ấy Phật ngự với Giáo Hội chư đại tỳ kheo tại xứ Ca-căn-ga-la (Kacangala). Trong cánh rừng ở gần đó, có bà già tên là Ca-căn-ga-lác (Kâcangalâ), bà xách một cái bình đến giếng mà múc nước.
Lúc ấy Đức Thế Tôn gọi A-Nan và bảo rằng: “Nầy A-Nan hãy đi nói với bà ấy rằng: Đức Thế Tôn khát nước, bà cho Ngài uống với.”
A-Nan nói với bà mấy lời ấy, bà đáp rằng:
“Để tôi đem đến cho Ngài.”
Bà
đổ nước vào đầy bình mang đến trước mặt Phật.
Bà thấy Phật rất trang nghiêm với 32 tướng chánh, 80
tướng phụ, một vòng hào quang sáng ngời. Bà vừa thấy
Phật, tình Mẹ thương con nảy sinh nơi lòng bà,
bà vội đưa tay lên ôm hôn Đức Phật vứa nói rằng: “Con tôi! Con tôi!” Mấy vị tỳ kheo muốn cản bà lại
nhưng Đức Phật liền phán rằng: “Nầy chư tỳ kheo!
Chớ cản bà ấy!”
Tại
sao vậy?
Bởi vì trong năm trăm đời liên tiếp bà đã làm Mẹ ta:
Vì
tình mẫu tử sâu xa
Nên
bà chạy đến ôm ta hôn nhầu
Ai
mà ngăn cản đón đầu
Thì
bà tức giận máu hầu tuôn ra
Ta
đây nhớ Mẹ buổi qua
Cám
ơn nghĩa nặng vì ta bao đời
Từ
bi, thương xót lấy người
Nên
ta chịu để ôm vùi mà hôn
Liền sau đó Đức Thế Tôn thuyết pháp Tứ Diệu Đế để độ bà. Bà liền chứng quả Tu-Đà-Hườn và đọc bài kệ như sau:
Làm
con mà biết báo đền
Tác
thành việc khó, đáp tình mẫu thân
Thế
Tôn giữ trọn hiếu phần
Giúp
ta đổi tánh thoát trần dứt mê
Độ
ta ra khỏi bến mê
Đường
Tiên, đưởng Phật đưa về đúng nơi
Con
ta chuyển sức ra tài
Đặng
làm việc tốt, đáng đời kính khen
Sau
đó bà xin phép xuất gia và nhập vào hàng tỳ kheo ni.
Bà tinh tấn tu hành và chứng quả A-La-Hán.
B.
Kinh Tâm Địa Quán
Kinh Tâm Địa Quán, phẩm báo ân, Đức Phật nhân tán thán 500 vị trưởng giả thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đa đến cúng dường Phật và đại chúng. Đức Phật giảng cho họ nghe về công ơn sinh thành của Mẹ như sau:
"...
Mẹ hiền thương con, thật không biết lấy vật gì để
so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi vào thai, trải qua 10
tháng, những lúc Mẹ đi, đứng, ngồi, nằm chịu trăm
điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn
những đồ uống ăn hay áo mặc, dù có được cũng chẳng
mừng, vì lòng lo lắng không hề dứt, chỉ lo nghĩ
cho đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu
khi đẻ khó thì như trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm khắp toàn thân. Nếu khi sanh đẻ an lành, bà mẹ
cùng các thân thuộc cùng chung vui sướng y như kẻ nghèo được châu báu. Sự đau khổ của Mẹ trong mười tháng
do một tiếng khóc đầu tiên của con khi mới lọt lòng, mà nỗi khổ ấy Mẹ liền quên mất và vui sướng
như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng ngực của Mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế làm chỗ dạo chơi, và do nước
giếng cam lồ nơi ngực Mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi
ơn đức của Mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng sánh kịp.
Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những
lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thì
được chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng...”
(Kinh
Tâm Địa Quán, H.T. Thích Tâm Châu dịch) (tham khảo sách
Cho Trọn Hiếu Ân của T.T. Thích Bảo Lạc, 1991).
C.
Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Nhân khi Đức Phật dẫn đại chúng đi hành đạo hướng về Phương Nam, giữa đường Đức Phật đến lạy trước một đống xương khô đã lâu đời chất to như quả núi. Đại chúng thấy vậy không rõ nguyên do, A-Nan liền bạch Phật xin dạy cho biết tại sao Đức Thế Tôn lại làm như thế. Phật chỉ rõ rằng đống xương đã chồng chất đó rất lâu đời về trước nên biết đâu trong đó có xương của cha, mẹ, vợ, con, anh, em ta nhiều đời trước. Vì lòng hiếu kính nên ta lạy đống xương như vậy. Đức Phật đã dạy bảo đại chúng rất nhiều về công ơn sinh thành của Cha Mẹ, đặc biệt mười điều chúng ta nên ghi nhớ như sau:
Thế
Tôn lại bảo A-Nan:
Ơn
Cha nghĩa Mẹ mười phần phải tin
Điều
thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười
tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ
hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu
đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều
thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực
đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ
tư ăn đắng nuốt cay
Để
dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều
thứ năm lại còn khi ngủ
Ưót
Mẹ năm khô ráo phần con
Thứ
sáu sú nước nhai cơm
Miễn
con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Điều
thứ bảy không chê ô uế
Giặt
đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ
tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu
con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều
thứ chín miễn con sung sướng
Dầu
phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính
sao có lợi thì làm
Chẳng
màng tội lỗi bị giam bị cầm
Điều
thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành
cho con các cuộc thanh nhàn
Thương
con như ngọc như vàng...
(“Kinh
Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân” - không rõ dịch giả)
Ngoài
mười điều ân trọng ghi trên toàn bài kinh Đức Phật
còn chỉ rất ràng rẽ từng ly từng tý một về công
sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ cho con nên người. Đọc
toàn bài kinh được chuyển ngữ thành thơ song thất lục
bát khiến tôi bùi ngùi xúc động đến rơi nước mắt
nhiều lần khi nghĩ đến người Mẹ qua đời. Tôi thấy mình
bất hạnh vì đã xa Cha Mẹ rất lâu năm, và bây giờ nhìn
đóa hoa trắng trên áo tôi mới thấm dần thấm dần và hiểu nghĩa rất sâu sắc của tâm trạng kẻ
mồ côi.
Đây!
bầu trời đen tối đã phủ kín tâm hồn tôi! Tôi trở
thành kẻ mồ côi Mẹ, đau đớn quá! Cho dù tôi đã bao
nhiêu tuổi trên đầu!...
IV.
PHƯƠNG PHÁP BÁO HIẾU
Tôi nghĩ ai có khát nước đến cùng cực khi gặp nước mới thấy nước uống quý giá vô vàn. Vấn đề báo hiếu cũng vậy. Ai đã mất Cha Mẹ mới thấy phương pháp báo hiếu của Đức Phật dạy là quý báu.
Lấy
kinh nghiệm bản thân mà nói, khi Mẹ tôi còn tại thế
tôi vẫn thường xem kinh sách, vẫn tin lời Đức Phật
dạy, vẫn cầu nguyện cho bảy đời Cha Mẹ đã qua trong quá
khứ siêu sanh về miền cực lạc của Đức Phật A Di
Đà, như trong kinh Vu Lan đã dạy. Vẫn luôn luôn học
về gương hiếu hạnh của Đức Đại Hiếu Mục Kiền
Liên. Vẫn biết ngày Mother's Day của các nước Tây Phương.
Và truyền thống báo hiếu của Đông Phương. Thế nhưng
việc làm đã qua của tôi là do lý trí chủ đạo.
Còn
việc báo hiếu của tôi nhân mùa Vu Lan năm nay được
thúc bách bởi một sự mất mát to lớn nhất trong đời
tôi. Đồng thời nó bắt nguồn từ lòng thương Mẹ mà
ra. Tôi muốn tìm một cái gì đó, một hành động nào
đó để may ra lấp bớt được một khoảng trống trong
tâm hồn.
Ngược dòng thời gian về thời điểm trước khi Mẹ tôi qua đời, tôi thường tìm hiểu xem những người không phải là Phật tử họ nghĩ gì về tôn giáo của mình, để có thêm kiến thức. Tôi cũng tìm hiểu những giáo lý của Đức Phật dạy được các học giả khác tôn giáo với mình và các nhà khoa học, triết gia Tây Phương có những nhận xét gì về Phật Giáo để củng cố thêm niềm tin của mình về phương pháp báo hiếu của Đức Phật dạy.
Trong đó có Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận là rất nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo có cả các vị Linh Mục đã áp dụng phương pháp thiền quán để tu tập, trau dồi thân tâm của họ.
Một
học giả đạo Hồi đã nói: Đức Phật là của cả
nhân loại (Buddha is for whole mankind. The Buddha is not property
of Buddhists only. He is the property of whole mankind. His teaching
is common to everybody. Every religion, which came into existence
after the Buddha, has borrowed many good ideas from the Buddha).
Triết
gia Bertrant Russell ca ngợi Phật Giáo có triết lý hành
động vĩ đại nhất và lâu đời nhất...
Có
thể nói khoa học gia nổi tiếng nhất thế kỷ, Albert
Einstein, đã nói là: “Phật Giáo đương đầu với khoa
học” (Buddhism copes with Science), (If there is any religion
that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Theo
tôi không phải Phật Giáo đương đầu với khoa học
mà Đức Phật đã hướng dẫn cho khoa học tự nhiên
tiến lên về mọi mặt mới đúng. Tôi không muốn dài
dòng trìch dẫn lời Đức Phật để chứng minh ở
đây vì bài báo đã quá dài. Xin mời bạn đọc đọc duy thức học ta sẽ thấy Đức Phật đã giải thích
về nguồn gốc của con người và vũ trụ rất tinh tế, rất khoa học, khiến các nhà khoa học và các triết gia
phải tìm tòi học hỏi.
Giáo sư Rhys Davids nói rằng: “không có tôn giáo nào vượt trội hơn Phật Giáo”. (Nothing to surpass Buddhist. Buddhist or not Buddhist, I have examines every one of the great religion systems of the world, and in none of them have I found anything to surpass, in beauty and comprehensiveness, the Noble Eightfold Path and the Four Noble Truths of the Buddha. I am content to shape my life according to that path). (tham khảo sách “BUDDHISM in the EYES of INTELLECTUALS” của K. Sri Dhammananda).
Trở lại lời Phật dạy về phương pháp báo hiếu trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân và Kinh Vu Lan: Phật đã dạy rằng vì công ơn của Cha Mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn. Vì thế cho nên chúng ta không thể nào đền đáp công ơn ấy bằng phương pháp vật chất hữu hạn được. Hơn nữa trong cõi luân hồi kể từ vô thủy đến nay, chúng ta có biết bao nhiêu là Cha Mẹ thì làm sao chỉ dùng những phương tiện vật chất để phụng dưỡng Cha Mẹ hiện tiền mà có thể đền đáp thâm trọng ân ấy. Phật đã cho ví dụ là:
Ví
có người gặp cơn đói rét
Nuôi
song thân dâng hết thân này
Xương
nghiền thịt nát phân thây
Trải
trăm ngàn kiếp ân đâu chưa đồng...
(Kinh
Báo Ân)
Như
vậy phải làm thế nào để báo đáp được hiếu ân
đó. Đức Phật đã dạy rất nhiều phương pháp trong
rất nhiều kinh điển như Bố Thí Ba La Mật, Thân Cận
Ba La Mật, Chân Thật Ba La Mật... Nhưng hôm nay xin theo các bộ kinh đã dẫn và đặc biệt về sự giới hạn
của bài này nên chúng tôi xin tóm lược thành hai
phương pháp đơn giản: Tự Lực và Tha Lực.
Thứ
Nhất Là: Tự Lực
Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, cầu Phật Đạo giải thoát, tiến tu, thật học để đem khả năng của mình giảng giải cho mọi người chung quanh chúng ta cùng phát tâm ấy, hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và cuối cùng là cầu nhất thừa Phật Đạo.
Giai
đoạn đầu là chúng ta học hỏi và hiểu thấu đáo
về thâm ân sinh thành của Cha Mẹ. Ăn năn hối cải những
lỗi lầm, nếu có, từ trước đã làm hại mình hại
người vạ lây tiếng xấu đến song thân. Giai đoạn
kế tiếp là phải siêng năng không ngừng nghỉ để đạt
được những thành công lớn trong đời, khiến Cha Mẹ
vui lòng toại nguyện, an tâm vì con... Và làm thế nào để cho Cha Mẹ cảm nhận được lòng hiếu kính, yêu thương
của mình đối với Cha Mẹ. Đồng thời phải có tâm
niệm sung sướng không gì bằng khi mình còn được Cha
Mẹ trên đời. Bởi vì nếu Cha Mẹ biết được
điều đó Cha Mẹ cũng sung sướng vô vàn. Những điều
vừa kể rất đơn giản nhưng không kém phần khó khăn khi
thực hiện được nó. Giai đoạn cuối cùng như trên đã nói
là cầu nhất thừa Phật Đạo để giải thoát cho
mình, và phổ độ giải thoát cho Cha Mẹ nhiều đời đã qua
và hiện tiền Cha Mẹ sống lâu và tránh khỏi những
ách nạn trong đời.
Thứ
Hai là: Tha Lực
Như Đức Phật đã dạy trong Kinh Vu Lan, cho dù chứng được quả Bồ Tát và đã được thần thông quảng đại như Ngài Mục Kiền Liên, cộng với tiếng tăm lừng cả trời người đều nể phục đi chăng nữa, một mình Ngài không thể nào cứu được Mẹ Ngài trong điạ ngục và càng không thể cầu siêu độ cho Cha Mẹ bảy đời trước đó nữa. Như vậy chỉ có một cách là cầu Tha Lực. Hay nói đúng hơn là cầu Cộng Lực của chư Tăng trong mười phương tụ hội nhân ngày rằm tháng bảy, Trong hàng chư Tăng đó gồm có phàm Tăng, thánh Tăng, và những hàng Bồ Tát mười phương vì nguyện lực độ sinh nên các Ngài đã hiện hình làm Phàm Tăng thân cận chúng ta.
Nhân ngày ấy nhờ thần lực Chư Tăng chú nguyện cho sở cầu báo hiếu của chúng ta được viên thành.Source: thuvienhoasen