KINH
PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁT NÊ HOÀN Hán
dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, người Bình
Dương Việt
dịch: Thích Nguyên Hùng
Quyển 5
Phẩm thứ 11: TỨ ĐẾ[221]
[882c] Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Ca-diếp:
-
Này thiện nam tử! Giả sử có khổ gọi là khổ đế[222], thì mọi chúng sinh trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… đều có khổ đau. Khổ đế nghĩa là, pháp thân Như Laithường trụbất diệt, chẳng phải là thân thụ thực ô
uế, nhưng các chúng sinh chẳng có trí tuệ tôn quý của Phật nên không biết được chân lý về khổ, lấy điều phi pháp làm điều chính pháp, vì vậy nên bị si, ái, phiền nãotrói buộc mãi hoài, nhiều kiếp luân chuyểnsinh
tử khổ đau. Giả sửchúng sinh được nghe hai chữ Như Laithường trụ thoáng qua lỗ tai, thì dù muốn được sinh lên cõi trời hay cầu giải thoátchắc chắn sẽ được chứng quả vị thánh, khoái lạc tự nhiên. Người trí tự biết chứng được diệu quả đều nhờ âm thanhNhư Laithường trụ thoáng qua lỗ tai. Bởi vì từ xưa cho đến hôm nay chẳng hề biết được Như Laithường trụ cho nên phải chịu qua lại vô lượngsinh tử khổ đau. Biết khổ như vậy
là biết[223] khổ đế. Nếu biết khác đi tức là chẳng phải biết về khổ đế.
-
Khổ tập đế[224] là, vì không biết được sự thật các pháp cho nên tham ái
ngày một thêm nhiều, nuôi dưỡngsúc vật, đầy tớ và giữ vật dụngphi pháp; những điều phi pháp lại cho là pháp rồi lại sinh tâm nắm giữ hư vọng, chính pháp bị diệt[225], vì không có trí cho nên phải chịu luân chuyển ở mãi trong đường sinh tử, khổ đau phiền não. Phải biết điều đó phá hoạichính pháp[226], rốt cuộc chẳng được chứng quảsinh thiên hay là giải thoát. Chẳng biết tướng trạng chân thật của những nguyên nhân khổ đau là hoại chính pháp. Quả báonói dối cũng sẽ phải chịu đêm dài tăm tối sinh tửkhổ não. Ai biết như vậy là biết tập đế. Nếu hiểu khác đi tức là chẳng biết nguyên nhân của khổ.
- Khổ diệt đế[227] là tu pháphành không[228], nhưng nếu cho rằng mọi pháp diệt tận, thì sẽ hoại diệtthể tínhNhư Lai; nếu tu hành không gọi là diệt đế, thì ngoại đạo kia nhìn nhận nghĩa lý trái nghĩa hành không, tu hành như vậy cũng sẽ chứng được diệt đế hay sao? Phải biết tất cả đều có bản tínhNhư Laithường trụ. Nếu như diệt sạch phiền nãotrói buộc thì tính Như Laithường trụhiển hiện. Chỉ trong một niệm khởi lên liền được diệu quảthường lạc tự tại gọi là Pháp tự tại vương. Đó là tu hànhdiệt khổthánh
đế. Ngược lại, đối với thể tínhNhư Lai người tu khởi nghĩ là không, vô
ngã thì biết bọn này giống như thiêu thân[229] đâm đầu vào lửa. Diệt đế
nghĩa là thể tínhNhư Lai, là quả Như Laidiệt trừ tất cả vô lượngphiền não. Bởi vì sao vậy? Bởi vì thể tínhNhư Lai là nhân. Người biết điều này là biết diệt đếNhư Laibình đẳng. Nếu biết khác đi thì không thể gọi là biết diệt đế.
- Khổ diệt đạo[230] là thể tínhNhư Lai,
Pháp, Tăng, Giải thoát. Bốn loại pháp này gọi là đạo đế. Không biết như
thật về bốn pháp này thì sẽ ở mãi trong đường sinh tử vô lượng khổ đau.
Trong đường sinh tử cần phải siêng năng tinh tấntu hành, hiểu rõNhư Lai, Pháp, Tăng, Giải thoát là pháp thường trụ, không phải là pháp thay đổi, biến hoại, bất tận, bất hoại. Khởi lên một niệm như vậy liền được chứng quảvi diệu khoái lạc tự tại. Đối với bốn pháp thường trụ bất không, nếu ai nghĩ rằng đây là phi pháp, phải biết bọn đó sẽ bị quả báotà kiếnđiên đảo. Khổ diệt đạo là, với ba pháp[231] này người tu luôn nghĩ là pháp thường trụ. Đó gọi là biết khổ diệtđạo đế. Người nào tu hành nghĩ pháp thường trụ, phải biết người đó là đệ tử Ta, biết bốn chân
đế. Đó là bồ-tát biết bốn chân đế.
Bồ-tát Ca-diếp bạch với Phật rằng:
- Kính bạch Thế Tôn! Nay con mới biết tu bốn chân đế.
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn họcPhật giáoĐại thừa với tư tưởnguyên thâm về triết học và tâm lý học.
Đã phát khởichí nguyệnĐại thừa, lại kiên quyếtthực hiệnchí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lượcca ngợicông đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng tacần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
Đức PhậtA Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phậtthành đạo Bodhigaya
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biếnrộng rãi trong quần chúngViệt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Nithành đạo), và đã tồn tạiliên tục, phát triển không ngừng trên ...
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quảchi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúc ở thế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
Xin dâng hết lên Tam Bảochứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọnggiới thiệutoàn bộPhật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.