Đại Sư Thật Hiền soạn
Việt dịch: Thích Trí Quang
PHỤ LỤC 2: TIỂU TRUYỆN NGÀI THẬT HIỀN (1685- 1734)
Đại sư húy Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, con nhà họ Thời, đất Thường Thục. Vốn dòng Nho giáo. Sinh ra (1685) là đã không ăn mặn, tóc chởm là có chí xuất trần. Cha mất sớm. Mẹ là Trương Thị, biết Đại sư có túc căn nên cho làm con Phật. Lên 7, lạy Ngài Dung Tuyển ở Am Thanh Lương làm Bổn sư. Thông minh dị thường, Kinh điển qua mắt là nhớ kỹ. Năm 15 tuổi thế phát, thông suốt cả sách vở thế gian, lại hay thơ và giỏi cách viết. Tiền bối có nhiều người kết giao làm bạn, nhưng không khoảnh khắc nào Đại sư không nhớ sinh tử là đại sự. Tính chí hiếu. Mẹ mất, quỳ trước Phật tụng Kinh báo ân đến 7 thất. Hằng năm gặp ngày Vu lan lại thiết cúng.
Một hôm đến Chùa Phổ Nhân, thấy một vị Tăng ngã xuống đất, Đại sư thấm thía cái lẽ vô thường nên càng tinh tiến. Năm 24, thọ cụ túc giới tại Chiêu Khánh, nghiêm tập Giới luật, không rời y bát, ngày ăn một bữa, thường không ngủ nghỉ.
Năm Canh Dần (1710) y chỉ Cừ Thành Pháp sư nghe giảng Pháp Hoa, yết kiến Thiệu Đàm Pháp sư học tập Duy Thức, Lăng Nghiêm, Chỉ Quán. Nghiên cứu ngày đêm, chưa hết 3 Hạ mà tôn chỉ của Quán và Thừa, học thuyết về Tánh và Tướng thông suốt tất cả. Thiệu Đàm Pháp sư liền thọ ký làm thế hệ thứ bốn của Ngài Linh Phong thuộc Thiên Thai chính tôn.
Năm Giáp Ngọ (1714) yết kiến Linh Thứu Hòa thượng tại Sùng Phước, tham Thiền với công án “ai niệm Phật.” Tham cứu nghiêm mật, đến nỗi tháng tư năm ấy đã hoảng nhiên đốn ngộ “ta tỉnh mộng rồi.”
Từ đó ứng cơ vô ngại, biện tài vô cùng. Linh Thứu Hòa thượng muốn phú y bát cho, Đại sư từ mà đi, cấm túc ở Chùa Chân Tịch, ngày đọc Tam Tạng Kinh điển, đêm niệm danh hiệu Di Đà. Ba năm hết kỳ hạn, chúng trong Chùa thỉnh giảng Pháp Hoa, Đại sư giảng như sông tuôn suối trào.
Đầu xuân năm Mậu Tuất (1718) Đại sư ở Chùa Long Hưng thuộc Hàng châu, Thiệu Đàm Pháp sư bảo giảng Kinh, Luật thay cho mình và ca tụng hết sức.
Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1719) đến Tứ Minh, núi A Dục, chiêm bái Xá Lợi, trước sau đốt năm ngón tay cúng dường Phật. Mỗi năm đến ngày Phật Niết bàn, Đại sư giảng hai Kinh Di Giáo và Di Đà, khai thị cái nghĩa tâm này là Phật. Mười năm như vậy, pháp hóa khắp cả mọi nơi. Đại sư lại nhận lời thỉnh mời của các Thiền tịch Vĩnh Phước, Phổ Khánh và Hải Vân. Đến đâu thì sinh hoạt ở đó mới, qui cũ ở đó nghiêm.
Nhưng không bao lâu, Đại sư lại thoái ẩn ở Chùa Tiên Lâm thuộc Hàng Châu, không ra khỏi cửa, nỗ lực tu tập Tịnh độ. Mùa Đông năm Kỷ Dậu (1729) Tăng đồ tín đồ Hàng Châu thỉnh Ngài chủ trì Chùa Phạn Thiên, núi Phụng Sơn. Đại sư liền tuyệt hết mọi việc, chỉ nêu Tịnh độ, hạn định trường kỳ, nghiêm lập qui ước, suốt ngày đêm dục nhau nỗ lực, nên ai cũng cho Đại sư là Ngài Vĩnh Minh tái sinh.
Trước sau Đại sư làm chủ các Chùa hơn mười năm, đệ tử đếm vài trăm. Ai học thi văn thì Đại sư thống trách, “mạng người chỉ trong hơi thở ra vào, đâu có rảnh mà học tập văn tự thế gian; sơ sẩy một chút là đã qua kiếp khác, muốn được giải thoát là vô cùng khó khăn.”
Năm Quí Sửu (1733) ngày Phật thành đạo Đại sư bảo đệ tử, 14 tháng 4 sang năm ta đi luôn rồi đó. Từ đó Đại sư đóng cửa niệm Phật, tự hạn mười vạn tiếng trong mỗi ngày đêm.
Qua năm Giáp Dần (1734) mồng hai tháng tư, Đại sư mở cửa, ngày 12 bảo đại chúng: 10 ngày trước đây ta thấy Tây phương Tam Thánh, nay lại thấy nữa thì ta sẽ sinh Tịnh độ. Rồi dặn dò công việc tự viện, từ biệt và khuyến khích mọi người, và bảo: ngày mười bốn tôi nhất định vãng sanh, vậy các người tập hợp niệm Phật giúp tôi. Ngày 13 bỏ ăn uống, khép mắt ngôi yên. Canh năm tắm rửa, thay đồ, quay mặt về hướng Tây mà ngồi. Giờ Tỵ mọi người vân tập, gạt lệ, lạy mà thưa, xin Đại sư ở lại hóa độ cho người. Đại sư lại mở mắt, bảo ta đi là trở lại liền; sanh tử là việc lớn, ai nấy hãy tự tịnh tâm mà niệm Phật. Nói rồi, chấp tay niệm danh hiệu của Phật mà tịch. Giây lát, chỉ lỗ mũi hơi xóp, còn nhan sắc tươi mãi, khi liệm cũng không biến. Linh cốt của Đại sư ban đầu để ở Tháp xây phía Tây đồi Phất thủy của sông Cầm Xuyên, Càn Long thứ 7 (1742) rằm tháng hai, ngày Phật Niết bàn, lại dời về Tháp mới, xây ở phía hữu Chùa A Dục. Tháp cũ thì tàng y bát của Đại sư.
Đại sư sinh ngày 8 tháng 8 năm Khang Hy 24 (1685), 49 tuổi, trong đó có 25 tuổi hạ.
Tác phẩm gồm có:
- Tịnh độ thi 108 bài,
- Chú Tây phương phát nguyện văn,
- Tục vãng sinh truyện,
- Đông hải ngược giải,
- Xá Lợi sám và Niết bàn sám, tất cả đều lưu hành nhân gian.
Đồng học là Luật nhiên, thuật vào ngày trùng dương năm Ất Sửu (1745)