Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Lý luân hồi

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12265)
05. Lý luân hồi

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

luân hồi

I.- Dẫn nhập : Câu hỏi mà ai cũng muốn được biết: - Nguyên nhân đầu tiên là gì? Con người do đâu mà sanh ra? Chết rồi đi về đâu? Tôn giáo thường cho rằng có một đấng tối cao sinh ra vạn vậtcon người, câu trả lời ấy thuộc về tôn giáo, mà tôn giáo thì có sự đòi hỏi nơi đức tin, tin ở đấng thần quyền ban phúc, giáng họa, cai quản và sinh hóa muôn loài. Ðức Phật ngài không giảng đáp về thắc mắc nầy nhưng trong Kinh Bách Dụ ngài có dạy : Một người bị tên độc, khi thấy người ta bảo rút mũi tên ra, thì ngăn lại, bảo : "Khoan, để tôi hỏi xem ai bắn mũi tên nầy, người đó tên họ là chi, ở xứ nào, và thuốc độc nầy lấy ở đâu, công hiệu ra sao đã". Nếu tìm cho ra những thắc mắc ấy thì người đó đã chết rồi. Nhưng mà giáo lý của đức Phật như Lý Nhân duyên, Nhân quả, Luân hồi nghiên cứu sâu xa hơn, chúng ta sẽ hiểu rõ vấn đề nầy được trình bày trong Nhân sinh quan và Vũ trụ quan Phật giáo.

Ii.- Những sự hiểu lầm về nhân sinh: Nói một cách ngắn gọn, đạo Phật chủ trương không có nguyên nhân đầu tiên, một vật sinh ra do trùng trùng duyên khởi, có nhân, có quả, có những biến chuyển không ngừng trong từng hơi thở, những biến chuyển ấy là luân hồi. Người đời thường cố chấp vào bốn loại sau đây:

1 ) Chấp đoạn: Cho rằng còn người chỉ có trong khoảng sinh ra và cho đến chết, chết là hết. Có phải vậy không? Chẳng hạng như một cái cây, thân mục biến thành đất, đất ấy lại nuôi lên cây khác...

2 ) Chấp thường: Cho rằng con người sau chết, thể xác tan rã nhưng linh hồn còn mãi.

3 ) Chấp thân trước không can hệ gì với thân sau: Có người cho rằng thân nầy chết sanh ra thân sau, nhưng thân trước và thân sau không can hệ gì tới nhau.

4 ) Chấp luân hồi theo luật tiến hóa: Người ta công nhận rằng có Luân hồi, nhưng theo luật tiến hóa, từ loài hạ đẳng chết rồi biến dần thành thượng đẳng.

III.- Ý nghĩa danh từ Luân hồimục đích đạo Phật:

1) Ðịnh nghĩa: Luân là bánh xe, Hồi là quay tròn; con người sống rồi chết, chết rồi sinh ra lại trong 6 cõi phàm, cứ như vậy mãi mãi nên gọi là luân hồi. Sáu cõi đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhân, thiên, nếu tu sẽ vượt lên bốn bậc thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật.

2) Mục đích của đạo Phật: Mục đích của đạo Phậtgiải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, tiến dần lên bốn bực thánh từ Thanh văn lên Duyên Giác rồi lên Bồ Tátcuối cùngthành Phật, một bậc hoàn toàn giác ngộ.

IV.- Sự Luân hồi của mọi vật: luân hồiđịnh luật chung, mọi vật đều có luân hồi, chẳng hạn như :

1) Các loài thực vật: Hạt bắp gieo xuống đất lên cây, trổ hoa thành trái, trái bắp có hạt, lấy hạt đó gieo xuống đất lại lên cây bắp, cứ thế mà tiếp tục.

2) Mưa: Nước nóng bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh thành nước, nước mưa xuống đất, núi, chảy ra biển gặp sức nóng mặt trời bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh thành nước, nước mưa xuống đất ... cứ thế tiếp tục.

3) Ðất: Hạt bắp gieo xuống, nó hút chất bổ của đất làm thành thân, thành lá cây bắp, thân lá cây bắp đốt thành tro hay bỏ nó lâu ngày, mụt rã thành đất lại.

v.- Nguyên nhân luân hồi của con người: Sự sanh tử luân hồi của con người do những nguyên nhân sau :

1) Sức mạnh của nghiệp: Con người sống ở đời từ ý tưởng, lời nói đến việc làm dù thiện hay ác đều tạo ra nghiệp, có bốn thứ nghiệp :

- Tích luỹ nghiệp: Là những nghiệp tạo ra từ nhiều đời nhiều kiếp trước, tích chứa lại.

- Tạp quán nghiệp: Là những nghiệp trong đời sống hàng ngày, luôn luôn tiếp diễn thành thói quen, tạp quán.

- Cực trọng nghiệp: Là nghiệp quan trọng, có năng lực mạnh mẻ hơn hết, nên chi phối tất cả.

- Cận tử nghiệp: Là những nghiệp khi sắp lâm chung, nó có năng lực dễ dẫn dắt người ta đi đầu thai.

2) Lòng tham sống sợ chết và sự luyến ái của con người: Ai cũng tham sống sợ chết, khi cái chết gần kề có ước muốn sự sống mãnh liệt, là một yếu tố để tái sinh, thứ nữa là lòng ham muốn dục lạc, ăn uống, luyến ái trong tình thương con cái, vợ chồng cũng là yếu tố luân hồi.

3) Do sự mê mờ chấp trước: Người ta có khi tin vào lý luân hồi nhưng mà cho rằng sống chếtlẽ tự nhiên, kiếp sau giàu nghèo mặc kệ, họ chấp nhận và buông trôi cuộc sống của mình trong vòng sanh tử luân hồi, không chịu tu tập để thăng hoa, vượt qua luân hồi, tiến lên bậc thánh, đạt đến chỗ an lạc miên trường.

VI.- Sự luân hồi của con người: Con người khi sống làm những điều thiện, ác gì, đến khi chết rồi đầu thai lại, chắc chắn sẽ được hưởng những việc tốt lành và phải trả những quả xấu của nhiều kiếp trước.

Ðây là những cảnh giớichúng sanh bị hay được nhập vào tuỳ theo nghiệp đã tạo ra từ trước:

1) Ðịa ngục : Tạo ra nhân sân hận, độc ác làm nhiều tội lỗi vừa hại mình hại người, phải chịu vào địa ngục để chịu cực hình khổ sở.

2) Ngạ quỷ: Nhân do tham lam, bỏn xẻn không có lòng từ bi thương xót những người khác để bố thí tài vật, giáo pháp, thân mạng, trái lại còn có những mưu kế hiểm độc, để cướp của, đoạt vật của người khác, khi chết thành loài quỷ đói.

3) Súc sanh: Tạo nhân si mê tham đắm trong dục tình, tửu sắc không biết hay dở, tốt xấu ở trên đời, sau khi chết sẽ sanh làm súc sanh.

4) A tu la: Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc tàn bạo cũng không tránh, vừa cang trực, vừa độc ác. Như thế dù có làm những việc phước thiện, nhưng tánh tình hung ác, nóng nảy lại thêm si mê, theo tà giáo. Tạo nhân như vậy nên thành A tu la sống vui sướng cũng có mà buồn khổ cũng nhiều.

5) Người: Tu nhân tích đức, cần nhất là phải quy y Tam bảo, giữ cho được trọn vẹn ngũ giới: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không dối trá, không uống rượu. Ðời sau sẽ trở lại làm người.

6) Cõi trời: Bỏ mười điều ác, tu theo mười điều thiện: không sát hại các loài vật mà phóng sanh, không tà hạnh mà tu hạnh trinh chánh, không trộm cắp của cải người mà bố thí, không nói dối mà nói lời thành thật, không nói thêu dệt mà nói lời đúng đắn, không nói phân rẽ mà nói lời hòa giải, không nói thô ác mà nói lời dịu ngọt, không tham dụcquán bất tịnh, không giận hờn mà quán từ bi, không tà kiếnquán nhân duyên. Tu giữ được theo muuời điều thiện này, sau khi chết sẽ được sanh vào cõi trời. Nên nhớ cõi trời cũng trong vòng phàm tục, vẫn chịu cảnh sanh tử luân hồi.

Muốn thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi của sáu cõi trên, thì chúng ta phải có nguyện lực tu giải thoát tiến từ Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát rồi cuối cùng chứng thành Phật quả.

VII.- Những chứng nghiệm về luân hồi: Người Tây phương nói chung và người Mỹ nói riêng, hàng ngàn năm qua họ đã Chấp thường, không tin có luân hồi, có lẽ muốn chứng minhluân hồi, năm 1994 đài truyền hình Mỹ ở Washington DC, vào buổi trưa trong nhiều tuần, chiếu những chuyện có thật đã xảy ra về luân hồi, năm ấy tôi sang đó, đã được nhà văn Nguyễn Hữu Hiệu dịch giả những sách Tinh Hoa và Sự Phát Triển của Ðạo Phật, Chí Tôn Ca ... do Viện Ðại Học Vạn Hạnh ấn hành, anh đã chiếu cho xem một cuốn băng do anh thu lại của TV, đại khái câu chuyện như sau:

Ở bên Anh Quốc, có một người đàn bà kia, tuổi ngoài ba mươi, bà ta cứ bị ám ảnh mãi về một hải cảng kia, vừa như trông đợi một cái gì, vừa hồi hộp lo âu, bà ta cũng bị ám ảnh về một ngôi giáo đường nọ. Ðể giải quyết về ám ảnh đó, người ta mới vẽ ngôi giáo đường đăng lên báo, cuối cùng qua báo chí người ta đã tìm ra được ngôi giáo đường đó, rồi bà ta cũng nhớ được tên của bà kiếp trước.

Theo đó người ta tìm thấy ở giáo đường ấy, có tên của người đàn bà đó đã thành hôn với một người đàn ông, rồi người ta lần dò tìm ra người đàn bà ấy đã chết cũng vào trạc tuổi ba mươi, bà ta có mấy người con trai, vì nhà nghèo nên họ đã đi tha phương cầu thực hoặc cho làm con nuôi những người khác, bấy giờ người ta mới tìm những người con của người đàn bà đã chết, họ vẫn còn sống đủ, tất cả tuổi tròn trèm trên dưới 70. Khi gặp lại họ, bà ta nhớ lại được những người con lúc còn bé, bà ta kể từng những vết thẹo của mỗi người con đã bị lúc nào, có người ở chỗ kín đáo bà ta cũng kể rõ, mọi người quyết chắc rằng bà ta kiếp trước là mẹ của những người con nầy, nay bà ta trẻ mà các con già đã 70.

Người con trưởng hồi nhỏ chừng 14 , 15 tuổi, đã phải đi theo các thuyền đánh cá để kiếm tiền về nuôi gia đình, người mẹ chiều chiều phải ra hải cảng trông về biển khơi chờ đón con về, những hôm biển động, mưa to, gió bão, bà mẹ hồi hộp lo âu cho tánh mạng của con, vì vậy mà người đàn bà sau nầy, đã thường bị ám ảnh về một hải cảng kia.

Nhiều sách vở ở Việt Nam cũng như báo chí ngoại quốc lâu lâu có đăng tin về một chuyện thuộc luân hồi. Riêng Việt Nam ta có chuyện ông Thủ Huồng, nay vẫn còn dấu tích ngôi chùa Thủ Huồng, ở thành phố Biên Hòa và địa danh Nhà Bè, phát xuất từ cuộc đời của ông, chuyện như sau:

Ngày xưa, có lẽ chừng trên 200 năm trước, tại Cù Lao Phố có ông Võ Thủ Hoằng làm chức Nha lại, giàu có nỗi tiếng nhờ cho vay tiền lấy lời nhiều. Vợ mất sớm, chưa con cái, cảnh quạnh hiu nên ông đi thiếp xuống Âm phủ, lúc đi thiếp, dọc đường ông thấy có một cái gông thật lớn, hỏi người khác, họ cho biết gông ấy dành cho ông Thủ Huồng, vì ông ta ở dương trần làm nhiều điều ác đức, nghe vậy sợ quá, ông ta hỏi thêm phải làm sao để khỏi bị đóng gông đó, người ta dạy là phải ăn hiền ở lành, tu nhân tích đức. Khi trở về, ông ta bèn lấy tiền của ra bố thí cho người nghèo, thuở xưa không có tàu bè, đi lại trên sông, biển bằng ghe, ở cửa ba sông nơi Nhà Bè bây giờ hồi xưa không có nhà cửa, đến đó mà không có gạo, nước ngọt, củi phải đi vào sông Sàigòn, đến Bến nghé (Gia định) mới mua củi, gạo xin nước ngọt được, thấy sự bất tiện đó, cực nhọc cho những người nghèo, chèo ghe đi lại khó khăn, ông ta mới làm một cái bè ở giữa ngã ba sông, trên ấy cất một cái nhà để sẳn gạo, củi, muối, nước ngọt cho những ai qua lại cần cứ lấy mà dùng, thứ nào hết ông cho người tiếp tế thêm, nơi có cái nhà trên cái bè ấy, dần dầntrở thành địa danh Nhà Bè cho đến ngày nay.

Sau một thời gian, ông ta lại đi thiếp, thấy cái gông đã nhỏ lại nhưng vẫn còn, đã thấy kết quả như vậy, ông ta về dương thế lại đem hết của cải ra bố thí thêm và cất một ngôi chùa Phật, ngày nay vẫn còn, tên là Chùa Thủ Huồng, ở Cù Lao Phố, cách Cầu Gành chừng 2 cây số ngàn.

Một vị thái tử của Tàu mới sanh ra trong lòng hai bàn tay có chữ "Thủ", "Huồng", bên Tàu không hiểu nghĩa là gì? (Vì chữ Huồng là chữ Nôm, người Tàu đọc không được). Sứ Việt Nam được hỏi đến, chỉ biết đọc chữ "Thủ Huồng" nhưng cũng không biết ý nghĩa. Trở về Việt Nam Sứ tâu lên vua ta, vua cho dò hỏi ra tông tích mới trả lời, đó là tên ông Thủ Huồng người Việt Nam đã chết, nay còn ngôi chùa ở đất Biên Hòa. Về sau vị thái tử ấy lên ngôi vua là vua Ðạo Quang, nhà vua có ban cho chùa Thủ Huồng 3 pho tượng Phật.

Chuyện này liên quan đếnLuân hồi, chắc vua Ðạo Quang kiếp trước chính là ông Thủ Huồng, đã tu nhân tích đức, nay đầu thai lại làm vua để hưởng phước, cũng nói lên Lý Nhân quả vậy.

Năm 1990, tôi có đi tới chùa Thủ Huồng, tiếc rằng vào buổi trưa, người trong chùa cho biết, trưa chùa đóng cửa, quý Thầy nghỉ trưa, nên tôi không vào được bên trong lễ Phật và tìm dấu tích 3 tượng Phật xưa.

V.- Kết Luận: Luân hồi mới giải đáp thỏa đáng vì sao người ta giàu, nghèo, sang, hèn..., khi đã hiểu Lý Luân hồi rồi, chúng ta không nên Chấp đoạn, chấp thường, chúng ta tin giáo lý của Phật là chân lý:

- Nguyên nhân chính của sự luân hồi là do mê lầm, nó tác động nghiệp lực để dẫn dắt tái sanh.

- Con người sanh trong sáu đường là do nghiệp nhân mà thọ quả báo, lộn lạo trong sáu đường, có khi là người mà kiếp khác là sanh ở cõi khác, cho nên con người phải luôn luôn tu nhân, tích đức. Tự mình gieo nhân nào thì phải hưởng quả nấy, chẳng sớm thì chầy.

- Chúng ta đã biết Lý Luân hồi, chúng ta phải gìn giữ về tư tưởng, lời nói, hành động của mình luôn luôn được hướng thiện, khi nghiệp ác không còn, những quả lành đầy đủ, lúc bấy giờ chúng ta thoát khỏi luân hồi, sanh tử đạt đến cảnh giới Niết Bàn của A la hán, Bồ Tát và Phật.

Sách tham khảo:

Thích Thiện Hoa Phật Học Phổ Thông, Khóa I & II, THPGVN, T/p HCM, 1989
Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Ðức Tâm Phật Pháp, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Sàigòn, 1951

Ngày 3-10-1996
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 543)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1069)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant