Mỹ Đức Phạm Kim Dung
Đêm
đêm con thắp đèn trời,
Cầu
cho cha mẹ sống đời với con.
Mẹ
tôi năm ngoái 79 tuổi, đã ăn chay được 15 năm. Ai gặp mẹ
tôi cũng nói mẹ tôi trẻ hơn tuổi thật nhiều. Cũng năm
ngoái này mẹ tôi đã trải qua một ca đại phẫu cắt bỏ
một quả thận vì ung thư ác tính. Bệnh đã phát hiện
ra từ 4 năm trước. Được tin này, nhà tôi và tôi, sau
khi sắp xếp mọi việc là về Việt Nam để thăm mẹ tôi
ngay. Trước khi về Việt Nam, tôi có tham vấn ý kiến của
bác sĩ gia đình về chứng ung thư thận này. Bác sĩ gia
đình của tôi nói rằng hơn 90% ung thư thận là ung thư ác
tính, và khi phát hiện ra bệnh thì thời gian sống không còn
được bao lâu.
Trên
chuyến bay về Việt Nam, tôi bàng hoàng xúc động, luôn nghĩ
rằng mẹ tôi giờ hẳn tiều tụy lắm và có lẽ
lần này là lần cuối cùng tôi được gặp lại mẹ tôi.
Khi máy bay bắt đầu rời khỏi Taipei và hướng về Saigon
là lúc tôi xúc động hơn bao giờ hết. Qua cửa sổ máy bay
chỉ thấy mây trắng xóa, nhưng bảng chỉ khoảng cách giữa
Taipei và Saigon càng lúc càng thu ngắn lại, lòng tôi thổn
thức, nước mắt cứ tuôn đầm đìa.
Thế nhưng khi gặp lại, tôi thấy mẹ tuy hơi già hơn xưa một chút nhưng vẫn khỏe mạnh bình thường, thần sắc tươi sáng, trí tuệ minh mẫn không thay đổi gì cả. Nếu mẹ tôi không đi tiểu ra máu và đau bụng thì chắc sẽ không phát hiện được cái bướu cũng to bằng quả thận bên phải. Sau khi các bác sĩ cho uống một vài loại thuốc thì máu không chảy nữa, và cũng hết đau bụng luôn. Tuy nhiên, các bác sĩ có nói riêng với gia đình tôi là mẹ tôi tuổi đã cao rồi, sức khỏe yếu đuối, bệnh lại ác tính, nếu mổ thì không biết có đủ sức để chịu đựng ca mổ không; vả lại, vì bướu ác tính nên mổ xong không chắc đã diệt được gốc rễ lây lan của mầm bệnh; vì vậy nên để mẹ tôi sống được ngày nào hay ngày đó thôi.
Gặp lại mẹ sau bao năm xa cách, lòng tôi thổn thức vui buồn lẫn lộn vì biết rằng mẹ không còn sống với chúng tôi bao lâu nữa. Tôi thương quý mẹ tôi vô cùng. Mẹ tôi, cũng như bao bà mẹ Việt Nam cao quý khác, cả đời chỉ sống và hy sinh cho chồng và con, chẳng quản khó nhọc, quên cả thân mình, suốt đời không có lấy một giây phút cho riêng mình. Vui niềm vui chung của cả gia đình và buồn nỗi buồn chung của cả gia đình. Tôi nhớ mẹ tôi nói rằng khi còn bé chị em chúng tôi rất hay đau ốm, quặt quẹo luôn luôn. Mỗi khi như thế là lòng mẹ tôi lúc nào cũng như lửa đốt, đứng ngồi không yên, có bao nhiêu tiền là dốc hết cho ông lang và bác sĩ. Nhiều khi chữa lâu không khỏi thì mẹ tôi chỉ mong có một phép lạ xảy ra, hay ai có thể chỉ một cách nào đó để chị em chúng tôi khỏi bệnh thì dù có mất hết cả gia tài hay những gì quý giá nhất mẹ tôi cũng sẵn lòng. Trước năm 1975, mẹ tôi là một bà nội trợ, cả ngày chỉ quanh quẩn trong gia đình. Sau năm 1975, mẹ tôi phải từ bỏ cái tháp ngà gia đình, tảo tần buôn bán, bươn bả kiếm sống để nuôi chị em chúng tôi, đặc biệt là các em tôi khi đó còn rất nhỏ. Mẹ tôi đi buôn hàng chuyến và thường đón xe của cán bộ đi công tác để chở hàng cho an toàn. Khi đó công an kiểm soát rất gắt, phải trốn chạy để giấu hàng. Có lần mẹ tôi và vài bạn hàng đã bị cán bộ lừa lấy hết số hàng trên xe, phải đi xe đò về tay không. Sau này mẹ tôi bị bệnh cao áp huyết. Có lẽ đó là hậu quả của những lần đi buôn hàng chuyến đầy phiêu lưu và sợ hãi để nuôi nấng chúng tôi. Cũng như những bà mẹ Việt Nam tuyệt vời khác, mẹ tôi rất nhẫn nhục, chịu khó, hay lam hay làm gần như chẳng nghỉ tay. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi than thân trách phận, thốt ra lời oán trách, mắng nhiếc, nguyền rủa hay so bì với bất cứ ai. Mẹ tôi cả đời chỉ âm thầm chịu đựng tất cả dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất miễn sao chồng con được no đủ là vui lòng rồi. Nhiều khi tôi tự hỏi điều gì đã khiến mẹ tôi giữ gìn chánh ngữ tuyệt đẹp đến như vậy trong suốt cuộc đời vì khi chúng tôi còn nhỏ, mẹ tôi không bao giờ có thì giờ đọc kinh sách để hiểu rõ tam quy và ngũ giới như thế nào. Mẹ tôi chỉ có thể tìm hiểu giáo lý của Phật khi hầu như tất cả chúng tôi đã yên bề gia thất mà thôi. Tôi nhớ lần đầu tiên khi tụng kinh Báo Hiếu vào dịp lễ Vu Lan, lúc tụng đến đoạn bà mẹ nuôi con sau khi sanh:
“...Điều
thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực
đến đâu bền vũng chẳng lay
Thứ
tư ăn đắng nuốt cay
Để
dành bùi ngọt đủ đầy phần con
Điều
thứ năm lại còn khi ngủ
Chỗ
ướt mẹ nằm, chỗ ráo phần con”
Nhớ đến sự hy sinh trời biển của mẹ tôi mà không cầm được nước mắt. Đức Phật quả là đấng Giác Ngộ toàn năng đã khơi dậy lòng hiếu thảo và tri ân cha mẹ nơi những người con một cách hiệu quả nhất qua việc sử dụng ngôn từ để vẽ lên những hình ảnh ấn tượng nhất của cha mẹ, đặc biệt là những bậc cha mẹ Việt Nam trong phẩm kinh này.
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúc và hãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vời và hiền đức như vậy. Gần như không lúc nào là tôi không nhớ đến mẹ tôi. Hằng ngày và hằng giờ. Mỗi khi nấu được một món ăn ngon, tôi ước gì mẹ tôi ở gần đây hay ở bên tôi để tôi có thể mời mẹ tôi món ăn này. Những tháng ngày sống ở Mỹ chồng chất lên nhau cho đến một ngày kia tôi thấy rõ nỗi ước ao thèm khát có cha mẹ ở bên mình. Nhìn những người có cha mẹ ở bên này, tôi mừng cho họ có một hạnh phúc lớn lao nhưng cũng thấy tủi thân cho mình. Vào những ngày Hiền Mẫu thì tôi nhớ mẹ tôi hơn bao giờ cả. Phải chi giờ này tôi được ở bên mẹ tôi để tôi cũng được nói những lời tri ân mẹ, tặng quà cho mẹ, và dẫn mẹ đi ăn như những người con khác. Cho nên khi đọc “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đến đoạn: “...Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi” thì tôi hiểu ngay. Tôi không muốn mất mẹ. Dù vạn pháp là vô thường, có sinh tất có diệt, nhưng tôi vẫn hằng mong muốn mẹ tôi sống thêm với chúng tôi một thời gian nữa để chúng tôi được tận hưởng suối nguồn hạnh phúc ngọt ngào đó. Gia đình tôi theo đạo Phật. Nhưng chỉ có mẹ tôi, em gái tôi và tôi là những phật tử thuần thành thôi. Bố tôi và các em còn lại của tôi, tuy cũng kính ngưỡng đức Phật, nhưng không có đủ niềm tin sâu sắc như chúng tôi. Tôi và em gái tôi đã làm nhiều việc thiện lành như cúng dường, đúc tượng Phật, đúc chuông, ấn tống, giúp người nghèo... Nhưng từ bây giờ trở đi thì mỗi khi làm những việc đó phải xin hồi hướng công đức này về cho song thân phụ mẫu của chúng tôi với một mục đích duy nhất là để ơn trên gia hộ cho song thân chúng tôi sống thêm một thời gian nữa. Từ khi sang Mỹ, mỗi ngày sau giờ thiền định, tôi đều cầu nguyện chí thành xin Trời Phật cho bố mẹ tôi sống lâu trăm tuổi cùng con cháu. Mỗi khi điện thoại về Việt Nam, biết được bố mẹ đều khỏe là tôi an tâm vô cùng.
Sức khỏe mẹ tôi cứ ổn định như thế cho đến tháng bảy năm ngoái thì mẹ tôi lại đau bụng và đi tiểu ra máu. Bác sĩ cho biết nếu cứ để như vậy thì mẹ tôi sẽ chết vì hết máu. Nếu muốn mẹ tôi sống thì dù sức già yếu, cũng phải mổ cắt bỏ quả thận ung thư thôi. Các em tôi đồng ý để mẹ tôi mổ. Vì từ trước đến giờ cả gia đình tôi đều giấu mẹ tôi bệnh ung thư nên bây giờ phải nói với mẹ tôi là chỉ mổ thận để lấy đi một cái cục gì đó đè lên mạch máu làm chảy máu mà thôi. Nhờ thế mẹ tôi rất vui vẻ chấp nhận lên bàn mổ. Thoạt đầu bác sĩ mổ nội soi để không bị mất máu, vết thương mau lành. Nhưng chẳng may, trong lúc mổ, một động mạch bị đứt, nên phải mổ bình thường để còn vá động mạch đứt lại. Mẹ tôi kiệt sức vì mất quá nhiều máu. Sau khi mổ, mẹ tôi phải nằm trong phòng hồi sức cả tháng trời, hai mắt đỏ sọng, mặt sưng húp, da vàng khè, rũ liệt như tàu lá úa, dù có hai người dìu hai bên, mẹ tôi cũng không đi đứng được. May sao em trai tôi là giáo sư đại học y khoa Saigon nên mẹ tôi được chăm sóc rất đặc biệt với những bác sĩ hàng đầu của Việt Nam và điều trị bằng những phương tiện y khoa tối tân không thua kém gì ở Mỹ. Em dâu tôi là một con dâu thật tốt, đã săn sóc, chiều chuộng và lo lắng cho mẹ tôi hết lòng như mẹ ruột trong lúc sức khỏe và tinh thần mẹ tôi sa sút nhất.
Lúc đó ở đây, lòng dạ tôi rối bời như bòng bong. Thương mẹ đứt ruột mà không thể về thăm mẹ được. Tôi chỉ có thể về được tối đa mười ngày rồi phải trở lại với hình ảnh đau thương của mẹ kiệt sức sau ca mổ. Làm sao tôi có thể dứt áo mà trở về Mỹ trong tình trạng mẹ tôi như thế? Mà nếu không về thì có thể không bao giờ được gặp lại mẹ nữa. Tôi khóc bất cứ lúc nào nghĩ đến mẹ. Tôi cầu nguyện cho mẹ tôi bất cứ lúc nào có thể. Tôi điện thoại cho em gái tôi để em gái tôi nhờ thêm lực cầu nguyện của chư tăng mỗi ngày. Mỗi ngày tôi đến trước ban thờ Tam Bảo, thỉnh chuông, cầu xin chư Phật gia hộ cho mẹ tôi, tụng chú Bạch Y, nguyện xin hồi hướng cho mẹ tôi tất cả những công đức gì mà tôi đã tích lũy được từ đời vô thủy đến nay để nghiệp chướng của mẹ tôi được tiêu trừ, công đức tăng trưởng mà hội đủ duyên tốt lành vượt qua bạo bệnh để sống thêm nữa.
Cứ như vậy, chị em tôi cầu nguyện, chư tăng cầu nguyện cộng thêm với sự chăm sóc chu đáo của các em tôi, mẹ tôi dần dần bình phục như một phép mầu. Những ai đến thăm mẹ tôi lúc mẹ tôi còn trong bệnh viện và găp mẹ tôi bây giờ đều nói rằng đó là một mầu nhiệm khó tin được. Sau khi bình phục, mẹ tôi gầy hơn trước, yếu hơn trước nhưng khí sắc vẫn tươi nhuận và trí nhớ phục hồi đầy đủ. Khi gặp lại tôi, mẹ tôi kể lại một ấn chứng rất lạ kỳ trước và sau ca đại phẫu.
Vào một đêm nọ, vào lúc trời hừng sáng, bỗng nhiên nổi lên sấm sét vang trời và đổ xuống một cơn mưa bất ngờ thật to. Trong lúc mưa dữ dội như vậy, bỗng dưng có một giọt nước rất to rơi xuống mặt mẹ tôi. Mẹ tôi rất ngạc nhiên, lấy tay sờ lên mặt và thấy đúng là hạt nước rơi trên mặt. Mẹ tôi tự hỏi giường mẹ tôi nằm xa cửa sổ, lại qua mấy lớp màn che, làm sao mà hạt nước có thể xuyên qua mấy lớp màn rồi rơi trên mặt mẹ tôi như thế. Vài hôm sau thì mẹ tôi đi tiểu ra máu và trải qua một ca mổ nguy hiểm như đã nói ở trên. Khi mẹ tôi gần như hoàn toàn bình phục, nằm trong căn phòng cũ nói trên thì bỗng dưng một buổi hừng sáng nọ, trời lại nổi sấm sét dữ dội, một cơn mưa lớn lại bất ngờ đổ xuống. Cũng trong cơn mưa này, lại một giọt nước, một giọt nước có lẽ từ cửa sổ xa, xuyên qua mấy lớp màn che để đến rơi xuống cùng một vị trí trên mặt mẹ tôi như lần trước. Mẹ tôi lúc đó sợ quá, òa khóc vì sợ rằng mọi sự sẽ giống như lần trước. Có nghĩa là bệnh sẽ trở lại như cũ.
Nghe chuyện mẹ tôi kể, tôi an ủi mẹ tôi có lẽ đó là nước Cam Lồ Phật Bà Quan Thế Âm ban cho mẹ để chữa khỏi bệnh thôi.
Năm nay mẹ tôi đã 80 rồi. Bầy con nhỏ của mẹ tôi năm xưa nay đã hoàn toàn trưởng thành. Mỗi đứa con, tùy theo nhân duyên, có sự nghiệp riêng và thành công trong lãnh vực riêng của mình. Bố mẹ tôi hoan hỉ và an hưởng tuổi già với con cháu. Tuổi già giống như ngọn đèn trước gió, không biết sáng rồi tắt lúc nào. Một ngày nào đó rồi thì bố mẹ tôi cũng phải trở về theo quy luật của thiên nhiên. Dù biết vậy nhưng mỗi khi nghĩ đến điều đó, tôi vẫn thấy xốn xang trong lòng. Rồi lại rơi nước mắt. Tôi sẽ thành đứa trẻ mồ côi. Chị em tôi sẽ là những trẻ mồ côi. Mỗi lần lễ Vu Lan, tôi phải cài bông hồng trắng vì không còn mẹ. Không. Nhất định không. Tôi sẽ không bao giờ cài bông hồng trắng lên áo vào dịp Vu Lan. Cho dẫu mẹ tôi sẽ trăm tuổi và bỏ tôi lại một mình, tôi vẫn cái lên áo hoa hồng màu đỏ, màu dành cho những người con hạnh phúc vì còn mẹ. Bởi vì mẹ tôi sẽ không mất đi, mẹ tôi chỉ thay đổi sang một trạng thái khác mà thôi. Mẹ tôi vẫn còn đầy ắp trong tâm hồn tôi, mãi mãi và mãi mãi. Như lời nhà bác học Einstein đã nói: “...không có gì sinh ra cũng như không có gì biến mất mà chỉ có sự thay đổi của trạng thái vật chất...”
PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG, Tạp Chí Văn Học Phật GiáoSỐ 15, THÁNG 08/2007
Source: thuvienhoasen