Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tuyển tập 26

25 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 9771)
Tuyển tập 26


Tuyển tập 10 bài – Tình Tự Quê Hương 26

Thơ Mặc Giang

macgiang@y7mail.com; thnhattan@yahoo.com.au


01. Đôi bờ nhớ thương

02. Tiếng hát Việt Nam muôn đời

03. Một nhà Việt Nam

04. Quê hương tình tự muôn đời

05. Tình tự nâng niu

06. Vịnh nước non

07. Chuyển trao từng thế hệ

08. Ca vang đồi thế kỷ

09. Sóng vỗ đôi bờ

10. Dậy sóng Thi Thơ

 

Đôi bờ nhớ thương

 Tháng 3-2006

 

Tôi đứng bên này sông

Anh đứng bên kia sông

Cùng nói chuyện dòng sông

cách nhau đôi bờ biền biệt

Nước vẫn chảy miên man thi thiết

Khi lăn tăn, khi nổi trận ba đào

Có những khi, mùa lũ lụt dâng cao

Làm sạt, lở, cho hai bờ tơi tả

Tôi dang ra, để tránh mưa tầm tã

Anh thụt lùi, để khỏi đẫm mưa tuôn

Khi đã qua cơn thác lũ điên cuồng

Nước rút xuống, cùng trở về, đứng ngó

Cùng nhìn nhau giữa đôi bờ loang lở

Chỗ phù sa, chỗ cát đá bùn lầy

Chỗ xoáy vòng, chỗ trộn lẫn đục ngây

Chỗ nghiêng ngửa, chỗ dập vùi lau lách

Một dòng sông, mà sao nhiều oan nghiệt

Biết bao phen phải lặn lội đưa đò

Hay bắc cầu, nối từng nhịp sao cho

Cầu không gãy, đau thêm cho lòng nước

Như Mỹ Thuận, mấy trăm năm chầu chực

Như thuở nào, lại sợ Phá Tam Giang

Lúc nào cũng cách ngăn, cản trở đôi đàng

Muốn thông thương, phải bào mòn trí lực

Vì suối, nguồn lượn lờ uốn khúc

Vì sặc, nứa chằng chịt bao quanh

Nên ngăn che gió mát trong lành

Cùng gian khổ, và chưa trọn tình vui hưởng

Hãy ngược dòng tận nguồn dẫn thượng

Hãy xuôi dòng cuối ngọn ra khơi

Lắng nghe tiếng nói không lời

Vỗ về sông nước đầy vơi đôi bờ

Lắng nghe tiếng nói xa mơ

Dòng sông chỉ một, đôi bờ nhớ thương.

 

Tiếng hát Việt Nam muôn đời

 Tháng 3-2006

 

 

 Rằng non nước Việt năm ngàn

Của giòng Hồng Lạc da vàng Rồng Tiên

 Rằng non nước Việt ba Miền

Giang sơn gấm vóc hồn thiêng muôn đời

 Rằng người dân Việt ta ơi

Nhớ về nguồn cội nơi nơi tôn thờ

 Nhớ từ lập quốc dựng cờ

Mở mang xây dựng cơ đồ Việt Nam

 Nhớ từ nguồn cội Văn Lang

Kinh bao thời đại huy hoàng đến nay

 Ân thâm tiên liệt cao dày

Cháu con kế nghiệp không thay đổi lòng

 Nối liền lịch sử một dòng

Nối liền một dãi hình cong cơ đồ

 Trong, thời gìn giữ điểm tô

Ngoài, thời giao hảo hải hồ bốn phương

 Hiên ngang, lẫm liệt, đường đường

Tinh anh, khí tiết, chân phương sáng ngời

 Quê hương, đất nước ta ơi

Dâng cao tiếng hát muôn đời Việt Nam.

 

Một Nhà Việt Nam

 Tháng 12 - 2006

 

 Đồng bào hai tiếng nói ra

Đồng chung một bọc, đồng là anh em

 Đồng hương hai tiếng quen quen

Đồng lân xứ sở, đồng len nặng tình

 Khởi từ huyền sử uy linh

Năm ngàn năm đã quyện mình hồn thiêng

 Khởi từ giòng giống Rồng Tiên

Mở mang trùm khắp ba miền Việt Nam

 Ngược lên nguồn cội vẹn toàn

Xuôi về hậu tấn sắt son mặn nồng

 Ngược dòng Tiên Tổ Cha Ông

Xuôi dòng kế thế cháu con lưu truyền

 Khi thời mâu-thuẫn-trống-chiêng

Khi thời hát hội-đoàn viên-thái bình

 Vẽ thêm nét sử đan thanh

Vẽ thêm dấu ngọc xinh xinh quê mình

 Đồng hương hai tiếng nặng tình

Đồng bào hai tiếng như mình với ta

 Mở vòng tay lớn hoan ca

Nghe lòng chan chứa một nhà Việt Nam.

 

Quê hương tình tự muôn đời

 

Tiếng quê hương, trăm thương ngàn nhớ

Tiếng Lạc Hồng, muôn thuở không phai

Tiếng Việt Nam, gấm vóc hoa cài

Tiếng dân tộc, lung linh tình tự

 

Năm ngàn năm, trao nhau gìn giữ

Trải bao đời, kế thế dựng xây

Và truyền lưu đến tận ngàn sau

Mảnh dư đồ, non sông nước Việt

 

Đây, quê hương thắm thiết

Đây, tình quê đậm đà

Thái Bình bắc nhịp đi qua

Cửu Long chín khúc, Hồng Hà dặm soi

Đồng Nai, sóng vỗ ru hời

Trường Sơn ấp ủ ngỏ lời Biển Đông

 

Bông lúa chín thơm thơm mùa mới

Cánh đồng vàng toa tỏa ngát hương

Tình quê reo khắp nẻo đường

Ta đi từng bước vương vương nỗi niềm

Quê hương một dải Ba Miền

Việt Nam sông núi, hồn thiêng muôn đời.

 

Tháng 2 – 2007

 

Tình tự nâng niu

 Tháng 3 – 2007

 

Quê hương tôi cằn khô sỏi đá

Nóng oi bức trên đầu xanh lá mạ

Cháy điêu tàn làm sạm lúa sữa non

Nên lớn lên, trông gai góc, cõi còm

Thành một con người chai sần, rắn rỏi

 

Đốt đèn mờ dưới mái tranh vũng tối

Mang ngu ngơ để đọc truyện thánh hiền

Mang cần cù để đập dũa truân chuyên

Nên vóc dáng, trông gian lao chịu đựng

 

Đất sỏi đá, từ bước đi chập chững

Nét tàn khô, dẫn lối nẻo vào ra

Thuở còn xanh đã nếm vị trầm kha

Nên tuổi già, cội cằn phơi gốc trắng

 

Mái tranh nghèo, sau hè rau đắng

Bên bờ ao, mấy ngọn rau cay

Con đường quê, đan kết cỏ may

Dòng sông nhỏ, lở bồi bến cát

 

Quê tôi đó vẫn hằn sâu xào xạc

Mảnh tình quê man mác vẫn còn đây

Dù làm gì và đến cuối cuộc đời

Vẫn ôm ấp và nâng niu mãi mãi.

 

Vịnh nước non

 Tháng 3 – 2007

 

Tôi viết bài thơ vịnh nước non

Nước đi ra biển lại lên non

Non chờ góc núi reo hồn nước

Non nước muôn đời vẫn nước non

 

Bao năm, non nước chẳng hao mòn

Nay lở mai bồi nhuận sắt son

Mãi dũa đan thanh thêu gấm ngọc

Khi vuông khi méo lại khi tròn

 

Thời gian mưa nắng dẫu đi qua

Lối cũ đường xưa vẫn đậm đà

Tang hải thương điền treo tuế nguyệt

Rạc rào quốc quốc lại gia gia

 

Vật đổi sao dời dẫu đổi thay

Non xanh nước biếc chẳng lung lay

Một màu lồng lộng mênh mông ấy

Nước gối đầu non mây trắng bay.

 

Chuyển trao từng thế hệ !

 Tháng 3 – 2007

 

Tôi hỏi em,

Nghĩ gì chuyện của một thời quá khứ

Em nói rằng,

Chuyện người lớn, em không biết lắm đâu

Ai biết được khi nước đã chảy qua cầu

Nước chưa đến, còn không biết đường mà đỡ

 

Ngay người lớn, có khi quên khi nhớ

Có khi lầm, lẫn lộn trắng với đen

Có khi phết, có khi tẩy, bớt thêm

Nói như thật, khác nào mò kim đáy nước

 

Nào sông ngân, nào lại cầu ô thước

Nào nam tào, nào bắc đẩu, sao đêm

Chuyện đã qua, khung cửa đã buông rèm

Em biết được, dế mèn phiêu lưu ký

 

Chỉ như thế, cũng đã nhiều ý vị

Mang thì mang, nhiều ít cũng đeo mang

Chứ làm sao biết được đống tro tàn

Tìm vào đó, lửa đã lạnh tanh

Mà bụi mờ bay mù mịt

 

Em chỉ biết xót xa, nhìn rừng già chằng chịc

Còn chúng em, đan kéo giữa rừng non

Và em nghe những tiếng dế nỉ non

Reo réo rắt những đêm khuya hoang lạnh

 

Dòng lịch sử như chiếc xe chuyển bánh

Lội và qua, cán tất cả trên đường

Dù dốc đèo, dù sỏi đá gập ghềnh

Nghe ken két nhiều vết đau, rên rỉ

 

Em nói sơ sơ, tôi cạn nguồn của ý

Xin chúc em cứ sống, cứ bước đi

Mỗi thời qua, dù lưu lại được gì

Cùng trân trọng, chuyển trao từng thế hệ.

 

Ca Vang Đồi Thế Kỷ

Tháng 6 – 2007

 

Những hàng cây nghiêng nghiêng bên bờ suối

Mỗi ngày lên đổ bóng xuống dòng sông

Nước lăn tăn, đẩy sóng, gợn bềnh bồng

Gió thoang thoảng nhẹ nhàng phơn phớt lá

 

Hoàng hôn đợi, ánh tà dương chưa ngả

Đêm ngập ngừng, trăng vắt mảnh trời xa

Muỗi vo ve, hòa lẫn tiếng ngân nga

Mọi sinh vật về đêm đồng trổi khúc

 

Thức canh trường, nặng lòng con quốc quốc

Vọng hồn quê, trĩu gánh cái gia gia

Giang là sông, sơn là núi, tụ sơn hà

Căn là gốc, cội là nguồn, thêu cẩm tú

 

Mở mắt chào đời, nơi chôn nhau cắt rốn

Mảnh hình hài, mang vóc dáng mẹ cha

Từ mẹ cha, ngược lên nữa, ngàn xưa

Ta bắt gặp thuở khơi dòng Tiên Tổ

 

Cảm ơn nghe, hàng cây bên bờ suối

Cảm ơn nghe, bóng đổ xuống dòng sông

Quốc quốc, gia gia, lòng những dặn lòng

Nghe tiếng gọi, nhớ hồn thiêng non nước

 

Từng thế hệ trao nhau lần dấn bước

Con đường dài reo khúc nhạc quê hương

Hát vang lên trên khắp vạn nẻo đường

Con cháu Việt, giống Rồng Tiên muôn thuở

 

Cha Long Quân, gối đầu, ngàn thương nhớ

Mẹ Âu Cơ, ôm tay, vạn yêu thương

Trăng sáng soi ngàn vạn lý tỏ tường

Chim Hồng Lạc ca vang đồi thế kỷ.

 

Sóng vỗ đôi bờ

Tháng 7 – 2007

 

Hai bờ đại dương

Hai mảnh tinh cầu

Một cõi quê nhà, đành đoạn chìm sâu

Đâu rồi, nơi cắt rốn chôn nhau

Đâu rồi, nơi quê cha đất tổ

Mang thân phận, tha phương khách thổ

Kiếp lưu đày, mờ mịt trùng khơi

Quê cha, lời nói nghẹn lời

Đất mẹ, se thắt da mồi tóc sương

Dấu mờ, khép kín quê hương

Bờ rêu thấm lạnh, nhớ thương lên màu

Xa xa nhìn mấy nhịp cầu

Biển khơi sóng vỗ, chìm sâu muôn trùng

10 năm, chưa có điểm cuối cùng

20 năm, chưa băng qua điểm mốc

30 năm, thuyền viễn xứ vẫn phiêu du

Mỗi năm, qua một mùa thu

Ba mươi năm đã mấy thu lá vàng

Lá nào theo gió bay ngang

Lá nào vùi dập bên đàng rêu xanh

Tâm can vướng nhện tơ mành

Đoạn trường mấy khúc treo cành tàn khô

Hồn ai thổn thức dưới mồ

Hồn ai khắc khoải trên bờ ly tan

Đường kia, kinh tuyến băng ngang

Đường này, vĩ tuyến bẽ bàng biển dâu

Quê người không có mưa ngâu

Mà sao thấm cả thịt thau da gầy

Quê người không có mưa bay

Mà sao thấm cả nỗi này tình kia

Dòng sông mấy khúc phân chia

Núi non mấy nẻo xa lìa sơn khê

Còn đâu là lối đi về

Còn đâu là lối lê thê dặm trường

Tiếng quê hương, gởi lên đồi gió hú

Tiếng tự tình, gởi xuống hố tịch băng

Bóng thời gian mờ sương gió rêu phong

Bóng không gian giữa đôi bờ sóng vỗ.

 

Dậy sóng thi thơ

Tháng 9 – 2007

 

Trường giang dậy sóng thi thơ

Lăn tăn mây nước đôi bờ trào dâng

Thi thơ cuồn cuộn gieo vần

Khi cao cao vút, khi trầm trầm sâu

Dòng sông qua mấy nhịp cầu

Nước trôi mấy khúc sắc màu thời gian

Chơi vơi trên đỉnh ngút ngàn

Hững hờ cuối ngọn bẽ bàng thế nhân

Thi thơ bụi gió phong trần

Tan hoang bến cát, nát phần bờ lau

Ði qua lối mới, nghe đau

Ði về đường cũ, biển dâu nghe buồn

Tròn đâu, mà hỏi chi vuông

Cội đâu, mà hỏi chi nguồn khởi đi

Chữ VONG ơi, nghĩa là gì

Chữ PHI ơi, nghĩa là chi, tư lường

Vật vờ nhân ảnh vét mương

danh giả tướng be đường đeo gông

Phân chia, đố kỵ gieo trồng

Kết bè, rẽ phái tréo tròng lên nhau

Trường giang bèo bọt lêu bêu

Bèo trôi cuối bến, bọt trêu đầu ghềnh

Trường giang mây nước lênh đênh

Thi thơ dậy sóng ê mình trường giang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1399)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen,
(Xem: 1382)
Trong những bài thuyết pháp, Lục Tổ Huệ Năng nói nhiều đến thấy tánh, trí huệ Bát nhã… nhưng ngài cũng nói nhiều đến ...
(Xem: 2217)
Tôi là dòng suối nhỏ Reo ca dưới mặt trời Uốn mình qua rừng vắng Lòng cuộn lá thu rơi.
(Xem: 3065)
Khi Phật giáo lần đầu du nhập vào Trung Quốc, những người nắm giữ quyền lực không chỉ dần tin và thực hành theo Phật giáo mà họ cũng cố gắng kiểm soát nó.
(Xem: 3174)
Phật giáo Tây Tạng đã trải qua những thời kỳ thăng trầm gắn với những biến cố lịch sử làm thay đổi đời sống con người và xã hội.
(Xem: 4415)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình.
(Xem: 5109)
Đông đã qua rồi xuân ở đây Vườn xuân hoa nở nắng xuân đầy Xuân tâm rạng chiếu mầm xuân dậy Ánh nguyệt ngời soi tuệ nghiệp xây
(Xem: 3827)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải…
(Xem: 2484)
Cầu cho Nước Mỹ an lành, Hùng mạnh bác ái dẫn đầu Năm Châu, Tự Do lan tỏa địa cầu, Nhân dân hạnh phúc, yên an, thái bình...
(Xem: 3529)
Nơi thành Xá Vệ xưa kia Vợ chồng nhà nọ rất chi là giàu Vì cha ông họ từ lâu Chết đi để lại đời sau gia tài.
(Xem: 4380)
Bốn người bạn thuở xa xưa Môn sinh trường học trầm tư vùng này Cùng nhau quán tưởng hàng ngày, Một hôm cam kết từ nay thi tài
(Xem: 3900)
Gia đình điền chủ thời xưa Có con trai nọ mới vừa sinh ra Đẹp lòng mẹ, hài lòng cha Khi chàng khôn lớn cả nhà vui tươi.
(Xem: 3722)
Bốn chín ngày đêm nhập định thiền Kiết già phu tọa cạnh bờ thiêng Thân tâm khế hợp điều hơi thở Ý tứ hài hoà quán pháp duyên
(Xem: 3621)
Thành Xá Vệ nước Ấn xưa Có ông trưởng giả rất ư là giàu Tính tình hào hiệp từ lâu Sẵn lòng bố thí trước sau mọi nhà
(Xem: 3894)
Thiền sư cất túp lều tranh Một mình ẩn dật tu hành rừng sâu Thị thành xa lánh từ lâu Tâm hồn thanh thản, đạo mầu kiên trinh.
(Xem: 3599)
Trong vương quốc nọ thuở xưa Có chàng hoàng tử mới vừa sinh ra Vua cha cùng với hoàng gia Đón mừng quý tử thật là vui tươi,
(Xem: 3309)
Nắng chiều rơi rụng ven Sông. Lơ thơ tơ nắng nhuộm hồng bờ vai, Đò chiều cập bến đợi ai ? Mái chèo khắc khoải ngày dài đợi mong...!
(Xem: 4564)
Như Lai lẳng lặng chốn dương trần, Phóng rọi quang từ thoát khổ luân. Hóa giải nhiêu đường qua chín cõi, (**) Soi cùng khắp nẻo ứng ba thân.(*)
(Xem: 4164)
Từ ngày lọt lòng mẹ, Tôi biết thở một mình, Thuở bé nằm trong nôi, Tôi biết khóc gọi mẹ.
(Xem: 3650)
Ngày xưa ở tại nước kia Có bà goá phụ Đề Vi rất giàu Chồng thời chết đã từ lâu Lại không con cái, u sầu mãi thôi
(Xem: 3563)
Trong vương quốc nọ thuở xưa Có chàng hoàng tử mới vừa sinh ra Vua cha cùng với hoàng gia Đón mừng quý tử thật là vui tươi,
(Xem: 3690)
Thực tại được biết chắc sau này Của những gì trước đây được tưởng tượng bởi vô minh
(Xem: 4164)
Đêm tịnh huệ tọa thiền thu huyền mộng Giữa biển đời sóng dội gió bão giông! Hồn vũ trụ ngân vang khuya thạch động Hạt cát reo theo thế giới đại đồng...
(Xem: 3575)
Lái buôn tên gọi Tàu Dư Mỗi năm gần Tết thường ưa mang hàng Đi xa, đến một xóm làng Bán buôn quen biết đã hằng bao năm
(Xem: 6697)
Thuở xưa đức Quán Thế Âm Chọn nơi đây chốn sơn lâm tuyệt vời Mở mang Phật pháp giúp đời Đạo tràng xây dựng cho người tu tâm,
(Xem: 4079)
Ngày xưa ở một ngôi làng Nhiều người có của giàu sang vô cùng Ông kia giàu nhất trong vùng Có nhiều vàng bạc chứa trong nhà mình.
(Xem: 3388)
Ngày xưa ở một ngôi chùa Trụ trì là một thiền sư lâu đời Thầy tu từ thuở thiếu thời Cùng ngày với chú heo nuôi trong chùa
(Xem: 3495)
Người ta kể chuyện ngày xưa Có người trông giống thầy tu vô cùng Cột đầu, bện tóc, hở lưng Mặc đồ rách rưới, sống vùng hoang vu
(Xem: 3605)
Ngày xưa ở tại nông thôn Có gia đình nọ sống luôn thuận hòa Nuôi hai bò trong trại nhà Lông màu hung đỏ, mượt mà, dịu êm
(Xem: 3489)
Lời quê một chút gọi là, Ân sư - hiền mẫu - sơn hà sáng soi
(Xem: 4239)
Xin gửi tặng độc giả xa gần hai bài thơ của nữ thi sĩ người Mỹ Louise Glück (1943-), vừa đoạt giải Nobel Văn chương, ngày thứ năm vừa qua, 08.10.20.
(Xem: 4361)
Sống ĐẠO vui đời có áng THƠ, Tâm bình học ĐẠO chảy dòng THƠ. THƠ hay nguyện lớn, cần nương ĐẠO, ĐẠO cả rộng bàn, dựa ý THƠ.
(Xem: 4391)
Trước bàn thờ Phật trang nghiêm Đèn hay nến thắp sáng lên ánh hồng Con thầm cầu nguyện trong lòng Mong sao giác ngộ, thoát vòng u mê
(Xem: 3741)
Giòng sông nào đưa ta về tĩnh lặng? Cơn gió nào thổi cuốn não phiền đi? Cỏ và cây in dấu bước chân đi, Ngồi nơi đây, trú an trong tỉnh thức.
(Xem: 4821)
Pháp Phật viên dung vạn cõi hòa, Người trời liễu ngộ, lặng niềm ca. Tu chơn phá động qui đường chánh, Niệm ảo ghiền tham đến nẻo tà.
(Xem: 4227)
A Na Luật được sinh ra Ở trong vương tộc rất là nổi danh Thật thà, hoạt bát, thông minh Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông
(Xem: 6656)
Ở bên sườn núi thuở xưa Có ngôi chùa nhỏ với sư rất già Lông mày sư tựa tuyết pha Chòm râu cước trắng mượt mà đẹp thay,
(Xem: 5424)
Trong ngôi thiền viện thuở xưa Đứng đầu là một thiền sư lâu đời Lìa trần tuổi chín mươi hai Danh ngài viện chủ khó ai sánh cùng,
(Xem: 4018)
Ni cô quyết chí tu hành Cầu tìm giác ngộ lòng thành thiết tha Nên cô nhờ thợ tạc ra Một pho tượng Phật thật là uy nghi
(Xem: 6866)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn - Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn
(Xem: 4012)
Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa Có hoàng tử nọ khi vừa sinh ra Tin lành tràn ngập quốc gia Vua, hoàng hậu với muôn nhà mừng vui,
(Xem: 5579)
Miền Nam Ấn Độ một thời Cách thành Vương Xá chỉ vài dặm thôi Quê hương đó chính là nơi Thầy Xá Lợi Phất ra đời thuở xưa,
(Xem: 4337)
Một chiếc nệm trắng tinh, Nếu chân bạn lấm lem. Mà bạn leo lên đó, Thì nệm cũng trở thành một tấm bùn nhơ.
(Xem: 4260)
Dù ta không có bạc tiền Vẫn còn bảy thứ để đem tặng người.
(Xem: 4297)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 3846)
Đây lời Phật dạy lâu rồi: "Ta xem chức tước, thứ ngôi trên đời Của hàng vua chúa mọi thời
(Xem: 4355)
Có chàng chiến sỹ thuở xưa Tìm qua thăm hỏi thiền sư một lời: "Thiên đường, địa ngục đôi nơi Thực chăng hay chỉ nói chơi đặt bày?"
(Xem: 3872)
Thuở xưa có một thanh niên Rất là hiếu thảo khắp miền biết danh Là con một, đã trưởng thành Nhưng chưa chịu lập gia đình với ai
(Xem: 3968)
Có ông lãnh chúa vùng kia Một hôm cho thuộc hạ đi triệu mời Thỉnh hai vị khách tới chơi Hai thiền sư nọ là người tiếng tăm.
(Xem: 4375)
Anh chàng Đại Lãng thuở xưa Có tài đô vật rất ư tuyệt vời Lại thêm sức mạnh hơn người, Khi trong nội bộ ngay nơi viện nhà
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant