Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Pháp Bảo Đàn

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 32221)
Kinh Pháp Bảo Đàn

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

Mục Lục
Pháp Bảo Đàn Kinh 
Lục Tổ Huệ Năng nói 
Môn Nhân Pháp Hải chép lại 
Cổ Quân Tì Khưu Đức Dị soạn 
Minh Trực Thiền Sư dịch 
Thiện Quang Cư Sĩ tu bổ (Dựa theo bản dịch của Thiền sư Thích Từ Quang)
(Chữ in nghiêng là lời chú giải của người dịch - hoặc người đánh máy)
Luợt Thuật Sự Tích Lục Tổ Đại Sư 
1. Phẩm Tự Tự (Hành Trạng và Do Lai của đời Lục Tổ
2. Phẩm Bát Nhã 
3. Phẩm Quyết Nghi (Nghi Vấn
4. Phẩm Định Huệ 
5. Phẩm Tọa Thiền 
6. Phẩm Sám Hối 
7. Phẩm Cơ Duyên 
8. Phẩm Đốn Tiệm 
9. Phẩm Hộ Pháp 
10. Phẩm Phú Chúc 

 Luợt Thuật Sự Tích Lục Tổ Đại Sư 

Đại Sư tên là Huệ Năng, thân phụ của ngài họ Lư, húy danh Hạnh Thao, thân mẫu của ngài là Lý Thị. 

Ngài sanh vào đời nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán, năm thứ mười hai, nhằm năm Mậu Tuất, tháng hai, ngày mồng tám, giờ tí. 

Lúc sanh ngài, có một đạo hào quang chiếu lên hư không, lại có mùi thơm xông khắp cả nhà. 

Trời vừa rực sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến xin viếng, và gọi thân phụ ngài mà nói rằng: “Nhơn có đứa nhỏ sanh hồi đêm qua, nên chúng tôi đến đặt tên giùm. Nên đặt trên chữ Huệ, dưới chữ Năng.” 

Thân phụ ngài hỏi: “Sao gọi là Huệ Năng? “ 

Một thầy tăng đáp: “Huệ là đem pháp huệ mà thí cho chúng sanh. Năng nghĩa là làm được việc Phật.” 

Nói rồi hai vị tăng liền đi ra, chẳng biết đi xứ nào. 

Đại sư khi lọt lòng mẹ, không bú sữa, ban đêm có thần nhân rưới nước cam lồ cho ngài. 

Khi Ngài Huệ Năng được ba tuổi thì Thân phụ từ trần, an táng ở cạnh vườn. 

Thân mẫu giữ tiết nuôi con. Lớn lên, Ngài Huệ Năng bán củi đổi gạo nuôi mẹ. 

Đến lớn, hai mươi bốn tuổi, ngài nhờ nghe kinh mà ngộ đạo. Ngài đến viếng Đức Huỳnh Mai Ngũ Tổ mà cầu ấn khả (cầu chứng minh chỗ sở đắc của mình- nd). 

Ngũ Tổ xem Đại Sư, nhận ngài có tài đức xứng đáng, nên phú chúc y pháp và dạy ngài nối ngôi Tổ SưLúc ấy, nhằm đời Đường Cao Tông, ngươn niên Long Sóc, năm Tân Dậu. 

Ngài qua phương Nam ẩn dật mười sáu năm, đến ngày mồng tám tháng giêng, năm Bính Tý, đời Đường Cao Tông, ngươn niên Nghi Phụng, gặp Ấn Tông Pháp Sư, khi ấy (Pháp Sư-nd) mới hiểu rõ cái tông chỉ của Đại Sư. Đến ngày rằm tháng ấy, Ấn Tông Pháp Sư nhóm hết tứ chúng (Tì khưu, Tì Khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di-nd) mà xuống tóc cho Đại Sư, rồi qua mồng tám tháng hai, lại nhóm hết các vị danh đức mà truyền thọ Cụ Túc Giới (250 giới của Tì Khưu-nd) cho ngài. 

Trí Quang Luật Sư ở Tây Kinh làm Thọ Giới Sư 
Huệ Tịnh Luật Sư ở Tô Châu làm Yết Ma 
Thông Ứng Luật SưKinh Châu làm Giáo Thọ 
Kỳ Đà La Luật SưTrung Thiên Trước thuyết giới
Mật Đa Tam TạngTây Thiên Trước chứng giới 
 
Nguyên cái giới đàn này do sư Câu Na Bạt Đà La Tam Tạng ở triều nhà Tống, đứng ra sáng lập, và có dựng bia ghi lời sấm truyền rằng: “ Sau sẽ có một vị Bồ Tát xác phàm thọ giới tại chỗ này.” 

Đến đời Lương Võ Đế, ngươn niên Thiên Giám, lại có Sư Trí Dược Tam Tạng từ Tây Thiên Trước ngồi thuyền vượt biển sang Trung Quốc, đem một gốc cây Bồ ĐềTây Thiên Trước trồng nơi bờ ranh của Giới Đàn ấy, và cũng đặt bia ghi lời dự ngôn như vầy: “ Sau này, một trăm bảy mươi năm, sẽ có một vị Bồ Tát xác phàm khai diễn pháp thượng thừa ở dưới cội cây này, cứu độ vô số chúng sanh, ấy là vị Pháp chủ truyền thọ tâm ấn của Phật.” 

Thật quả như lời sấm truyền. Đại Sư đã đến chỗ này mà thế phátthọ giới, và chỉ bày cái Đơn Truyền Pháp Chỉ (Tâm Pháp-nd) cho tứ chúng vậy. 

Qua năm sau, nhằm mùa xuân, Đại Sư từ giả đại chúng mà về chùa Bửu Lâm. Khi ấy, Sư Ấn Tông cùng các vị tăng, người tục, có trên một ngàn người, đến đưa Ngài thẳng đến xứ Tào Khê

Lúc ấy, có Thông Ứng Luật SưKinh Châu, cùng các vị học giả kể có một trăm người, đều theo ở với Đại Sư

Khi Ngài đến chùa Bửu Lâm tại Tào Khê, thấy chùa chật hẹp, không đủ dung nạp đồ chúng, thì có ý muốn mở rộng ra. 

Đại Sư đến viếng một người trong xóm là Trần Á Tiên mà nói rằng: “ Lão tăng đến đây muốn cầu thí chủ cho một khoảng đất vừa đủ trải tấm tọa cụ (manh vải để trải ngồi-nd) được chăng? “ 

Trần Á Tiên nói: “Tấm tọa cụ của Hòa Thượng rộng là bao lớn?” 

Tổ Sư lấy tấm tọa cụ chỉ cho Trần Á Tiên xem. Trần Á Tiên thưa: “ Được”. Tổ Sư liền lấy tọa cụ phóng ra, bao trùm hết bốn cảnh Tào Khê, lại có bốn vị Thiên Vương hiện thân ngồi trấn bốn hướng. Nay tại cảnh chùa có núi Thiên Vương và nhơn chuyện này mà đặt ra tên núi ấy. 

Trần Á Tiên nói: “Tôi biết pháp lực của Hòa Thượng thật là quảng đại, nhưng vì phần mộ của cao tổ tôi đều nằm trong khoảnh đất này, ngày sau nếu có cất tháp, xin giữ lại các phần mộ, còn giai dư tôi hỉ cúng hết, để làm ngôi Bửu Phường vĩnh viễn. Lại chỗ đất này là mạch núi Sanh Long và non Bạch Tượng, vậy chỉ nên bình thiên, chẳng nên bình địa (Chổ thấp cất cao, chổ cao cất thấp, chẳng nên đục đá, e hư mạch núi-nd) 

Sau chùa kinh dinh kiến trúc, nhứt nhứt đều làm theo lời thỉnh cầu của Trần Á Tiên. 

Mỗi lần Đại Sư đi dạo trong cảnh chùa, gặp chỗ nào nước non xinh đẹp, ngài dừng chân ngồi nghỉ, nên mấy chỗ ấy thành ra các Nhàn Tịnh Cảnh, cộng là mười ba chỗ. Nay kêu là Hoa Quả Viện, cả thảy đều phụ thuộc về chùa Bửu Lâm

Nguyên nơi Đạo Tràng Bửu Lâm, khi trước cũng có Sư Trí Dược Tam TạngTây Thiên Trước, từ Nam Hải qua cửa Tào Khê, lấy tay bụm nước uống, nghe mùi thơm ngọt, thì lấy làm lạ, liền kêu môn nhơn bảo rằng: “Nước nơi đây không khác gì nước bên Tây Thiên Trước, trên nguồn khe chắc có thắng địa, lập Nhàn Tịnh Cảnh được.” 

lần theo dòng nước lên tới nguồn khe, nhìn bốn phương non nước xây vòng, đầu non châu giụm, xinh đẹp lạ lùng...Sư khen rằng:” Cảnh núi này rõ ràng giống như cảnh núi Bửu LâmTây Thiên trước.” 

Sư kêu dân làng Tào Hầu mà bảo rằng: “Nơi núi này nên lập một cảnh chùa, sau đây một trăm bảy mươi năm, sẽ có một vị Vô Thượng Pháp Bửu (chỉ Đức Huệ Năng-nd) diễn hóa tại chỗ này, số người đắc đạo nhiều như cây rừng, vậy nên đặt hiệu chùa là Bửu Lâm (Rừng báu-nd)” 

Thuở ấy, có một vị quan Mục Chủ tỉnh Thiều Châu, tên Hầu Kỉnh Trung, lấy những lời ấy làm biểu dâng cho vua, vua nhận lời xin, lại ban cho một tấm biểu hiệu là Bửu Lâm. Thế mới thành một cảnh chùa Phật. Ấy là một ngôi chùa có trước hết ở đời nhà Lương, niên hiệu Thiên Giám, năm thứ ba. 

Trước điện chùa có một sở đìa (ao-nd), trong đó có một con rồng thường trồi lên hụp xuống, làm diêu động các cây rừng. 

Một ngày kia, rồng hiện hình rất lớn, làm cho sóng nổi, nước trào, mây mù tối mịt. Các môn đồ đều kinh hãi

Đại Sư nạt rằng: “Ngươi có thể hiện hình lớn, mà không thể hiện hình nhỏ được. Nếu ngươi là thần long thì biến hóa được, nhỏ biến ra lớn, lớn biến ra nhỏ.” 

Rồng ấy thoạt nhiên hụp xuống, giây lâu lại hiện ra mình nhỏ, nhảy khỏi mặt đìa. 

Tổ sư mở bình bát, nói thách rằng:” Chắc ngươi không dám chun vô bình bát của lão tăng?” 

Rồng hâm hỡ nhảy tới trước mặt, Tổ Sư lấy bình bát thâu vào. Rồng hết phương vùng vẫy. 

Tổ Sư đem bình bát về chùa, thuyết pháp cho rồng nghe. Rồng liền cởi lốt mà đi mất. Bộ xương này dài đến bảy tấc, đầu đuôi, sừng cẳng, đều có đủ, để lưu truyền tại chùa. Sau Đại Sư lấy đá lấp cái đìa ấy. 

Nay trước điện chùa, phía tả, có cái tháp bằng sắt dựng nơi đó. (Lời chú: Đến niên hiệu Chí Chánh, năm Kỷ Mão, chùa bị nạn binh hỏa, bộ xương rồng ấy thất lạc nơi nào chẳng rõ). 

Đời nhà Đường, Thích Pháp Hải soạn 
 

Đức Lục Tổ có một viên đá trừ yêu, khắc tám chữ: "Long sóc nguyên niên Lư cư sĩ chi." Đá ấy trước để tại Đông Thiền Viện Huỳnh Mai; Đến đời Minh, niên hiệu Gia Tịnh, có người sĩ-hoạn ở Việt Trung tới Huỳnh Mai thỉnh về Tào Khê, nay vẫn còn. 

Quan Hữu thừa Vương Duy ở đời Đường, cầu Thầy Thần Hội làm bài kỷ niệm Tổ Sư: "Lục Tổ sống chung với bọn lao động suốt 16 năm, gặp dịp Thầy Ấn Tông giảng kinh, mới xuống tóc." 

Quan Thứ Sử Liễu Tông Nguyên làm bia kỷ niệm Tổ Sư: "Lục Tổ vâng chịu tín y, rồi ẩn dật ở Nam Hải, trọn 16 năm; Nhận thấy thời cơ hành đạo đã đến, mới về Tào Khê, làm Thầy người." 

Quan Thừa Tướng là Trương Thương Anh làm bài kỷ niệm Ngũ Tổ: "Ngũ Tổ dạy đạo ở Đông Thiền Viện Huỳnh Mai, vì muốn tiện bề phụng dưỡng mẹ già, nên khi gặp thời cơ, niên hiệu Long Sóc đầu tiên, truyền y pháp lại cho Lục Tổ, rồi giải tán đại chúng, cất cốc ở núi Đông Sơn, địa chủ là Phùng Mậu tình nguyện cúng núi ấy cho Ngũ Tổ làm đạo tràng." 

Tham chiếu theo các lý do kể trên mà xét định, Đức Lục Tổ đến Huỳnh Mai, lãnh thọ y pháp của Đức Ngũ Tổ, rồi từ niên hiệu Long Sóc đầu tiên, năm Tân Dậu, qua đến niên hiệu Nghi Phụng, năm Bính Tý, trọn mười sáu năm, Đức Lục Tổ mới đến chùa Pháp Tánh xuống tóc. 

(Phụ chính từ bản dịch của HT TTQ) 
 
 

Phụ chú về bản dịch của HT Thích Minh Trực. 

Trong tất cả các bản dịch về Pháp Bảo Đàn Kinh, tôi chuộng nhất là bản dịch của HT Thích Minh Trực, thế nhưng khi đọc và tra cứu thêm từ các bản dịch khác, tôi cảm nhận rằng bản dịch của HT TMT chỉ được gần hoàn chỉnh, nên tôi liền dùng ngay bản dịch của HT Thích Từ Quang (có Hán Văn phụ kèm) để tu bổ và làm cho bản dịch của HT sát cận với ý kinh. 

Theo nguyên tắc, trong việc dịch văn sách, người dịch phải theo sát nghĩa của nguyên văn, và chỉ được tạo lập các văn từ nếu như ngôn ngữ được chuyễn dịch không tương ưng. Lại nữa, trong bài dịch, HT quá từ bi nên lại để lại quá nhiều phụ chú Hán Văn cho người xưa (thiên về Nho giáo và mạnh về Hán Văn) làm cho người thời nay đọc kinh bị trở ngại trong dòng tư tưởng, hoặc HT vì thương các người sơ cơ, phải phụ chú các câu của Tổ, nhưng vì làm thế mà làm cho nghĩa sâu thành cạn. Có bài kệ của Tổ được HT phiên dịch làm cho câu văn xuông đẹp, nhưng lại mắc lỗi là làm cho câu kệ tối nghĩa hay lại đi xa hơn là làm hoán đổi kinh kệ của Tổ. Đã hơn gần 18 năm, tôi rất bối rối không biết mình phải làm sao cho phải vì tự biết mình không có đủ tài đức. Nhưng rồi, vì Chánh Pháp, vì Phật Đạo của các người đi sau mà tôi tha thiết mà tu bổ và sửa chửa các tì vết của ngọc báu trên. Mong oai linh Chư Phật Tổ chứng minh và HT TMT chứng nhận tấm lòng tha thiết và thành tâmPhật Pháp mà tôi phải làm việc ấy. 

Thế nên, tuy tôi ráng theo sát bản kinh của ngài và lượt bỏ các khoãng dư và không để vào các lời phụ chú của người (trong ấy có xen lẫn tiếng Pháp), mà dùng tất cả các chữ Việt thay ngay các danh từ Hán Việt (như dùng danh từ “Mặt Trời Mặt Trăng” mà thay thế cho các chữ “Mặt Nhật Mặt Nguyệt”, hay thay cả một đoạn văn như “Nhẫn lên gọi là pháp Sám Hối Không Tướng” bằng “lời sám hối kể trên gọi là Sám Hối Không Tướng” cho lời văn rõ ràng hơn, nhưng có đoạn tôi phải bắt buộc phải loại bỏ hoàn toàn các lời phụ chú hoặc thay đổi hết cả các phụ chú của HT TMT. 

Thí dụ như 
 

Trong Phẩm Nghi Vấn, lúc Lục Tổ nói bài Vô Tướng Kệ, có đoạn 
Hán Văn là “Tâm bình hà lao trì giới” 
HT MT dịch “Lòng bình đẳng đâu cần giữ giới" 
HT TQ dịch “Tâm bình chẳng đợi giữ giới.” 

 
Trong kinh cũng có nói Tổ Sư đã thọ 250 Tỳ Khưu Cụ Túc Giới, vì thế đoạn dịch ấy, theo thiển kiến của tôi chưa được chuẩn nên tôi theo nghĩa và văn của HT TMT nhưng dùng lời của HT TTQ mà tu bổ rằng: 

“Lòng Bình Đẳng đâu đợi giữ giới” 

Có nghĩa là đâu phải lúc mình vào chùa tu rồi mới giữ giới, mà ngay bây giờ giữ lòng bình đẳng thì đã đồng với giữ giới rồi. 

 
Hay trong phẩm Tự tự (Hành trạng và do lai của Ngài Lục Tổ), đến khúc 

“Huệ Năng nầy liền hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba vào thất. Ngũ Tổ lấy áo ca sa đắp cho ta, chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Có nghĩa là: Không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình “

HT MT phụ chú ngay sau đó (Để cái tâm trống không, chẳng trụ vào đâu cả) 

Tôi cảm thấy hay hơn là không phụ chú gì cả vì nếu làm như thế thì tự nhiên lại ngay đó mà lấy nghĩa thâm diệu đó làm cho thành cạn và làm sai ý Tổ, vì ngay trong phẩm Bát Nhã, Tổ đã quở việc làm ấy. Thế nên, tôi phải bỏ ngay câu đó và thay vào đoạn chú này để không phụ ý từ bi của HT TMT, nhưng theo sát ý Tổ hơn: 

( Phải thật đúng y như lời, như lúc tiếp vật, xúc chạm, tâm mình vẫn như như không nhiễm, không chấp, không thủ, không xả, không không, cũng không phải là không không. Phải biết, ngoài Bổn Tâm, không còn sanh tâm chi khác. Trên cảnh không sanh tâm, hết cảnh tâm không diệt - Ndm) 

 Hay trong đoạn khác, kinh nói: 

“Phàm người thấy tánh, khi nghe pháp rồi thì phải thấy liền. Nếu được như thế, thì dầu hươi đao ra trận cũng đặng thấy tánh.” 

HT TMT phụ chú (Người lợi căn, dẩu gặp cảnh nguy nan gấp rút, bao giờ cũng thấy tánh mình) 

Tôi cảm thấy lời phụ chú ấy không làm sáng tỏ thêm ý chính của văn, nên thay vào lời này 

(Người lợi căn, dẩu gặp cảnh nguy nan gấp rút, cũng không bao giờ mất tâm, hay sanh tâm chi khác. Dẫu ở Thiên Đường hay Địa Ngục, dẫu cảnh thuận hay nghịch, Bổn tâm vẫn như như, không thêm, không bớt- nđm) 

Trong kinh lại có nói: 

“Ngày kế, Ngũ Tổ lén đến chỗ phòng giã gạo, thấy Huệ Năng này mang đá nơi lưng mà giã gạo (Bởi mình gầy ốm, nên phải mang thêm đá cho đủ nặng, mới đạp nổi cái chày- nd) Ngài nói rằng: “Người cầu Đạo, vì pháp quên thân, phải như thế sao !” Ngài mới hỏi : “ Gạo trắng chưa ?” Huệ Năng nầy đáp : “Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu sàng.” 

HT TMT phụ chú (Ý nói đã thấy tánh, chỉ còn đợi truyền Pháp

Do được lời chỉ dẩn của Bổn Sư, tôi được giảng ý chỉ ấy tường tận, nên thay lời phụ chú ấy như sau ( Khi đã minh tâm kiến tánh thì cái gì làm hay nghĩ đều là pháp. Sàng ở đây là tâm ấn, là phương tiện, như cờ tiết việt, búa lệnh, dấu ấn trên giấy tờ, cho chúng sinh và tất cả các vị Hộ Pháp nay biết rõ, và đồng được sự hộ niệm của chư Phật mười phương chứng minh cho vị này là đại diện cho chúng ta, nói như Chư Phật nói, nghĩ như Chư Phật nghĩ, làm như Chư Phật làm, nơi cõi này hoá độ chúng sinh - ndm) 

 Trong phẩm Sám Hối, HT TMT dịch bài kệ như sau 

(Bản dịch của HTTMT) 

Người mê muội phước cầu, Đạo phế 
Tu phước điền, dối kể Đạo mầu 
Thí cúng nhiều, phước được trùng thâu 
Nhưng ba ác tâm đầu sanh mãi 
Tưởng tu phước, tội trừ ác cải, 
Sau phước lành, tội lại còn sanh 
Ngó trong tâm gốc lỗi trừ thanh 
Tự tánh phải chơn thành sám hối 
Pháp sám hối đại thừa lãnh hội 
Cải tà quy chánh tội không sanh 
Học Đạo thường xem tánh tịnh thanh 
Tức cùng Phật cũng thành nhứt loại 
Pháp Đốn Giáo, Tổ ta truyền dạy 
Nguyện chúng đồng đặng thấy tâm nguyên 
Pháp thân nay mong đặng thấy liền 
Lìa Pháp tướng, tâm điền trong lặng 
Gắng thấy tánh đừng lòng sao lãng 
Niệm sau lìa đời hẳn phế vong 
Hiểu đại thừa, thấy đặng tánh thông 
Phải cung kính hết lòng cầu học 
 

Khi so với bản chánh thì quá khác nghĩa (Ví như câu "Niệm sau lìa đời hẳn phế vong", tự nó trở thành tối nghĩa, còn nếu ngắt câu đi bằng dấu phẩy mà không đúng chỗ thì hỏng: 

1. Niệm sau lìa, đời hẳn phế vong 
2. Niệm sau lìa đời, hẳn phế vong 
3. Niệm, sau lìa đời, hẳn phế vong 

Dù câu số 1 được coi như là gần sát nhất, nhưng khi tra với nguyên văn: 

Hậu niệm hốt tuyệt, nhất thế hưu 

Thì thấy khác ý và văn rất nhiều. Cho nên, tôi phải thay vào bằng bài kệ của HT Thích Từ Quang 

(Bản dịch của HT Thích Từ Quang

Người mê tu phước chẳng hành đạo 
Chỉ nói tu phước ấy là đạo 
Bố thí cúng dường, phước vô cùng 
Ba ác trong tâm gốc còn tạo 
Tưởng rằng tu phước, tội được tiêu 
Đời sau được phước, nhưng còn tội 
Chỉ trừ tội-nghiệp ở nội tâm 
Mới thật tự tánh chơn sám hối 
Bỏ tà làm chánh là không tội 
Học đạo, hằng xem ở tự tánh 
Các Phật cùng ta đồng một loại 
Tổ xưa chỉ truyền Đốn Pháp này 
Nguyện cho chúng sanh đồng thấy tánh 
Nếu muốn về sau thấy pháp thân 
Lìa các pháp tướng, rửa lòng sạch 
Gắng công tự thấy, chớ thờ ơ 
Dứt tuyệt niệm sau, một đời rảnh 
Ngộ được Đại Thừa, thấy tự tánh 
Chấp tay cung kính chí tâm cầu 

Lại nữa, ngài Lục TổNgũ Tổ luôn dạy người tâm phải khiêm nhượng, và cách sống, lời nói, và hành động của các vị cũng như thế. Tuy nhiên, trong lúc dịch, HT TMT luôn để lối xưng hô của các vị Tổ đối với các vị khác là "ngươi"; Đó là cách xưng hô của kẻ có quyền thế khinh miệt kẻ dưới mình. Trái lại, trong khi giảng dạy, Lục Tổ luôn gọi đại chúng là "Chư Thiện Tri Thức", nên chữ "ngươi" này dịch từ Hán ngữ "Nị" là trái nghịch. Tôi thay hết bằng chữ "Ông" hết trong các phẩm.. 

Thí dụ: Trong phẩm Đốn Tiệm, phần Chí Hoàng 

HT TMT dịch: 

Sư rằng: "Ta nghe nói thầy của ngươi dạy pháp Giới Định Huệ cho các học giả, nhưng chưa rõ thầy ngươi nói cái hạnh tướng của Giới Định Huệ như thế nào. Hãy nói lại cho ta nghe." 

Chí Thành bạch: "Tú Đại Sư nói: Các điều dữ chớ làm, gọi là giới. Các điều lành vâng làm, gọi là Huệ. Giữ ý mình trong sạch, gọi là Định. Thầy tôi nói như vậy, chưa rõ Hòa Thượng dùng pháp nào mà dạy người?" 

Sư nói: "Nếu ta nói có pháp dạy người, tức là nói dối với ngươi. Ta chỉ tùy phương tiện mà giải thoát cho người. Phương tiện ấy giả gọi là Tam Muội. Cứ như chỗ thầy ngươi nói về môn Giới Định Huệ thiệt không thể nghĩ bàn được. Chỗ ta nói về Giới Định Huệ lại khác." 

Tôi thay lại: 

Sư rằng: "Ta nghe nói thầy của ông dạy pháp Giới Định Huệ cho các học giả, nhưng chưa rõ thầy ông nói cái hạnh tướng của Giới Định Huệ như thế nào. Hãy nói lại cho ta nghe." 

Chí Thành bạch: "Tú Đại Sư nói: Các điều dữ chớ làm, gọi là giới. Các điều lành vâng làm, gọi là Huệ. Giữ ý mình trong sạch, gọi là Định. Thầy tôi nói như vậy, chưa rõ Hòa Thượng dùng pháp nào mà dạy người?" 

Sư nói: "Nếu ta nói có pháp dạy người, tức là nói dối với ông. Ta chỉ tùy phương tiện mà giải thoát cho người. Phương tiện ấy giả gọi là Tam Muội. Cứ như chỗ thầy ông nói về môn Giới Định Huệ thiệt không thể nghĩ bàn được. Chỗ ta nói về Giới Định Huệ lại khác." 

Tôi chỉ sơ lượt vài điểm cho người đọc được biết lý do, nguyên nhân, tại sao quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của HT Thích Minh Trực lại khác trong này, và căn cứ vào đâu, và dùng sách nào để tu bổ Kinh Pháp Bảo Đàn này. Vì Đạo Pháp, và là một người ưa chuộng đọc các sách kinh sử, tôi chỉ mong đóng góp vào việc hoàn chỉnh quyển Pháp Bảo Đàn Kinh này theo thật sát với Đạo Tối Thượng Thừa, và theo sát với tinh thần dịch thuật. HT TMT và HT TTQ đã làm việc khó nhất, nên tôi chẳng có công gì trong việc này. Thế nhưng làm sao tránh khỏi các việc sơ xuất khi còn năm uẩn bao bọc, nên mong các vị Đại Đức, Thượng Tọa, Thiền Sư, và các học giả thương tình giúp ý kiến thêm cho câu văn thêm được hoàn chỉnh. Ơn trọng. 
 

Cư sĩ Thiện Quang kỉnh bút. 
Ngày 19 tháng 9 năm 2002

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33300)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6560)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11307)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30421)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30447)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12224)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12271)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11621)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12851)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34814)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52286)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10766)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13097)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21869)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9637)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12782)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16252)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13879)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16615)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12141)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13854)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14341)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11768)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14369)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11527)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12680)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11976)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13142)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14569)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20746)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20734)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant