Ý NGHĨA ĐẠI
LỄ VU LAN
Cư
Sĩ : Nguyễn Đức Can
Hằng năm cứ gần đến ngày rằm (15) tháng bảy âm lịch thi tôi lại nhớ đến những kỷ niệm của thời thơ ấu. Lúc đó tôi thấy các cụ trong dân làng thường cúng ở ngoài cổng làng và các ngã ba đường, tôi thấy cúng toàn các bánh kẹo và nấu cháo đổ vào các lá đa đã được cuộn tròn lại, đổ cháo vào trong đó mang cắm dọc hai bên đường, nhang đèn và vàng mã để cúng cô hồn, đó là những linh hồn của những người chết đói hoặc chết oan uổng không có nơi nương tựa thường hay vất vưởng ở ngoài những nơi hoang vu.
Đó là truyền thống của dân gian từ ngàn xưa. Nhưng hôm nay tôi đã được đọc và nghiên cứu các kinh sách Phật Giáo cũng như truyền thống dân tộc tôi thấy mục đích có phần giống nhau nhưng hình thức tổ chức và ý nghĩa khác nhau với trình độ hiểu biết của người dân và Phật Tử có sự tiến bộ hơn. Do đó, tôi xin cống hiến quí độc giả bốn phương và nhất là người Phật Tử hiểu rõ về “Ý Nghĩa của ngày Lễ Vu Lan Bồn” nhân dịp đại Lễ Vu Lan năm nay.
Danh từ Vu Lan là phiên âm từ chữ Phạn Ullambana, người Trung Hoa dịch là Giải Đảo Huyền, có nghĩa là giải cứu tội khổ bị treo ngược. Người Trung Hoa còn gọi lễ này là VU LAN BỒN, chữ Bồn nghĩa là chậu đựng thức ăn dâng cúng. Vậy lễ Vu Lan hay Vu Lan Bồn có nghĩa là lễ dâng cúng thức ăn lên Tam Bảo để xin chú nguyện cho ông bà, cha mẹ những người quá cố trong bẩy đời gọi là cửu huyền thất tổ, nếu ai đã làm những điều tội lỗi ở trần gian, khi ngủ dấc ngàn thu thì bị đầy vào địa ngục, sẽ được nhờ ân đức Tam Bảo được thoát khỏi cảnh địa ngục, được sanh về các cõi an lành khác.
Trong dân gian dựa vào đó, nên có một niềm tin vào các vong hồn bị đầy đọa vào cảnh ngục tù ở dưới âm phủ đã được cứu thoát ra khỏi địa ngục, nên các vong hồn này đang đói ăn, khát uống, bởi vậy người trên trần gian có bổn phận mua sám các lễ vật, thức ăn, cúng các vong linh đang bơ vơ đói khát. Nhưng đây chỉ là một ý nghĩa còn ý nghĩa quan trọng hơn hết đó là lòng hiếu thảo của những người con đối với các bậc sinh thành.
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao, vằng vặc như sông dài, rực rỡ như mặt trời, tỏ rõ như ánh trăng ràm. Lúc thiều thời tôi đã được học thuộc lòng các câu ca dao, truyền bá trong dân gian như sau:
“Ơn
cha cao như núi Thái Sơn
Đức
mẹ hiền sâu rộng biển khơi
Dù
cho dâng cả một đời
Cũng
không trả được ơn trời sinh ra.”
Hay
là
Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một
lòng thờ mẹ kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Đức Phật đã dạy cho ta rằng : “Tâm hiếu tức là Phật tâm. Hiếu Đạo vô phi Phật Đạo”. Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu là đạo Phật.” vì vậy mà đạo Phật xác định: Cùng cực điều thiện không có gì hơn hiếu, cùng cực điều ác không có gì hơn bất hiếu.
Trong các hàng đệ tử của Đức Phật có Ngài Mục Kiền Liên tiêu biểu cho sự hiếu thảo vô biên, nên còn được tôn xưng là “Đại Hiếu Mục Kiền Liên”, ngài có thần thông cao nhất trong số 10 đại đệ tử đầu tiên của Đức Phật.. Ngài đã chứng đươc sắu phép thần thông : 1)-Thấy mọi vật trong vũ tru. (thiên nhãn thông). 2)-Nghe được mọi thứ tiếng ở khắp nơi, (thiên nhĩ thông). 3)-Biết chuyện đời trước, hiện tại và sau này của mình cũng như của mọi người, (túc mạng thông)- 4)-Biết trong lòng người khác đang nghĩ gì, (tha tâm thông). 5)-Biết đi đến khắp nơi, biến hóa nhanh như chớp mắt, (thần túc thông). 6)-Trong sạch hoàn toàn, dứt bỏ hết các trìu mến, không còn chấp ngã. (lậu tận thông).
Một hôm Ngài nhớ đến mẹ, ngài dùng thiên nhãn thông tìm thấy mẹ sanh vào ngã quỉ, không được ăn uống, ngài đem cơm vượt qua chín tầng địa ngục để dâng cho mẹ, bà Thanh Đề lòng vẫn còn bủn xỉn, lấy tay trái che miệng bát cơm, tay phải bốc cơm ăn, nhưng cơm chưa đưa tới miệng thì cơm hóa thành lửa, ăn không được. Ngài Mục Kiền Liên trở về Bạch với Phật. Đức Phật dậy rằng, tội của bà Thanh Đề quá nặng. Mục Kiền Liên “tự lực” không thể cứu được, muốn cứu mẹ, con phải nhờ đến “tha lực” của mười phương chư tăng mới giải thoát được, muốn được vậy phải làm như său :
Đến ngày rằm tháng bẩy là ngày mãn hạn tự tứ của chư tăng, hãy vì ông bà, cha mẹ bẩy đời nhiều kiếp hay các bậc sinh thanh hiện tiền, vì những người đang trong vòng tai nạn, sắm sửa trai soạn, hương hoa và thức ăn tịnh soạn để vào trong BỒN, dâng cúng cho các chư tăng, và lập đại giới đàn để các chư Tăng nhất tâm đảnh lễ cùng hiệp lực cầu nguyện chư Phật mười phương, thì mới giải thoát được cho mẹ.
Đức Mục Kiền Liên vâng lời Đức Phật dậy về làm y như thế , Bà Thanh Đề liền được thoát khỏi kiếp ngã quỉ, được sanh lên cõi trời. Do đó, Đại lễ Vu Lan xuất phát từ thời gian đó cho đến ngày nay hàng năm cứ đến ngày rằm tháng bẩy là mọi người dân Việt, nếu những ai hiểu và sống trong một gia đình có truyền thống dân tộc thì đều tham gia tổ chức lễ Vu Lan để có dịp báo ân sinh thành, cha mẹ hiện tiền, cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà đã quá vãng được siêu sanh cực lạc quốc và xoá tội vong nhân.
Theo truyền thống của Phật Giáo hàng năm quí chư Tăng, Ni nhập hạ trong thời gian ba tháng kể từ ngày Đản Sanh của Đức Phật cho đến ngày rằm tháng bẩy âm lịch với mục đích vân tập về một nơi để tu tập đó là mùa kiết hạ trong dịp ba tháng kiết hạ có dịp ôn tập lại các giới luật, tu tập đạo hạnh và tu học kiến thức phật pháp. ngày hạ nạp (mãn hạ) gọi là ngày Tự Tứ có nghĩa là Pravaranà (thuật ngữ) tiếng Phạn là Bát-thích-bà cách dịch cũ là Tự tứ, cách dịch mới là Tuỳ ý. Nghi thức vào ngày cuối cùng của thời kỳ an cư kiết hạ, ngày đó mọi ngưiời đều tự nêu ra các tội lỗi mà mình đã mác phải (tự kiểm) trước các tỳ kheo khác và tự xám hối nên gọi là Tự Từ..
Trên đây là ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan, một ngày lễ quan trọng của dân tộc Việt Nam và nhất là những người phật tử cần phải thể hiện ra chữ “HIẾU” trong dịp đại lễ Vu Lan hàng năm để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hiện tiền và cửu huyền thất tổ nhiều đời nhiều kiếp của mỗi người con hiếu hạnh../.
Cư Sĩ, Tuệ Minh Đạo NGUYỄN ĐỨC CAN
Source: thuvienhoasen