5. NGHI CÚNG DƯỜNG THÁNH ĐẢN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
(Ngày 17-11 Âm Lịch)
* Tiết thứ làm nghi:
- Chuông trống Bát Nhã.
- Cử nhạc khai đàn.
- Chủ lễ đăng điện.
- Cử nhạc tham lễ.
- Chủ lễ niệm hương.
- Dâng hương – tác lễ.
- CÚNG HƯƠNG (chủ lễ xướng):
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phưởng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ:
Tâm Bồ đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa biển khổ mông mênh,
Chóng quay về bờ giác.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát. (3 lần)
- TÁN PHẬT (Tán dương công đức Phật):
Đấng Pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại.
Qui y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận!
- LỄ PHẬT:
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời .
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện qui y.
- ĐẢNH LỄ TAM BẢO:
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận Hư Không, Biến Pháp Giới, Quá Hiện Vị Lai Thập Phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng Thường Trụ Tam Bảo. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; Đương Lai Hạ Sanh Di lặc Tôn Phật; Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát; Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát; Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát; Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật; Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát; Đại Thế Chí Bồ Tát; Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát; Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lễ)
- TÁN HƯƠNG:
Lư vàng vừa bén,
Pháp giới hương bay,
Mười phương chư Phật thảy đều hay,
Theo gió cuốn mây bay,
Xin gởi lòng này,
Chư Phật nguyện về đây.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát. (3 lần)
- TỤNG CHÚ ĐẠI BI:
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặt đậu đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà là, địa rị ni, thất Phật ra da, giá ra gía ra. Mạ mạ phạt ra ma, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà dạ ta bà ha.
- TÁN LỄ:
Tán lễ Tây phương,
Cực lạc thanh hương,
Sen vàng chín phẩm hoa hương,
Cây báu thành hàng,
Thường nghe thiên nhạc du dương.
A Di Đà Phật đại phóng từ quang,
Hóa đạo chúng sanh vô lượng,
Giáng cát tường.
Hiền tiền chứng đẳng ca dương,
Đồng sanh an dưỡng.
Nam mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. (3 lần)
- TỤNG BÀI Ý NGHĨA KỶ NIỆM NGÀY THÁNH ĐẢN:
(Tất cả đồng ngồi, tụng châm, đậu câu thay vì bạch sớ).
Nam mô Tây phương Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (3 lần)
Chúng con cung kính nghe rằng:
Thân vàng tươi tốt,
Ba đời uy đức huy hoàng;
Ao báu sen vàng,
Mười cõi hào quang rực rỡ.
Tịnh nghiệp pháp môn nguyện mở,
Thiện nhơn liên xã xin đăng,
Theo ngài Tuệ Viễn cao tăng, (11)
Niệm Phật vãng sanh Thánh cảnh.
Nhớ đức Di Đà Đại thánh,
Thương tình tiếp dẫn Lạc bang.
Hôm nay tất cả chúng con:
Cung kính quỳ trước đạo tràng,
Chí thành dâng nguyện lên pháp cúng.
Di Đà kinh văn phúng tụng,
Hồng danh Thánh hiệu xưng dường
Dâng đủ ngũ căn hương, (1)
Cúng đầy bát đức thủy. (2)
Cùng thất chi quả quí, (3)
Với chúng diệu hoa tươi. (4)
Cúng duờng Cực lạc Đạo sư,
Tôn vinh giờ thiêng vía Thánh
Đông Tây hai cảnh,
Cảm cách một lòng,
Cúi đầu cầu mong,
Dủ lòng chứng giám.
Tất cả chúng con nghĩ rằng:
Tự tánh Di Đà mặc cảm,
Duỳ tâm Tịnh độ nghĩ suy.
A Di Đà Phật là gì?
Là vô lượng quang,
Vô lượng thọ,
Là vô biên trí tuệ từ bi!
Duy tâm Tịnh độ là gì?
Là đất nước trang nghiêm công đức
Là phương trời tự tại an vui!
Thế nhưng tất cả chúng con,
Từ vô thỉ kiếp đến nay:
Sáu đường sanh tử tới lui, (9)
Ba cõi luân hồi qua lại. (10)
Đến như thế giới chúng con:
Tám nạn, ba tai kinh hãi, (5-6)
Bốn suy, tám khổ chán chường. (7-8)
Đến đây tất cả chúng con:
Nguyện phát minh thể tánh chơn thường,
Hầu thấy Di Đà tự tánh.
Mong xây dựng cuộc đời đạo hạnh,
Ngõ thành Tịnh độ duy tâm.
Cúi đầu thệ nguyện âm thầm,
Ngửa mặt tán dương bày tỏ.
Nam mô Tây phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, tác đại chứng minh.
Duy nguyện:
Núi bạch hào uyển chuyển,
Biển thệ nguyện bao la.
Thả thuyền vô để đến Ta bà,
Rước chúng hữu tình về Cực lạc.
Đồng lên bờ giác,
Cùng thoát bến mê,
Viên mãn lời thề,
Vuông tròn ý nguyện.
- TÁN:
Tây phương thế giới cõi an lành,
Người vật nơi đây thảy hóa sanh.
Bảy báu trang nghiêm đầy đất nước,
A Di Đà Phật nguyện viên thành.
- TỤNG:
(Kinh A Di Đà, lễ 12 Phật hiệu sau kinh hoặc tụng 48 lời nguyện; nên soạn kinh trước khi làm lễ).
- TỤNG:
(Bát Nhã Tâm kinh: Ma ha Bát nhã ... hoặc: A Di Đà Phật thân kim sắc ...)
- TÁN:
A Di Đà Phật,
Thệ nguyện khôn lường,
Phóng quang tiếp dẫn khắp muôn phương,
Thánh đản ca dương,
Công đức nguyện cúng dường.
Nam mô Tây Phương A Di Đà Phật. (3 lần)
- CHỦ LỄ XƯỚNG:
Tôn vinh Thánh Đản lễ viên hoàn,
Công đức vô biên nguyện cúng dàng,
Xin nguyện chúng sanh cùng pháp giới,
Đồng về nước Phật Vô biên quang.
- PHỤC NGUYỆN:
Vừng hồng Phật nhựt huy hoàng,
Tiếng gọi Pháp âm vang dội,
Trang nghiêm Pháp hội,
Thanh tịnh Tăng đoàn,
Sông núi bình an,
Nhân dân hạnh phúc.
Phổ nguyện:
Đàn na thí chủ,
Tăng ích phước điền,
Pháp giới nhơn thiên,
Tề thành Phật đạo.
Nam mô A Di Đà Phật. (đồng hòa)
- TỤNG:
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện được trí tuệ thật sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường làm hạnh Bồ Tát.
Nguyện sanh Cực Lạc cảnh Tây phương,
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh,
Bất thoái Bồ Tát là bạn hữu,
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Tự qui Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ)
Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sanh thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
- CHỦ LỄ XƯỚNG KẾT DIÊN:
Thù ân kỷ niệm,
Lễ đã viên thành,
Chuông trống hòa thanh,
Cúi đầu lễ tất.
* Ghi chú:
1. Ngũ căn hương: Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ - 5 công hạnh.
2. Bát đức thủy: Nước có 8 công đức: ngọt, lạnh, mềm dẻo, nhẹ, trong sạch, không hôi, uống rồi không khô cổ, uống không hại bao tử.
3. Thất giác chi: Bảy giác quán là trạch pháp, tinh tấn, hỷ xả, khinh an, niệm, định và hành xả.
4. Chúng diệu hoa: các thứ hoa quí; xem kinh A Di Đà Sớ Sao thì rõ hơn.
5. Tám nạn: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Uất đơn việt, (nơi đầy đủ mọi thứ sung sướng) trời sống lâu, câm điếc, ngọng lịu, thông minh thế gian, trước Phật, sau Phật.
6. Ba tai: chiến tranh, đói khát và bệnh hoạn.
7. Bốn suy: sanh, già, bệnh, chết; hoặc: thành, trụ, hoại, không.
8. Tám khổ: sanh, lão, bệnh, tử, thương yêu xa nhau, oán ghét gặp nhau, tìm cầu không được, và năm ấm đầy nhầy (tức thân thể to mập, nặng nề, và tinh thần suy nhược); Năm ấm gồm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
9. Sáu đường: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, trời và A tu la.
10. Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc.
11. Cao tăng Huệ Viễn: Tổ lập ra Tịnh nghiệp Đạo tràng để giáo hóa người tu pháp môn Tịnh độ đầu tiên ở Trung Quốc.