Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phiền não và khổ đau - gốc rễ của giải thoát

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10804)
Phiền não và khổ đau - gốc rễ của giải thoát

PHIỀN NÃO VÀ KHỔ ĐAU - GỐC RỄ CỦA GIẢI THOÁT

Có bao giờ bạn tự hỏi: Nếu cuôc đời không có phiền não, khổ đau chúng ta có cần tìm con đường tu giải thoát hay không? Theo quan niệm thông thường thì ai trong chúng ta cũng tìm kiếm con đường đưa đến hạnh phúc và tránh né lối nào dẫn đến khổ đau.

Nhưng trên thực tế mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thành tựu được vậy! Đa số thường than phiền luôn bị khổ đau vây khốn, còn hạnh phúc thì hiếm hoi như nắng hạn trông mưa. Mình luôn muốn hạnh phúc được lâu bền, nhưng đa phần nó bị đứt đoạn vì phiền não luôn xen vào.

Như vậy, hạnh phúc chỉ xuất hiện khi phiền não, khổ đau hoàn toàn vắng mặt. Nói thế để thấy được sự ‘thiếu thực tế’ khi ai cũng trông chờ, hy vọng, tìm kiếm một hạnh phúc hoàn toàn mà không bao giờ phải hứng chịu khổ đau. 

Sở dĩ, tôi cho là thiếu thực tế vì dù muốn dù không chúng ta ai cũng đều phải kinh qua khổ sầu, từ kẻ sang giàu đến người nghèo khó, và rất có thể từ đây cho đến ngày nhắm mắt! Điều muốn nói ở đây là làm sao chúng ta chuyển hóa chúng để đạt được mục đích giải thoát của mình.

Hoa và cỏ trong đất tâm

Tôi quan niệm rằng mỗi khi tiếp xúc với phiền não, khổ đau là mình vừa tìm ra được thêm những đầu mối, gốc rễ giúp mình giải thoát. Nhờ những phát hiện này, tôi mới có dịp thấy rõ sức mạnh của phiền nãovô minh trong tôi. 

Như phương pháp đức Phật đã chỉ dạy trong Tứ Diệu Đế: trước hết, mình nhận diện khổ đau (khổ đế) và nguyên nhân của nó (tập đế), sau đó, mình xem căn bệnh này có trị được hay không (diệt đế) và phương cách nào để trị (đạo đế). 

Rõ ràng, những phiền muộn, ưu phiền, lo âu, sân hận, ganh ghét, đố kỵ, thất tình, lục dục, v.v.. là những tâm hành sinh ra những hạt mầm khiến đau khổ đâm chồi, và cũng chính những hạt mầm này nếu bị hủy diệt thì hạnh phúc, an lạc sẽ nảy sinh. Hễ chừng nào những hạt mầm xấu được chăm nom, tưới tẩm thì những khổ đau, phiền não sẽ mọc rể ăn sâu. Gốc càng lớn, rể càng sâu, thì càng khó mà diệt trừ

Trong kinh Trung Bộ số 64 - phẩm Đại kinh Man đồng tử, Phật dạy về 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục, và sân), là 5 sự buộc ràng khiến chúng ta không thể thành tựu được các quả vị từ tu-đà-hoàn đến a-la-hán. Chỉ khi nào chúng ta tự mình cởi trói, triệt tiêu 5 món buộc ràng này, thì mới thực sự được giải thoát.

Trong đời sống hàng ngày, vì luôn bị những tâm hành phiền não quấy nhiễu, thay vì chánh niệm và tỉnh thức để chúng tự hủy chúng ta lại tưới tẩm, nuôi dưỡng chúng. Thử tưởng tượng xem nếu tâm ta là một mảnh đất thì hiện những hoa màu nào đang mọc mạnh nhất trong ta? Tất nhiên là những hoa màu do chúng ta chăm nom, nuôi dưỡng.

Mulla Nasruden quyết định trồng một vườn hoa. Ông ta sửa soạn khoảng đất và gieo hạt của nhiều loại hoa đẹp mà ông thích lên trên đó. Nhưng khi chúng mọc lên cao, vườn hoa của ông lại mọc đầy những hoa dại lấn lướt những loại hoa đẹp ông đã chọn. Ông ta đi tìm hỏi những người làm vườn kinh nghiệm khắp nơi nhờ chỉ cách diệt loại hoa dại này, và đã thử mọi phương pháp học được, nhưng đều vô ích.

Cuối cùng, ông bèn đi đến tận thủ đô để xin sự hướng dẫn của người làm vườn trong hoàng cungTuy nhiên, mọi cách thức ông ta dạy, như những phương cách khác Mulla đã thử qua, đều thất bại. Họ ngồi bên nhau trầm ngâm, suy tư một hồi lâu và sau cùng người làm vườn của hoàng cung nói, “Vậy tôi đề nghị anh hãy học cách yêu thích chúng thì hơn!”

Cũng vậy, từ đây cho đến ngày lìa khỏi thế gian này chúng ta sẽ còn phải đối diện với phiền não và khổ đau. Nếu lỡ chúng ta đã trồng nhiều hoa dại trong vườn tâm thì chính chúng ta phải học cách yêu thích chúng như Mulla Nasruden đã làm hoặc tìm cách triệt tiêu những hạt mầm hoa dại ngay từ bây giờ. 

Phiền não tức Bồ-đề

Có một câu chuyện kể rằng: Một người kia vừa mới chết và được sinh vào một nơi thật là xinh đẹp, bao quanh với mọi thứ lạc thú không thể nào tưởng tượng được. Một người bận áo choàng trắng đến đón chào anh ta và nói: “Ngài có thể có mọi thứ ngài muốn - thức ăn, khoái lạc, mọi thứ giải trí.”

Anh ta thật là sung sướng, và cả ngày anh ta thử hết tất cả những món mà anh ta đã mơ ước khi ở trần gian. Nhưng một ngày kia, anh ta đâm chán với tất cả mọi thứ, và cho gọi người hầu đến, và nói: “Tôi chán hết mọi thứ ở đây rồi, tôi cần một việc gì đó để làm. Ông có việc gì cho tôi làm hay không?”

Người hầu buồn bả lắc đầu, rồi đáp, “Xin lỗi ngài. Đó là điều duy nhất chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Không có việc làm gì ở đây cho ngài cả!”

Nghe người hầu trả lời xong, anh ta bèn nói:“Thật là hay chưa! Tôi chẳng thà sinh vào địa ngục.”

Người hầu bèn nhẹ nhàng đáp: “Vậy ngài nghĩ ngài đang ở đâu đây?”

Qua câu chuyện trên, chúng ta nghiệm thấy rằng: khổ đau tức hạnh phúc hay phiền não tức bồ đề. Nghĩa là, muốn thành tựu bồ đề chúng ta phải thấu hiểu phiền nãophiền não, khổ đau vốn là ‘mặt trái’ của tâm bồ đề. Do vậy, việc đối diện, tiếp cận, hay kinh qua những phiền não là điều không thể tránh được nếu chúng ta muốn giác ngộ, giải thoát.

Thật là một điều không tưởng khi chúng ta chỉ muốn đạt được giải thoát, giác ngộ mà không phải chịu khổ đau, phiền não. Thế nhưng, thật là oái oăm thay chúng ta chỉ muốn tu tập làm sao để đừng bao giờ bị khổ đau quấy rầy, chỉ muốn theo đuổi con đường nào đưa đến hạnh phúc, giải thoát, và an lạc mà không phải đương đầu với những phiền toái của thế gian!

Chúng ta thường nghe và hiểu về con đường ‘Trung Đạo’ mà đức Phật đã dạy, nhưng mình thì cứ theo đuổi và trông mong một con đường ‘Độc Đạo’ để tu ‘cho dễ’!

Đi tìm giải thoát trong phiền Não, khổ đau

Nếu quán chiếu sâu xa chúng ta thấy rằng trong hạnh phúc có mầm khổ đau và, ngược lại, trong khổ đau có mầm hạnh phúc. Điều quan trọng là thái độ của chúng ta khi đối diện với khổ đau hay hạnh phúc. Như Rita Barber đã khéo léo diễn tả ý trên qua đoạn văn sau: 

“Tôi có thể xem việc con gái nửa đêm chạy vào phòng là một hành động quấy phá giấc ngủ của tôi, hoặc xem đó là một hành động kêu cứu xin dỗ dành, nhận thức được rằng đây là một khoảnh khắc trong cuộc đời của cháu cần sự vỗ về vì cháu bị ác mộng.

Tôi có thể xem việc con gái tôi đào bới những hạt giống mà tôi vừa trồng như là một hành động phá phách, hư hỏng, hoặc là một hành động tò mò tìm hiểu của trẻ thơ muốn tìm hiểu xem cái gì hay ai đã khiến cho hạt giống thành cây.

Tôi có thể xem việc con gái tôi từ chối mặc bộ đồ tôi chọn như là một hành động không vâng lời, hoặc là một ý muốn được tự chọn lựa.

Tôi có thể xem việc dạy con gái tôi như là một sự thách đố khó khăn, hoặc là một người thày dạy tôi cách sống.

Tôi có thể xem việc kêu khóc um sùm của các con như là một sự chống trái đáng bị phạt, hoặc là những bước khởi đầu để tôi học biết cách thương lượng và sống chung hòa bình với người khác.

Nhiều lần tôi cảm thấy bị thử thách để làm một bà mẹ hiền, nhưng hơn tất cả mọi thứ, tôi cảm thấy mình có phước và trọn vẹn hơn tất cả những thứ có thể mua được trên thế gian này, và thực sự vinh dự vì vị thiên thần nhỏ này đã chọn tôi làm mẹ, và đồng thời là học trò và cũng là thầy giáo của cháu.

Tôi có thể xem việc có đứa con này là một món nợ kiếp trước hay là một món quà vô giá của trời cho.

Khi nhìn con, tôi thấy thượng đế.

Đồng tiềnhai mặt, nhưng dù tôi được mặt nào, tôi đều là người chiến thắng.”

Thái độ sống của Rita Barber cho chúng ta một cái nhìn tươi mát vào những hiện tượng, hoàn cảnh xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và mình đã phản ứng ra sao đối với chúng. Đơn giản qua cách nhìn và những tình cảm (cảm thọ) của chính mình, chúng ta đã mở rộng vòng tay đón chào, hoặc hất hủi, ghê sợ chúng. 

Như vậy, hiện tượng khổ đau, phiền não không phải hoàn toàn đáng sợkinh hãi. Chúng chứa đựng những cảm giác bất an, bất như ý, bực giận, khó chịu, v.v.. và v.v.. nhưng chính những yếu tố này lại là những nguồn kích thích khiến ta vươn lên và tìm lối giải thoát, tự do. Thiếu chúng, chúng ta như thiếu đi ‘nhân tố hay động lực cần thiết’ để khiến mình phấn đấu, đứng dậy để làm người. 

Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc như chính bản thân đức Phật đã kinh qua.

Những ngày sống trong nhung lụa, kẻ hầu người hạ đến những năm tháng khổ hạnh cực cùng, đức Thế tôn đã nhận chân được giá trị của cả hai thái cựcsung sướng và khổ đau. Từ đó, Ngài không còn thấy khổ đau hay sung sướng là những trở lực cho công phu tu tập của Ngài.

Ngược lại, Ngài xem chúng chính là nguồn hứng khởi để luôn tinh tấn trong con đường tìm giác ngộgiải thoát. Có thể nói, chính sự trải nghiệm qua hai thái cực này mà đức Thế tôn đã tìm ra con đường Trung đạo.

Rõ ràng, chúng là nền tảng, gốc rễ giúp đức Phật tìm ra chân lý giải thoát. Nói vậy để cùng nhìn nhận rằng phiền não, khổ đau không hẳn là kẻ thù truyền kiếp của chúng ta; cũng như sung sướng, hạnh phúc không phải lúc nào cũng là bạn hiền muôn thuở. Vì nếu thiếu một trong hai, việc tìm kiếm con đường giác ngộgiải thoát của chúng ta sẽ không thể nào thực hiện được. 

Thiện Ý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 111)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 132)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 147)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 155)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 231)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 218)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 223)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 262)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 247)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 210)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 157)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 352)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 575)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 850)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 485)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 466)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 652)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 449)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 970)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 681)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 875)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 546)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 626)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1020)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant