Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển thứ 29

08 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13580)
Quyển thứ 29

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ 29

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA: BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG

Phần thứ V. - Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói, nếu Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não thì vì sao lại tu Xa ma tha vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Ông nói, Tỳ Bà Xá Na phá phiền não thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì khi có trí tuệ thì không phiền não, khi có phiền não thì không trí tuệ thì sao mà nói Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não ? Này thiện nam tử ! Ví như khi sáng thì không có tối, khi tối thì không có sáng. Nếu có người nói rằng, sáng có thể phá tối thì không có chỗ này ! Này thiện nam tử ! Ai có trí tuệ ? Ai có phiền não mà nói trí tuệ có thể phá phiền não ? Như cái ấy không thì không có cái phá. Này thiện nam tử ! Nếu nói trí tuệ có thể phá phiền não thì vì đến nên phá và chẳng đến nên phá. Nếu chẳng đến mà phá là phàm phu chúng sinh thì nên có thể phá. Nếu đến nên phá thì ý niệm đầu tiên nên phá. Nếu ý niệm đầu tiên chẳng phá thì sau cũng chẳng phá. Nếu mới đến liền phá tức là chẳng đến thì làm sao nói rằng, trí tuệ có thể phá. Nếu nói đến cùng chẳng đến mà có thể phá thì nghĩa này chẳng đúng ! Lại nữa Tỳ Bà Xá Na phá phiền nãomột mình có thể phá hay là bạn bè nên phá ? Nếu một mình có thể phá thì Bồ tát vì sao tu tám chánh đạo ? Nếu bạn bè nên phá thì phải biết rằng, một mình chẳng thể phá. Nếu một mình chẳng thể thì bạn bè cũng chẳng thể. Như một người mù chẳng thể thấy sắc thì tuy có chúng bạn nhưng mù thì cũng chẳng thể thấy. Tỳ Bà Xá Na cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như tính cứng của đất, tính nóng của lửa, tính ẩm ướt của nước, tính chuyển động của gió mà tính cứng của đất... cho đến tính động của gió chẳng phải nhân duyên tạo tác mà tính của chúng tự như vậy. Như tính của bốn đại, tính của phiền não cũng vậy, là tự đoạn. Nếu là đoạn thì làm sao mà nói rằng, trí tuệ có thể đoạn. Do nghĩa này nên Tỳ Bà Xá Na quyết định chẳng thể phá các phiền não. Này thiện nam tử ! Như tính của muối là mặn khiến cho vật khác mặn. Mật vốn tính ngọt khiến cho vật khác ngọt. Nước vốn tính ẩm ướt khiến cho vật khác ẩm ướt. Tính của trí tuệ là diệt nên khiến cho các pháp diệt thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì nếu pháp không diệt thì làm sao trí tuệ có thể cưỡng ép khiến cho diệt được ? Nếu nói muối mặn khiến cho vật khác mặn, tuệ diệt cũng vậy, có thể khiến cho pháp khác diệt thì điều này cũng chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì tính của trí tuệ là từng niệm từng niệm diệt. Nếu từng niệm từng niệm diệt thì làm sao mà nói có thể diệt pháp khác. Do nghĩa này nên tính của trí tuệ chẳng phá phiền não. Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp có hai thứ diệt, một là tính diệt, hai là rốt ráo diệt. Nếu tính diệt thì làm sao mà nói trí tuệthể diệt ? Nếu nói trí tuệthể diệt phiền não như lửa thiêu đốt vật thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì như lửa thiêu đốt vật thì có để lại tàn lửa. Trí tuệ như vậy thì nên để lại diệt tàn. Như búa chặt cây thì chỗ chặt ra có thể thấy. Trí tuệ nếu vậy thì có gì có thể thấy ? Tuệ nếu có thể khiến cho phiền não lìa khỏi thì như vậy phiền não nên hiện bày chỗ còn lại. Như các ngoại đạo rời khỏi sáu đại thành thì hiện diện ở thành Câu Thi Na. Nếu phiền não đó chẳng hiện này chỗ thừa thì biết rằng, trí tuệ chẳng thể khiến cho phiền não lìa khỏi. Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp nếu tự rỗng không thì ai có thể khiến cho sinh ra ? Ai có thể khiến cho diệt đi? Sinh khác, diệt khác, không người tạo tác ! Này thiện nam tử ! Nếu tu tập định thì được chánh trí, chính kiến như vậy. Do nghĩa này nên trong Kinh của ta nói, nếu có Tỳ-kheo tu tập định thì có thể thấy tướng sinh diệt của năm ấm. Này thiện nam tử ! Nếu chẳng tu định thì việc thế gian còn chẳng thể rõ, huống là đối với việc xuất thế. Nếu người không định thì chỗ bằng cũng ngã lăn, lòng duyên pháp khác, miệng tuyên nói lời khác, tai nghe tiếng khác, tâm giải nghĩa khác, muốn tạo chữ khác, tay viết văn khác, muốn đi đường khác, thân lặn lội lối khác. Nếu người có tu tập tam muội định thì được lợi ích lớn... cho đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát đầy đủ hai pháp có thể lợi ích lớn, một là Ðịnh, hai là Trí. Này thiện nam tử ! Như cắt cỏ gianh (cỏ may) nắm nhanh thì đứt, Ðại Bồ tát tu hai pháp này cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như nhổ cây cứng mà trước dùng tay lay động thì sau dễ nhổ lên. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy, trước dùng định khởi động, sau dùng tuệ nhổ lên. Này thiện nam tử ! Như giặt áo bẩn, trước dùng nước tro, sau dùng nước trong thì áo sạch sẽ. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như trước đọc tụng, sau thì giải nghĩa. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người dũng mãnh, trước dùng giáp đồng, binh khí tự trang bị chắc chắn, nhiên hậu ra trận mới có thể phá hoại được giặc oán thù. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người thợ khéo với cây kềm, chiếc búa đập và thỏi kim loại mà tự tại theo ý nhào nặn nấu chảy. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như tấm gương sáng soi rõ hình dáng của mặt. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như trước làm bằng phẳng đất rồi nhiên hậu mới xuống giống. Trước theo thầy thọ giáo rồi sau tư duy nghĩa lý, Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu hai pháp này, điều phục nhiếp lấy năm căn, kham nhẫn mọi khổ như là đói khát, nóng lạnh, đánh đập, mạ nhục, sự cắn xé của ác thú, sự chích hút của muỗi mòng... Bồ tát luôn nhiếp lấy tâm chẳng để cho phóng dật, chẳng vì lợi dưỡng mà hành động phi pháp, khách trần phiền não chẳng thể làm ô nhiễm, chẳng bị sự mê hoặc của các tà kiến, dị kiến, thường có thể xa lìa các giác quán ác, chẳng bao lâu sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì muốn thành tựu lợi ích cho chúng sinh. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu hai pháp này thì bốn luồng gió dữ điên đảo chẳng thể thổi động như núi Tu Di tuy bị sự thổi mạnh của bốn gió nhưng chẳng thể làm cho lay động, chẳng bị sự nhổ bật của tà sư ngoại đạo như Ðế Thích Tràng chẳng thể di động, mọi tà dị thuật chẳng thể lừa dối mê hoặc, thường thọ đệ nhất an lạc vi diệu, có thể giải được nghĩa bí mật của Như Lai, hưởng thọ niềm vui chẳng mừng, gặp phải nỗi khổ chẳng buồn, chư thiên, người đời cung kính khen ngợi, thấy sáng tỏ sinh tử và chẳng phải sinh tử, giỏi có thể biết rõ pháp giớipháp tính, thân có pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là Ðại Niết Bàn Lạc.

Này thiện nam tử ! Ðịnh tướng là gọi Không tam muội. Tuệ tướng là gọi Vô nguyện tam muội. Xả tướng là gọi Vô Tướng tam muội. Này thiện nam tử ! Nếu có Ðại Bồ tát khéo biết lúc nào định, lúc nào tuệ, lúc nào xả và biết lúc chẳng phải lúc thì đó gọi là Ðại Bồ tát hành đạo Bồ Ðề !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Bồ tát biết thời (lúc) và phi thời (chẳng phải lúc) ?

- Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát nhân được thọ lạc sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân nói pháp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân tinh cần mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân lúc giải nghĩa khéo hỏi đáp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân gần gũi ác tri thức mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân bố thí vật ái trọng của mình mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân công đức của thiện pháp thế gian mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân sự cung kính của người giàu sangthế gian mà sinh ra kiêu mạn... thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Trí mà phải nên tu Ðịnh. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Như có Bồ tát siêng tu tinh tấn chưa được niềm vui lợi ích Niết Bàn. Rồi do chẳng được nên sinh tâm hối tiếc, do độn căn nên chẳng thể điều phục năm tình, các căn, do thế lực của các phiền não bẩn hưng thịnh nên tự nghi ngờ giới luật có suy tổn... thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Ðịnh mà phải nên tu Trí. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát mà hai pháp Ðịnh Tuệ chẳng bình đẳng thì phải biết lúc ấy chẳng nên tu Xả, còn hai pháp nếu bình đẳng thì nên tu. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu Ðịnh Tuệ mà khởi lên phiền não thì phải biết lúc ấy chẳng nên tu Xả, cần nên đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên (trời), niệm Xả. Ðó gọi là tu Xả. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu tập ba pháp tướng như vậy thì do nhân duyên này mà được Vô Tướng Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Không mười tướng nên gọi Ðại Niết Bànvô tướng thì lại do nhân duyên gì mà gọi là vô sinh, vô xuất, vô tác, nhà cửa, châu thổ, qui y, yên ổn, diệt độ, Niết Bàn, tịch tịnh, không các bệnh khổ, không sở hữu vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Không nhân duyên nên gọi Vô sinh. Do vô vi nên gọi là vô xuất. Không tạo nghiệp nên gọi là vô tác. Chẳng vào năm kiến nên gọi là ốc trạch (nhà cửa). Lìa khỏi bốn dòng nước dữ nên gọi là châu (châu thổ : vùng đất ven sông ven biển). Ðiều phục chúng sinh nên gọi là qui y. Phá hoại giặc kết sử nên gọi là yên ổn. Các lửa kết diệt nên gọi là Diệt độ. Lìa khỏi giác quán nên gọi là Niết Bàn. Xa nơi rối loạn ồn ào nên gọi là tịch tịnh. Ðoạn vĩnh viễn việc phải chết nên gọi là vô bệnh. Tất cả không nên gọi là vô sở hữu. Này thiện nam tử ! Nếu Ðại Bồ tát khi tác khởi sự quan sát này thì liền được sáng tỏ, thấy được Phật tính.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp thì có thể thấy được từ vô tướng Niết Bàn đến vô sở hữu như vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thành tựu mười pháp thì có thể thấy rõ Niết Bàn vô tướng... đến vô sở hữu. Những gì là mười ?

Một là lòng tin đầy đủ. Sao gọi là lòng tin đầy đủ ? Thân tín Phật, Pháp, Tăng là thường; các đức Phật mười phươngphương tiện thị hiện; tất cả chúng sinhnhất xiển đề đều có Phật tính. Chẳng tin : Như Lai sinh già bệnh chết và tu khổ hạnh; Ðề Bà Ðạt Ða chân thật phá Tăng, làm chảy máu thân Phật; Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn; chính pháp diệt tận. Ðó gọi là Bồ tát tín tâm đầy đủ.

Hai là Tịnh giới đầy đủ. Sao gọi là tịnh giới đầy đủ ? Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát ấy tuy chẳng cùng người con gái kia hòa hợp nhưng khi gặp nữ nhân thì cùng chung nói cười đùa giỡn. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là Tịnh giới. Bồ tát này tuy chẳng cùng người con gái kia hòa hợp thân, nói cười đùa giỡn, nhưng ở ngoài tường ngăn, xa nghe đủ thứ những tiếng va chạm của chuỗi ngọc, vòng xuyến... mà lòng sinh ái trước. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại chẳng cùng với nữ nhân hòa hợp, nói cười đùa giỡn và nghe âm thanh đồ trang sức ấy, nhưng khi thấy người con trai theo đuổi con gái hay khi thấy người con gái theo đuổi con trai thì liền sinh ra tham trước. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại chẳng cùng nữ nhân hòa hợp, nói cười đùa giỡn, nghe âm thanh đồ trang sức, thấy nam nữ theo nhau, nhưng giữ giới vì muốn sinh lên trời, hưởng thụ niềm vui ngũ dục. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen tạp dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát trì giới thanh tịnh mà chẳng vì Giới, chẳng vì Thi Ba la mật, chẳng vì chúng sinh, chẳng vì lợi dưỡng, chẳng vì Bồ Ðề, chẳng vì Niết Bàn, chẳng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chỉ vì tối thượng đệ nhất nghĩa nên hộ trì cấm giới. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát Tịnh giới đầy đủ.

Ba là thân cận các thiện tri thức. Thiện tri thức là nếu có người có thể nói về tín, giới, đa văn, bố thí, trí tuệ khiến cho người thọ nhận, tu hành thì đó gọi là Bồ tát thiện tri thức.

Bốn là ưa thích tịch tịnh. Tịch tịnh là gọi thân tâm tịch tịnh. Quan sát các pháp và pháp giới thậm thâm thì đó gọi là tịch tịnh.

Năm là Tinh tấn. Tinh tấn là gọi sự hết lòng quan sát bốn Thánh đếgiả sử lửa cháy trên đầu cũng nhất định chẳng buông bỏ. Ðó gọi là tinh tấn.

Sáu là niệm đầy đủ. Niệm đầy đủ là gọi việc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên, niệm Xả. Ðó gọi là Niệm đầy đủ.

Bảy là nhuyến ngữ. Nhuyến ngữ là gọi lời nói thật, lời nói diệu, lời khi có ý trước hỏi han, lời nói chân chính. Ðó gọi là nhuyến ngữ.

Tám là hộ pháp. Hộ Pháp là gọi sự yêu thích chính pháp, thường ưa diễn nói, đọc tụng, ghi chép, suy nghĩ ý nghĩa của pháp ấy, tuyên dương phô bày rộng rãi khiến cho pháp ấy được lưu bố. Nếu thấy có người ghi chép, giải nói, đọc tụng, khen ngợi, suy nghĩa Kinh ấy thì vì tư sinh (nhu cầu đời sống) mà cúng dường cho họ những thứ như là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược..., vì hộ pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Ðó gọi là hộ pháp.

Chín là Ðại Bồ tát thấy có người đồng học, người đồng giới có sự thiếu thốnđi theo người khác xin bát nung, áo nhuộm, đồ cần để xem bệnh, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, phòng nhà để cung cấp cho họ.

Mười là đầy đủ trí tuệ. Trí tuệ là gọi sự quan sát được Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, quan sát được hai tướng của pháp như là không hay chẳng không, thường hay vô thường, lạc hay vô lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, pháp khác có thể đoạn, pháp khác chẳng thể đoạn, pháp khác từ duyên sinh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ duyên quả, pháp khác chẳng phải từ duyên quả. Ðó gọi là đầy đủ trí tuệ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát đầy đủ mười pháp, liền có thể thấy rõ Niết Bàn Vô Tướng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật trước đã bảo ông Thuần Ðà rằng, ông nay đã được thấy Phật tính, được Ðại Niết Bàn, thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nghĩa này là sao ? Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói rằng, nếu bố thí cho súc sinh thì được báo đền gấp trăm lần. Bố thí cho nhất xiển đề được báo đền gấp ngàn lần. Bố thí cho người trì giới thì báo đền gấp trăm ngàn lần. Nếu bố thí cho kẻ ngoại đạo đoạn trừ phiền não thì được báo đền không lường. Bố thí cho bốn bậc đạo hướng và cả bốn quả đến Bích Chi Phật được báo đền không lường. Bố thí cho hàng Bồ tát bất thoái và các Ðại Bồ tát, Như Lai, Thế Tôn của thân sau cùng thì sự được phước báo vô lượng vô biên, chẳng thể xưng kể, chẳng thể nghĩa bàn. Ðại sĩ Thuần Ðà nếu thọ quả báo vô lượng như vậy mà quả báo đó vô tận thì khi nào ông sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác? . Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, nếu người trọng tâm tạo nghiệp thiện hoặc ác thì nhất định được quả báo, hoặc hiện thế thọ, hoặc thứ sinh thọ, hoặc đời sau thọ. Ông Thuần Ðà trọng tâm tạo tác thiện nghiệp thì phải biết là nghiệp này nhất định thọ báo. Nếu ông nhất định thọ báo thì làm sao được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Làm sao lại được thấy Phật tính ? Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, bố thí ba thứ người quả báo vô tận, một là người bệnh, hai là cha mẹ, ba là Như Lai. Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, đức Phật bảo ngài A Nan là tất cả chúng sinh mà như họ không có nghiệp quả cõi Dục thì liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghiệp cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Như câu kệ pháp nói : Chẳng phải không chẳng phải trong biển, chẳng phải vào vùng núi đá, không có địa phương xứ sở, thoát khỏi đó chẳng thọ nghiệp. Lại, ông A Ni Lâu Ðà nói rằng, thưa đức Thế Tôn ! Con nhớ thuở xưa nhờ thí một bữa ăn mà trong tám vạn kiếp chẳng rơi vào ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn ! Bố thí một bữa ăn còn được quả báo thế, huống gì ông Thuần Ðà tín tâm cúng dường đức Phật, thành tựu đầy đủ Ðàn Ba la mật ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu thiện quả báo chẳng thể tận thì bài báng Kinh Phương Ðẳng, phạm ngũ nghịch tội, hủy bốn trọng cấm, nhất xiển đề tội làm sao có thể tận ? Làm sao có thể được thấy Phật tính, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác?

Ðức Phật dạy rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Chỉ có hai người được vô lượng vô biên công đức chẳng thể xưng kể, chẳng thể tuyên nói, có thể làm cạn kiệt dòng sông cuồng bạo sinh tử, hàng phục ma oán địch, xô ngã ma thắng tràng, có thể chuyển pháp luân vô thượng của Như Lai : Một là người giỏi hỏi, hai là người giỏi trả lời. Này thiện nam tử ! Trong mười lực của đức Phật thì nghiệp lực là sâu nhất. Này thiện nam tử ! Có các chúng sinh ở trong nghiệp duyên, lòng khinh chẳng tin, vì hóa độ họ nên ta nói lời như vậy. Này thiện nam tử ! Tất cả tác nghiệp có khinh, có trọng. Hai nghiệp trọng và khinh lại đều có hai, một là quyết định, hai là chẳng quyết định. Này thiện nam tử ! Hoặc có người nói nghiệp ác không có quả. Hoặc có người nói rằng, nghiệp ác nhất định có quả. Vậy thì sao chiên đà la Khí Hư mà được sinh lên trời và Ương Quật Ma La được quả giải thoát ? Do nghĩa này nên phải biết là, tạo tác nghiệp có định thì được quả, chẳng định cũng được quả. Ta vì đoạn trừ tà kiến như vậy nên ở trong Kinh nói lời như vậy, tất cả mọi tác nghiệp không gì chẳng được quả. Này thiện nam tử ! Hoặc có trọng nghiệp (nghiệp nặng) có thể được làm thành khinh (nhẹ). Hoặc có khinh nghiệp có thể được làm thành trọng. Chẳng phải tất cả mọi người chỉ có ngu và trí. Vậy nên phải biết là, chẳng phải tất cả nghiệp đều định được quả. Tuy nghiệp chẳng định được quả nhưng chẳng phải chẳng được. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh, phàm có hai hạng, một là người trí, hai là người ngu. Người có trí do lực của trí tuệ nên có thể khiến cho nghiệp rất nặng địa ngụchiện thế thọ nhẹ. Người ngu si làm cho nghiệp nhẹ hiện thế phải thọ nặng ở địa ngục.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì chẳng nên cầu Phạm hạnh thanh tịnh và quả giải thoát.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng nên cầu phạm hạnh giải thoát. Do chẳng định thì tu Phạm hạnhGiải thoát quả. Này thiện nam tử ! Nếu có thể xa lìa tất cả ác nghiệp thì được thiện quả. Nếu xa thiện nghiệp thì được ác quả. Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu chẳng tu Thánh đạo thì không giải thoát. Tất cả Thánh nhân sở dĩ tu đạo là vì hoại định nghiệp, được khinh báo (quả báo nhẹ), nghiệp bất định không quả báo. Nếu tất cả nghiệp định được báo thì chẳng nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu người xa lìa tu tập Thánh đạo được giải thoát thì không có chỗ này. Chẳng được giải thoát mà được Niết Bàn thì cũng không có chỗ này. Này thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được quả thì việc làm cả đời thuần là nghiệp thiện thì nên phải vĩnh viễn đã luôn thọ an lạc. Việc làm cả đời nghiệp ác rất nặng cũng nên phải vĩnh viễn đã thọ khổ não lớn. Nghiệp quả nếu vậy thì không tu đạo giải thoát Niết Bàn. Người làm người thọ, Bà la môn làm Bà la môn thọ. Nếu như vậy thì chẳng nên có dòng họ hạ đẳng. Nếu hạ đẳng có thì nên luôn là người, Bà la môn nên luôn là Bà la môn, lúc nhỏ tạo nghiệp thì nên lúc nhỏ chịu báo, chẳng nên đến lúc trung niên, lúc già mới chịu quả báo. Lúc già tạo tác ác nghiệp, sinh vào trong địa ngục thì thân đầu tiên ở địa ngục, chẳng nên thọ báo liền mà nên đợi khi già rồi nhiên hậu mới thọ. Nếu khi già chẳng giết hại thì chẳng nên lúc tráng niên được sống lâu. Nếu không sống được thời trẻ thì làm sao đến già để nghiệp không mất ? Nếu nghiệp không mất thì làm sao mà có tu đạo Niết Bàn ? Này thiện nam tử ! Nghiệp có hai thứ : định và bất định. Ðịnh nghiệp có hai, một là báo định, hai là thời định. Hoặc có báo định mà thời chẳng định, duyên hòa hợp thì thọ. Hoặc ba thời thọ đó là hiện thọ, sinh thọ và hậu thọ. Này thiện nam tử ! Nếu định tâm tạo tác nghiệp thiện, ác.v.v... Tạo tác rồi sinh ra lòng tin sâu sắc vui mừng và nếu phát lên thệ nguyện cúng dường Tam Bảo thì đó gọi là Ðịnh nghiệp. Này thiện nam tử ! Người trí thì thiện căn sâu bền khó chuyển động. Vậy nên họ có thể khiến cho nghiệp nặng thành nhẹ. Kẻ ngu si thì căn bất thiện thâm hậu nên có thể khiến cho nghiệp nhẹ mà trở thành quả báo nặng. Do nghĩa này nên tất cả các nghiệp chẳng gọi là quyết định. Ðại Bồ tát không có nghiệp địa ngục nhưng vì chúng sinh nên phát đại thệ nguyện sinh vào trong địa ngục.

Này thiện nam tử ! Thuở xưa, lúc chúng sinh sống lâu trăm tuổi thì hằng hà sa số chúng sinh thọ quả báo địa ngục. Ta thấy thế rồi liền phát đại nguyện, thọ thân địa ngục. Bồ tát bấy giờ thật không có nghiệp đó, vì chúng sinh nên thọ quả báo địa ngục. Ta vào lúc ấy ở tại trong địa ngục trải qua vô lượng năm, vì các tội nhân rộng mở, phân biệt mười hai bộ Kinh. Mọi người nghe rồi, hủy hoại quả báo ác khiến cho địa ngục trống không, trừ bọn nhất xiển đề. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Lại nữa, này thiện nam tử ! Trong Hiền kiếp này, có vô lượng chúng sinh rơi vào trong loài súc sinh thọ quả báo của nghiệp ác. Ta thấy thế rồi lại phát thệ nguyện, vì muốn nói pháp độ chúng sinh nên, hoặc làm thân hươu nai, gấu, bồ câu, vượn, rồng, rắn, chim cánh vàng, cá, rùa, chồn, thỏ, trâu, ngựa... Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chân thật không có nghiệp ác súc sinh như vậy nhưng do lực đại nguyện, vì chúng sinh nên thị hiện thọ những thân này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ ác nghiệp này. Lại nữa, này thiện nam tử! Trong kiếp Hiền này, lại có vô lượng vô biên chúng sinh trong loài ngã quỉ. Chúng ăn nước ói ra, mỡ, thịt, máu mủ, đồ đại tiểu tiện, mũi dãi... sống lâu không lường, hàng trăm ngàn vạn năm mà chưa từng nghe đến danh từ nước uống, huống lại là tận mắt nhìn thấy và được uống. Giả sử từ xa thấy nước, sinh tâm đi đến thì đến nơi nước biến thành lửa mạnh và mủ máu. Hoặc khi chẳng biến đổi thì có nhiều người tay cầm mâu, kích ngăn giữ, tóm bắt khiến cho chúng chẳng đến chỗ nước được. Hoặc khi trời tuông mưa thì nước mưa đến thân chúng hóa thành lửa. Ðó gọi là quả báo nghiệp ác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có các quả báo nghiệp ác như vậy nhưng vì giáo hóa chúng sinh khiến cho họ được giải thoát nên phát thệ nguyện thọ thân như vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ta ở kiếp Hiền, sinh vào nhà giết mổ, nuôi dưỡng gà, heo, trâu, dê, làm người săn bắn, làm ngư phủ đánh cá, sinh vào nhà Chiên đà la làm giặc, trộm cướp... Bồ tát thật không làm những nghiệp ác như vậy, nhưng vì độ chúng sinh, khiến cho họ được giải thoát, dùng đại nguyện lực mà thọ thân như vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này, ta lại sinh ra ở vùng biên địa, tạo tác nhiều tham dục, sân nhuế, ngu si, quen làm việc phi pháp, chẳng tin Tam Bảo, quả báo đời sau, chẳng thể cung kính cha mẹ, người già gần gũi, kỳ cựu, trưởng túc.... Này thiện nam tử ! Bồ tát, lúc ấy thật không có những nghiệp này, nhưng vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện mà sinh ra trong chỗ ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này, ta lại thọ thân nữ, thân ác, thân tham, thân sân, thân si, thân tật đố, thân keo kiệt, thân bé nhỏ (thân giả dối ?), thân lừa dối, thân trói buộc... Này thiện nam tử ! Bồ tát lúc ấy cũng không có những nghiệp này mà chỉ vì làm cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện để sinh ra trong những thân ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ở kiếp Hiền ta thọ thân Huỳnh môn không căn, hai căn và căn chẳng định. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có các nghiệp thân ác như vậy, nhưng vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện mà sinh trong thân ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ở kiếp Hiền, ta lại tu tập pháp của ngoại đạo Ni Kiền Tử, tín thọ pháp ấy : không thí, không từ (cúng tế), không quả báo thí từ; không nghiệp thiện ác, không quả báo thiện ác; không đời hiện tại và đời vị lai; không đây không đó; không có Thánh nhân; không thân biến hóa, không đạo Niết Bàn... Này thiện nam tử ! Bồ tát thật không có những nghiệp ác như vậy, chỉ vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện để thọ những tà pháp này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa, cùng với Ðề Bà Ðạt Ða đều làm thương chủ (chủ buôn bán), mỗi người đều có năm trăm người theo buôn bán, vì lợi ích nên đi vào trong biển, thu nhặt lấy trân bảo. Do nghiệp duyên ác nên trên đường đi gặp phải gió dữ thổi phá tan thuyền bè, bạn buôn chết hết. Lúc bấy giờ, ta cùng với Ðề Bà Ðạt Ða nhờ quả báo chẳng giết hại nên sống lâu, được gió thổi đưa đến đất liền. Ðề Bà Ðạt Ða tham tiếc của báu, sinh ra ưu khổ lớn, lên tiếng gào khóc. Ta nói rằng : “Này Ðề Bà Ðạt Ða ! Chẳng nên gào khóc !”. Ðề Bà Ðạt Ða liền nói với ta rằng : “Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ví như có người nghèo cùng khốn khổ đi đến vùng nghĩa địa, tay nắm lấy thây chết mà nói lời này : Xin ngươi hôm nay cho ta niềm vui chết thì ta sẽ cho ngươi mạng sống bần cùng. Bấy giờ thây chết liền ngồi dậy nói với người nghèo rằng: Này thiện nam tử ! Mạng sống bần cùng ngươi hãy tự nhận lấy đi ! Ta nay rất thích niềm vui chết như vậy, thật chẳng mừng được sự nghèo của ngươi mà sống. Nhưng ta ngày hôm nay đã không niềm vui của sự chết còn lại kiêm thêm bần cùng thì làm sao mà chẳng gào khóc được vậy ?”. Ta lại an ủi dỗ dành : “Ngươi hãy chớ buồn ! Nay có hai viên ngọc giá trị vô số ta sẽ phân một viên cho ngươi !”. Ta liền phân cho và lại nói với ông rằng : “Người có mạng có thể được báu này. Như những người kia không mạng thì ai có thể được vậy ?”. Ta mệt mỏi lắm, đi đến dưới một cây nằm ngủ nghỉ ngơi. Lòng tham của Ðề Bà Ðạt Ða hừng hực, vì viên ngọc còn lại liền sinh ác tâm, đâm mù mắt ta mà cướp đoạt viên ngọc của ta. Khi ta bị thương phát ra tiếng kêu rên rỉ. Có một người con gái đi đến chỗ ta mà hỏi ta rằng : “Ngài vì sao mà rên rỉ như vậy ?”. Ta liền đem việc của mình nói cho người con gái ấy. Người con gái nghe rồi lại một lần nữa hỏi ta : “Ông tên là gì ?”. Ta liền đáp rằng : “Tên là Thật Ngữ !”. Người con gái nói rằng : “Làm sao biết ông là Thật Ngữ vậy ?”. Ta liền lập lời thề rằng : “Nếu ta nay đối với Ðề Bà Ðạt Ða có ác tâm thì mắt ta sẽ vĩnh viễn bị mù lòa như vậy. Như ác tâm ấy không có thì sẽ được sáng mắt trở lại”. Ta nói rồi thì mắt ấy bình phục như cũ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Ðại Bồ tát nói hiện thế báo (quả báo đời hiện tại). Này thiện nam tử ! Ta nghĩ, thuở xưa, sinh vào nhà Bà la môn tại thành Phú Ðơn Na ở Nam Thiên Trúc. Lúc đó có vị vua tên là Ca La Phú. Tính vua ấy bạo ác, kiêu mạn, tự đại, tuổi trẻ sắc đẹp, đắm trước năm dục. Ta vào lúc ấy, vì độ chúng sinh, ở tại bên ngoài thành đó mà tịch mặc Thiền tư. Lúc bấy giờ, mùa Xuân cây cối trổ hoa, vị vua đó cùng với quyến thuộc, cung nhân, thể nữ ra khỏi thành du ngoạn. Ông ở dưới rừng cây, tự vui sướng với năm dục. Các thể nữ của ông bỏ vua đi chơi, liền đến chỗ của ta. Ta muốn vì họ đoạn tham dục nên đã vì họ nói pháp. Vị vua tìm đến liền thấy ta tức thời sinh ra ác tâm mà hỏi ta rằng : “Ông nay đã được quả A la hán rồi chăng ?”. Ta nói : “Chẳng được !”. Vua lại nói : “Tu được quả Bất Hoàn rồi chăng ?”. Ta nói : “Chẳng được!”. Vua lại nói lời này : “Ông nay nếu chưa được hai quả này tức là đầy đủ tham dục phiền não thì sao tự buông thả quan sát những người con gái của ta ?”. Ta liền đáp rằng : “Thưa đại vương ! Ngài phải biết rằng, ta nay tuy chưa đoạn tham dục kết nhưng nội tâm của ta thật không tham trước !” Vị vua nói rằng : “Này si nhân ! Trên đời có các tiên nhân uống hơi, ăn trái cây mà thấy sắc còn tham, huống là ông tuổi trẻ, chưa đoạn dứt tham dục thì làm sao thấy sắc mà sẽ chẳng đắm trước ?”. Ta nói : “Thưa đại vương ! Thấy sắc chẳng đắm trước thật ra chẳng nhân vào việc uống hơi, ăn trái cây mà đều do hệ thuộc tâm vô thường, bất tịnh”. Vị vua nói : “Nếu có khinh người khác mà sinh ra bài báng thì làm sao được gọi là tu trì tịnh giới ?”. Ta nói : “Thưa đại vương ! Nếu có lòng ganh ghét thì có bài báng. Ta không lòng ganh ghét thì làm sao nói rằng bài báng ?”. Vị vua nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Sao gọi là giới ?”. “Thưa đại vương ! Nhẫn gọi là giới !”. Vua nói : “Nếu nhẫn là giới thì phải cắt tai của ông. Nếu ông có thể nhẫn thì biết là ông trì giới”. Vua liền cắt tai của ta. Ta bị cắt tai mà nhan sắc chẳng biến đổi. Quần thần của vua thấy việc này rồi, liền can vua rằng : “Vị đại sĩ như vậy chẳng nên gia hại !”. Vị vua bảo các bề tôi rằng : “Các khanh làm sao biết là Ðại sĩ ?”. Các bề tôi đáp rằng : “Thấy người này khi thọ khổ mà sắc mặt chẳng biến đổi !”. Vị vua lại nói rằng : “Ta sẽ lại thử thách để biết có biến đổi hay chẳng biến đổi”. Vua liền cho cắt mũi ta, chặt tay chân ta. Bấy giờ Bồ tát đã ở trong vô lượng vô biên đời, tu tập từ bi thương xót chúng sinh khổ. Khi đó bốn vua trời lòng ôm sân giận, mưa xuống cát, sỏi, đá. Vị vua thấy thế rồi, lòng rất kinh sợ, lại đến chỗ của ta quì dài mà nói rằng : “Nguyện xin ngài thương xót cho phép tôi sám hối”. Ta nói rằng : “Thưa đại vương ! Lòng ta không sân cũng như không tham!”. Vị vua nói : “Thưa đại đức ! Làm sao được biết lòng ngài không sân hận ?”. Ta liền lập thệ rằng : “Ta nếu chân thật không sân hận thì khiến cho thân này của ta bình phục như cũ !”. Phát nguyện xong, thân ta liền bình phục. Ðó gọi là Ðại Bồ tát nói hiện thế báo.

Này thiện nam tử ! Sinh báo, hậu báo của nghiệp thiện và bất thiện nghiệp cũng lại như vậy. Khi Ðại Bồ tát được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tất cả các nghiệp đều được hiện báo. Nghiệp ác bất thiện được hiện báo thì như vị vua làm ác bị trời tuông mưa dữ; cũng như có người chỉ cho thợ săn chỗ của gấu và nai sắc báu thì tay hắn bị rơi rụng. Ðó gọi là quả báo hiện thọ của nghiệp ác. Sinh báo thì như nhất xiển đề phạm bốn trọng cấmngũ nghịch tội. Hậu báo thì như người trì giới phát thệ nguyện sâu sắc rằng : Nguyện đời vị lai luôn được thân tịnh giới như vậy. Nếu có chúng sinh lúc thọ trăm năm, lúc thọ tám mươi năm thì nguyện ở trong họ làm Chuyển Luân Thánh Vương để giáo hóa chúng sinh.

Này thiện nam tử ! Nếu nghiệp định được quả báo hiện thế thì chẳng thể được sinh báohậu báo. Ðại Bồ tát tu nghiệp của ba mươi hai tướng Ðại nhân thì chẳng thể được hiện thế báo. Nếu nghiệp chẳng được ba thứ báo thì đó gọi là bất định. Này thiện nam tử ! Nếu nói các nghiệp định được báo thì chẳng được có tu tập Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người này chẳng phải đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Nếu nói các nghiệp có định và bất định. Ðịnh thì hiện báo, sinh báo, hậu báo. Bất định thì duyên hòa hợp thì thọ, chẳng hòa hợp thì chẳng thọ. Do nghĩa này nên có Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người này là đệ tử chân chính của ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh, bất định nghiệp thì nhiều, quyết định nghiệp thì ít. Do nghĩa này nên có sự tu tập đạo. Có tu tập đạo nên nghiệp nặng quyết định có thể khiến cho nhẹ thọ báo, bất định nghiệp chẳng phải sinh thọ quả báo.

Này thiện nam tử ! Có hai thứ người : “Một là bất định tạo tác định báo, hiện báo tạo tác sinh báo, khinh báo tạo tác trọng báo đáng nên thọ trong loài người thì thọ tại địa ngục. Hai là định tạo tác bất định nên sinh thọ thì trở lại là hiện thọ, trọng báo tạo tác khinh báo đáng nên thọ báo tại địa ngục thì thọ báo nhẹ trong loài người. Hai người như vậy, một là ngu, hai là trí. Người trí thì làm cho nhẹ báo đi, người ngu thì khiến cho báo nặng thêm. Này thiện nam tử ! Ví như hai người có tội đối với vua. Người quyến thuộc nhiều thì tội ấy nhẹ, kẻ quyến thuộc ít thì tội đáng nhẹ lại thành nặng. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy. Người trí nghiệp thiện nhiều nên nghiệp nặng thì thọ báo nhẹ. Kẻ ngu nghiệp thiện ít nên nghiệp nhẹ thì thọ báo nặng. Này thiện nam tử ! Ví như hai người, một người thì mập mạnh, một người thì gầy yếu. Họ đều chìm vào bùn sâu thì người mập mạnh có thể ra khỏi còn người gầy yếu thì chìm mất. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều uống phải độc mà một người có chú lực và A dà đà, một người thì không có. Người có chú và thuốc thì độc chẳng thể làm thương tổn. Người không có chú và thuốc thì khi uống liền chết. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều uống nhiều nước mà một người hỏa thế thịnh, một người yếu ớt. Người hỏa thế nhiều thì có thể tiêu hóa, người hỏa thế yếu thì bị bịnh hoạn. Này thiện nam tử ! Ví như hai người bị sự trói buộc của vua mà một người có trí tuệ, một người thì ngu si. Người có trí thì có thể được giải thoát, người ngu si thì không hạn kỳ thoát khỏi. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều lặn lội trên con đường hiểm trở mà một người thì sáng mắt còn một người thì mù lòa. Người có mắt đi thẳng qua không có hoạn nạn, còn người mù lòa thì rơi rớt xuống hầm sâu nguy hiểm. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều cùng uống rượu mà một người uống được nhiều rượu còn một người thì uống ít rượu. Người uống được nhiều thì uống không hoạn nạn gì, còn kẻ uống được ít thì thành hoạn nạn. Này thiện nam tử! Ví như hai người ra trận đánh địch mà một người thì trang bị đầy đủ áp giáp, binh khí còn một người thì thân trần (không trang bị). Người có binh khí thì có thể phá tan oán địch, còn người thân trần thì chẳng thể tự tránh khỏi họa. Lại có hai người quần áo dơ bẩn mà một người biết liền giặt, một người biết chẳng giặt. Người giặt thì quần áo sạch sẽ, còn người chẳng giặt thì cấu bẩn mỗi ngày một thêm. Lại có hai người đều cùng đi bằng xe mà một người xe có trục có nan hoa còn một người thì xe không trục không nan hoa. Người xe có trục có nan hoa thì theo ý mà đi, còn người xe không trục không nan hoa thì chẳng dời khỏi chỗ. Lại có hai người đều đi trên con đường trống vắng mà một người có lương thực còn một người thì đi không. Người có lương thực thì qua được hiểm nghèo còn người đi không thì chẳng thể qua khỏi. Lại có hai người bị giặc cướp mà một người có bảo tàng còn một người thì không bảo tàng. Người có bảo tàng lòng không lo buồn còn người không bảo tàng thì lòng sầu não. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy, người có bảo tàng thiện thì nghiệp nặng được thọ báo nhẹ, người không bảo tàng thiện thì nghiệp nhẹ phải thọ quả báo nặng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, chẳng phải tất cả nghiệp đều được định quả, cũng chẳng tất cả chúng sinh quyết định thọ báo. Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao chúng sinh khiến cho khinh báo hiện tại mà phải thọ nặng ở địa ngục ? Trọng báo ở địa ngục mà được thọ nhẹ ở đời hiện tại ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Tất cả chúng sinh thường có hai thứ, một là có trí, hai là ngu si. Nếu người có thể tu tập thân giới, tâm tuệ thì đó gọi là người trí. Nếu kẻ chẳng thể tu tập thân giới tâm tuệ thì đó gọi là kẻ ngu si. Sao gọi là chẳng tu thân ? Nếu chẳng thể nhiếp lấy năm tình, các căn thì gọi là chẳng tu thân; chẳng thể thọ trì bảy thứ tịnh giới thì gọi là chẳng tu giới; chẳng điều phục tâm thì gọi là chẳng tu tâm; chẳng tu Thánh hạnh thì gọi là chẳng tu tuệ. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể đầy đủ giới thể thanh tịnh. Chẳng tu giới là thọ chứa tám thứ vật bất tịnh. Chẳng tu tâm là chẳng thể tu tập ba thứ tướng. Chẳng tu tuệ là chẳng tu phạm hạnh. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể quan sát thân, chẳng thể quan sát sắc và quan sát sắc tướng, chẳng quan sát thân tướng, chẳng biết thân số, chẳng biết thân này từ đây đến đó, ở trong phi thân mà sinh ra thân tướng, ở trong phi sắc mà tác khởi sắc tướng. Vậy nên tham trước ngã thân, thân số thì gọi là chẳng tu thân. Chẳng tu giới là nếu thọ giới hạ tiện thì chẳng gọi là tu giới. Thọ trì biên giới (giới cấm ven bờ) là giới tự lợi, là giới tự điều, chẳng thể khắp vì chúng sinh an lạc, chẳng phải là hộ trì chánh pháp Vô Thượng. Nếu vì sinh lên trời thọ niềm vui ngũ dục thì chẳng gọi là tu giới. Chẳng tu tâm là nếu tâm tán loạn chẳng thể chuyên nhất giữ cảnh giới của mình. Cảnh giới của mình là bốn niệm xứ. Cảnh giới người khác như là năm dục. Nếu chẳng thể tu bốn niệm xứ thì gọi là chẳng tu tâm. Ở trong nghiệp ác mà chẳng khéo hộ trì tâm thì gọi là chẳng tu tuệ. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể quan sát sâu sắc thân này vô thường, vô trụ, dễ tan vỡ, từng niệm từng niệm diệt hoại, chính là cảnh giới của ma. Chẳng tu giới là chẳng thể đầy đủ Thi Ba la mật. Chẳng tu tâm là chẳng thể đầy đủ Thiền Ba la mật. Chẳng tu tuệ là chẳng thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, chẳng tu thân thì tham trước ngã thân và thân ngã sở, ngã thân là thường hằng không có biến dịch. Chẳng tu giới thì vì thân mình nên làm mười nghiệp ác. Chẳng tu tâm thì ở trong nghiệp ác chẳng thể nhiếp lấy tâm. Chẳng tu tuệ thì do chẳng nhiếp lấy tâm nên chẳng thể phân biệt pháp thiện, ác.v.v... Lại nữa, chẳng tu thân thì chẳng cắt đứt ngã kiến. Chẳng tu giới thì chẳng cắt đứt giới thủ (chọn lấy giới). Chẳng tu tâm thì tác khởi nghiệp tham, sân, hướng đến địa ngục. Chẳng tu tuệ thì chẳng cắt đứt si tâm. Lại nữa, chẳng tu thân thì chẳng thể quan sát thân tuy không tội lỗi mà luôn chính là oán. Này thiện nam tử ! Ví như người con trai có kẻ oán luôn theo dò tìm sơ hở. Người trí hay biết đã hết lòng thận trọng hộ trì, nếu chẳng thận trọng hộ trì thì bị hại. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, thường do ăn uống, lạnh nóng nuôi dưỡng. Nếu chẳng nuôi dưỡng, giữ gìn thận trọng như vậy thì liền phải tan hoại. Này thiện nam tử ! Như Bà la môn phụng sự trời Lửa, thường dùng hương hoa khen ngợi, lễ bái, cúng dường, thừa sự... hạn tròn trăm năm. Nhưng nếu một khi chạm vào lửa thì liền cháy tay người. Lửa này tuy được cúng dường như vậy nhưng nhất định không một ý niệm đền ơn người phụng sự. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, tuy trong nhiều năm, dùng hương hoa tốt, chuỗi ngọc, quần áo, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh... mà cung cấp cho thân. Nhưng nếu nó gặp phải những nhân duyên ác ở trong hay ở ngoài thì tức thời diệt hoại, chẳng nhớ nghĩ đến cái ơn cung cấp y thực... của ngày trước. Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua nuôi bốn con rắn độc, nhốt chúng vào một cái hòm nhỏ, đem giao cho một người lệnh cho trông nom nuôi dưỡng. Trong bốn con rắn này, giả sử một con sinh ra sân hận thì có thể hại người. Người này kinh sợ thường cầu ẩm thực tùy lúc giữ hộ. Rắn độc bốn đại của tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, nếu một đại nổi sân thì có thể hoại thân. Này thiện nam tử ! Như người bệnh lâu cần phải chí tâm cầu thuốc trị liệu. Nếu họ chẳng siêng cầu cứu thì nhất định phải chết chẳng nghi ngờ gì. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, phải thường nhiếp lấy tâm chẳng để cho nó buông lung. Nếu buông lung thì liền bị hoại diệt. Này thiện nam tử ! Ví như cái bình đất chẳng chịu đựng được gió, mưa, đánh, đập, xô đẩy, đè nén. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, chẳng chịu đựng được đói khát, lạnh, nóng, gió, mưa, đánh đập, trói buộc, mắng chửi... Này thiện nam tử ! Ví như mụt nhọt chưa muồi thì luôn phải khéo giữ gìn, chẳng cho người đụng vào. Giả sử có người đụng vào thì rất đau khổ. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Như con la mang thai là tự hại thân của nó. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, bên trong có gió lạnh thì thân liền chịu khổ. Này thiện nam tử ! Ví như cây chuối sinh ra quả thì khô. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Cũng như cây chuối, bên trong không có quả cứng, thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Như rắn, chuột, chó sói mỗi mỗi đối với nhau luôn sinh ra lòng oán. Bốn đại của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như con ngỗng chúa chẳng ưa chỗ mồ mã. Bồ tát cũng vậy, đối với thân mồ mã cũng chẳng tham lạc. Này thiện nam tử ! Như Chiên đà la bảy đời nối tiếp nhau chẳng bỏ nghiệp ấy. Vậy nên họ bị người đời khinh rẻ. Chủng tử của thân này cũng lại như vậy, chủng tử tinh huyết rốt ráo bất tịnh. Do bất tịnh nên các đức Phật Bồ tát quở trách. Này thiện nam tử ! Thân này chẳng như núi Ma la gia sinh ra chiên đàn, cũng chẳng thể sinh ra hoa Ưu bát la, hoa Phân đà lợi, hoa Chiêm bà, hoa Ma lợi ca, hoa Bà sư ca mà nó chảy ra mũ máu bất tịnh, chỗ sinh sống dơ bẩn, xấu xí đáng ghét, thường cùng với loài trùng ở chung một chỗ. Này thiện nam tử ! Ví như thế gian tuy có vườn rừng thanh tịnh thượng diệu nhưng có thây chết trong đó thì tức là bất tịnh thì mọi người đều xả bỏ, chẳng sinh lòng ái trước. Sắc giới cũng vậy, tuy lại tịnh diệu nhưng do có thân nên các đức Phật, Bồ tát đều cùng xả bỏ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng thể tác khởi sự quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Chẳng tu giới là nếu chẳng thể quan sát giới chính là thềm bậc của tất cả thiện pháp, cũng chính là căn bản của tất cả thiện pháp. Như đất chính là chỗ sinh ra của tất cả cây cối, chính các thiện căndẫn đầu thiện pháp vậy. Như vị thương chủ kia dẫn đường các thương nhân, giới chính là Thắng tràng của tất cả thiện pháp. Như việc lập Thắng tràng của Thiên đế thích, giới có thể đoạn dứt vĩnh viễn tất cả nghiệp ácba đường ác, có thể trị liệu ác bệnh giống như cây thuốc. Giới chính là lương thực (tư lương) để đi trên đường nguy hiểm sinh tử. Giới chính là áo giáp, binh khí tiêu diệt giặc kết sử ái. Giới chính là thần chú hay diệt rắn độc kết sử. Giới chính là cây cầu để qua khỏi hành động nghiệp ác. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tịnh giới. Chẳng tu tâm là chẳng thể quan sát tâm khinh tháo chuyển động, khó nắm bắt, khó điều phục, dong ruổi chạy rong như con voi hung dữ. Từng niệm từng niệm qua nhanh như ánh chớp, xao động nhiễu loạn chẳng trụ giống như con vượn. Như huyễn hóa, như lửa nóng mới chính là căn bản của các ác. Năm dục khó thỏa mãn như lửa được củi khô, cũng như biển cả nuốt lấy các dòng sông, như núi Mạn đà cỏ cây rậm rạp chẳng thể quan sát sinh tử hư vọng, đắm chìm mê hoặc dẫn đến hoạn nạn như cá cắn câu, thường đi trước dẫn đường các nghiệp đi theo giống như mẹ sò dẫn đường các con, tham trước năm dục chẳng ưa Niết Bàn, như lạc đà ăn mật cho đến chết chẳng đoái hoài đến cỏ sô, đắm sâu vui hiện tại chẳng quan sát lỗi ngày sau như trâu ăn lúa chẳng sợ gậy gộc, dong ruổi cùng khắp hai mươi lăm cõi hữu giống như gió mạnh thổi vào chỗ Ðâu la nhỉ, điều chẳng nên cầu mà cầu không chán đủ như người không biết cầu lửa không nóng, thường ưa sinh tử chẳng thích giải thoát như con sâu Nhiệm bà ưa cây nhiệm bà, mê hoặc ái trước sinh tử hôi thối giống như người tù trong ngục thích con gái của ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa sống bất tịnh. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu tuệ là chẳng quan sát trí tuệthế lực lớn như con chim cánh vàng, có thể hủy hoại nghiệp ác, hủy hoại bóng tối vô minh giống như ánh sáng mặt trời, có thể đánh bạt thọ ấm như nước cuốn trôi vật, đốt cháy tà kiến giống như lửa mạnh. Tuệ chính là căn bản của tất cả thiện pháp, là chủng tử mẹ của Phật, Bồ tát. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy thân, tướng của thân, nhân của thân, quả của thân, tụ của thân, một thân, hai thân, thân này, thân kia, diệt thân, đẳng thân, tu thân, người tu. Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Nếu thấy giới, giới tướng, giới nhân, giới quả, thượng giới, hạ giới, giới tụ, giới nhất, giới nhị, thử giới, bỉ giới, giới diệt, giới đẳng, giới tu và người tu giới Ba la mật... Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu giới. Nếu thấy tâm, tâm tướng, tâm nhân, tâm quả, tâm tụ, tâm cập, tâm số, tâm nhất, tâm nhị, thử tâm, bỉ tâm, tâm diệt, tâm đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng trung hạ, tâm thiện, tâm ác... Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu tâm. Này thiện nam tử ! Nếu thấy tuệ, tuệ tướng, tuệ nhân, tuệ quả, tuệ tụ, tuệ nhất, tuệ nhị, thử tuệ, bỉ tuệ, tuệ diệt, tuệ đẳng, tuệ thượng trung hạ, độn tuệ, lợi tuệ, tuệ tu, người tu... Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng tu thân, giới, tâm, tuệ thì người như vậy đối với nghiệp ác nhỏ được quả báo ác lớn. Do kinh sợ nên họ thường sinh ra ý niệm này: Ta thuộc địa ngục nên tạo tác hạnh địa ngục. Tuy nghe người Trí nói về khổ của địa ngục nhưng thường tác khởi ý niệm này : Như sắt đánh vào sắt, đá lại đánh vào đá, cây tự đánh vào cây, con trùng lửa ưa lửa, thân địa ngục trở lại tương tợ địa ngục có việc gì là khổ ? Ví như con nhặng xanh bị nước dãi nhổ ra dán dính thì chẳng thể ra được. Người này cũng vậy ở trong tội nhỏ chẳng thể tự ra, lòng ban đầu không ăn năn, chẳng thể tu thiện, che giấu tỳ vết (lỗi lầm). Tuy họ có tất cả thiện nghiệp trong quá khứ nhưng đều bị sự cấu bẩn của tội đó. Khinh báo hiện thọ sẵn có của người này chuyển thành quả ác cực nặng ở địa ngục. Này thiện nam tử ! Như nước chứa trong đồ đựng nhỏ mà cho vào một thăng (dụng cụ đo lường) muối thì vì nước ấy mặn đắng, khó có thể uống được. Tội nghiệp người này cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có người thua người khác một tiền mà chẳng thể đền trả nên thân bị trói buộc chịu nhiều khổ sở. Tội nghiệp của người này cũng lại như vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Người này vì sao khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến địa ngục thọ ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh nếu đủ năm việc thì khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến địa ngục thọ. Những gì là năm ? Một là ngu si, hai là thiện căn nhỏ ít, ba là nghiệp ác sâu nặng, bốn là chẳng sám hối, năm là chẳng tu nghiệp thiện căn bản. Lại có năm việc : Một là tu tập nghiệp ác, hai là không của cải giới, ba là xa lìa các thiện căn, bốn là chẳng tu thân, giới, tâm, tuệ, năm là gần gũi ác tri thức. Này thiện nam tử ! Vậy nên có thể khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến thọ nặng ở địa ngục.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Những người nào có thể chuyển được địa ngục báo thành thọ quả nhẹ ở đời hiện tại ?

- Này thiện nam tử ! Nếu có người tu tập thân, giới, tâm tuệ thì như trước đã nói, có thể quan sát các pháp đồng như hư không, chẳng thấy trí tuệ, chẳng thấy người trí, chẳng thấy ngu si, chẳng thấy người ngu, chẳng thấy tu tập và người tu tập. Ðó gọi là người trí. Người như vậy thì có thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ. Người này có thể khiến cho quả báo địa ngục được thọ nhẹ ở đời hiện tại. Người này giả sử tạo tác nghiệp ác rất nặng mà tư duy quan sát có thể khiến cho nhẹ và nhỏ. Họ nghĩ rằng : Nghiệp của ta tuy nặng nhưng chẳng bằng nghiệp thiện. Ví như hoa chồng chất tuy đến hàng trăm cân nhưng nhất định chẳng thể địch nỗi một lượng vàng ròng, như ném một thăng muối vào sông Hằng thì nước vẫn không vị mặn, người uống chẳng hay biết, như kẻ giàu to tuy thua nhiều người đến hàng ngàn vạn vật báu, nhưng không thể trói buộc khiến cho ông ấy thọ khổ, như con Ðại Hương Tượng (con voi thơm) có hể phá hoại khóa sắt, tự tại mà đi. Người trí tuệ cũng lại như vậy, thường tư duy rằng : Thiện lực của ta nhiều, ác nghiệp yếu kém. Ta có thể phát lồ sám hối diệt trừ ác, có thể tu trí tuệ. Lực trí tuệ nhiều, lực vô minh ít. Nghĩ như vậy rồi, họ gần gũi bạn lành, tu tập chính kiến, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh. Thấy có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì lòng họ sinh cung kính, thêm đem y thực, phòng xá, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh, hương hoa để cúng dường, khen ngợi, tôn trọng người đó. Ði đến chỗ người hành trì đó, người trí xưng nói cái thiện, chẳng nói sở đoản. Người có trí cúng dường Tam Bảo, kính tín Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn, tin Như Lai thường hằng, không có biến dịch, tin tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Người này có thể khiến cho quả báo nặng ở địa ngục trở thành thọ nhẹ ở đời hiện tại. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên chẳng phải tất cả nghiệp đều có định quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sinh định thọ.

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ hai mươi chín hết -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12572)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52111)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10585)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12524)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12649)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16113)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16405)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13694)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9118)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11940)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14855)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20533)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant