B. Phái Hoài Nhượng
19. THIỀN SƯ TRÍ THƯỜNG (Qui Tông)Lúc còn tại gia không rõ danh tánh và quê quán ở đâu. Người ta chỉ biết Sư đến tham vấn Mã Tổ, được đại ngộ. Sau từ giã Mã Tổ, Sư đi tìm nơi an trụ. Lúc Sư ra đi đồng thời với Sư Phổ Nguyện, Trí Kiên...
Sau, Sư an trụ tại chùa Qui Tông, ở Lô Sơn.
Sư thượng đường dạy chúng:
- Các bậc cổ đức từ trước không phải chẳng hiểu biết, các ngài là bậc cao thượng chẳng đồng hạng thường. Người thời nay không thể tự thành tự lập, để tháng ngày qua suông. Các ngươi chớ lầm dụng tâm, không ai thế được ngươi, cũng không có chỗ ngươi dụng tâm. Chớ đến người khác tìm, từ trước chỉ nương người khác mà hiểu, nói ra đều kẹt, ánh sáng không thấy suốt, chỉ vì trước mắt có vật.
*
Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là huyền chỉ?
Sư đáp:- Không người hay hội.
- Người hướng về thì sao?
- Có hướng tức trái.
- Người chẳng hướng về thì sao?
- Ai cầu huyền chỉ?
- Ði! Không có chỗ ngươi dụng tâm.
- Ðâu không có cửa phương tiện khiến học nhân được vào?
- Quan Âm sức diệu trí hay cứu khổ thế gian.
- Thế nào là sức diệu trí Quan Âm?
Sư gõ cái đỉnh ba tiếng, hỏi:- Ngươi nghe chăng?
- Nghe.
- Sao ta chẳng nghe?
Tăng không đáp được.
Sư cầm gậy đuổi ra.
*
Ðại Ngu đến từ biệt Sư.
Sư hỏi:- Ði đâu?
- Ði các nơi học ngũ vị thiền.
- Các nơi có ngũ vị thiền, ta trong ấy chỉ có nhất vị thiền.
- Thế nào là nhất vị thiền?
Sư liền đánh.
Ðại Ngu bỗng nhiên đại ngộ, thưa:- Ngưng, con hội rồi.
- Nói! nói!
Ðại Ngu vừa nghĩ trả lời.
Sư lại đánh đuổi ra.
*
Sau, Ðại Ngu đến Hoàng Bá đem việc này thuật lại, Hoàng Bá thượng đường dạy chúng:
- Mã đại sư sanh ra tám mươi bốn vị thiện tri thức, hỏi đến cái tiêu chảy, tiêu chảy đầy đất chỉ có Qui Tông.
*
Sư vào vườn hái rau, bèn vẽ một vòng tròn quanh bụi rau, bảo chúng: "Không được động đến cái này." Toàn chúng đều không dám động. Giây lâu, Sư lại đến xem bụi rau, thấy còn nguyên, Sư bèn cầm gậy đuổi chúng Tăng bảo: "Cả bọn mà không có một người trí tuệ."
*
Vân Nham đến tham vấn, Sư làm thế kéo cung. Vân Nham giây lâu mới làm thế rút kiếm. Sư bảo:
- Sao đến rất chậm?
*
Có vị Tăng đến từ giã, Sư bảo:
- Lại gần đây, ta vì ngươi nói Phật pháp.
Tăng đến gần.
Sư bảo:
- Các ngươi trọn còn việc, ngươi khi khác lại đến, trong ấy không người biết ngươi. Trời lạnh trên đường khéo mà đi.
*
Sư thượng đường bảo:
- Nay tôi muốn nói thiền, các ngươi tất cả lại gần đây.
Ðại chúng tiến đến gần.
Sư bảo:- Các ngươi nghe, hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn.
Tăng hỏi:- Thế nào là hạnh Quan Âm?
Sư khảy móng tay, hỏi:- Các ngươi có nghe chăng?
- Nghe.
- Một bọn hướng trong ấy tìm cái gì?
Sư cầm gậy đuổi ra, rồi cười lớn, vào phương trượng.
*
Thích sử Giang Châu là Lý Bột đến hỏi Sư:
- Trong kinh nói: "hạt cải để trong núi Tu-di", Bột không nghi. Lại nói: "núi Tu-di để trong hạt cải", phải là nói dối chăng?
Sư gạn lại:
- Người ta đồn Sử quân đọc hết muôn quyển sách phải chăng?
- Ðúng vậy.
- Rờ từ đầu đến chân bằng cây dừa lớn, muôn quyển sách để chỗ nào?
Lý Bột cúi đầu lặng thinh.
*
Sư có làm bài tụng:
Qui Tông sự lý tuyệt
Nhật luân chánh đương ngọ
Tự tại như sư tử
Bất dữ vật y cổ
Ðộc bộ tứ sơn đảnh
Ưu du tam đại lộ
Khiếm khư phi cầm trụy
Tần thân chúng tà bố
Cơ thụ tiễn dị cập
Ảnh một thủ nan phú
Thi trương nhược công kỹ
Tài tiễn như xích độ
Xảo lũ vạn ban danh
Qui Tông hườn tợ thổ
Ngữ mặc âm thanh tuyệt
Chỉ diệu tình nan thố
Khí cá nhãn hườn huy
Thủ cá nhĩ hườn cổ
Nhất thốc phá tam quan
Phân minh tiền hậu lộ
Khả lân đại trượng phu
Tiên thiên vi tâm tổ.
Dịch:
Qui Tông sự lý bặt
Mặt trời đứng giữa trưa
Tự tại như sư tử
Chẳng tựa nương nơi vật.
Riêng lên chót bốn núi
Dạo chơi ba đường lớn
Tiếng gầm chim thú rớt
Hầm hừ bọn tà kinh.
Máy dựng tên dễ đến
Bóng lặn tay khó che
Bày ra dường thợ khéo
Cắt xén tợ thước đo.
Chạm khéo muôn thứ tên
Qui Tông lại giống đất
Nói nín tiếng tâm dứt
Diệu chỉ tình khó dò.
Bỏ mắt kia thành điếc
Lấy tai nọ thành mù
Một dùi phủng ba cổng
Rõ ràng đường tên sau.
Ðáng thương đại trượng phu!
Tiên thiên là tâm tổ.
*
Sau khi Sư tịch, vua ban sắc hiệu là Chí Chơn Thiền sư.Vì người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sư họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. Sau Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðời Ðường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm ấn.
Sau khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Một hôm Sư dạy chúng:
- Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp." (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua, đâu còn có việc gì.
Các ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Con nít nín rồi thì thế nào?
- Phi tâm phi Phật.
- Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói với y là "phi vật".
- Khi chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy dạy y thể hội đại đạo.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư đáp:
- Hôm nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí Tạng hỏi:
- Hôm nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.
Tăng đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.
Tăng trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.
*
Cư sĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nước không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này thế nào?
Sư đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân xương?
Uẩn bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn lên!
Sư liền nhìn thẳng xuống.
Uẩn nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng. Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ Nguyện phủi áo ra đi.
Sư bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.
*
Hoài Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài Hải dựng đứng cây phất tử.
Sư bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài Hải ném cây phất tử xuống.
*
Tăng hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sư đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ cười ta.
*
Ðặng Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn Phong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- Ðường Thạch Ðầu trơn.
- Có cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy là tông chỉ gì?
Thạch Ðầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
Ẩn Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi "hư! hư!"
Ẩn Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta đã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu không phải là sư tử con?
- Không dám.
Sư thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng sư nói:- Ðây là pháp.
- Là pháp gì?
- Pháp sư tử ra khỏi hang.
Sư bèn im lặng.
Giảng sư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Là pháp gì?
- Pháp sư tử ở trong hang.
- Không ra không vào là pháp gì?
Giảng sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ tọa!
Giảng sư xoay đầu lại.
Sư hỏi:- Là pháp gì?
Giảng sư cũng không đáp được.
Sư bảo:- Ông thầy độn căn.
*
Một hôm Sư dạy chúng:
- Ðạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như, lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông.
Ðệ tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị giả:
- Thân cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong, Sư trở về.
Ðến ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi tuổi hạ.
Sau vua sắc ban hiệu Ðại Tịch.