Không Sầu Không Vui
Nguyên Siêu
Trong
cuộc sống hằng ngày, bình thường con người chúng ta ai cũng bị vướng vào một
trong hai trạng thái buồn vui. Khi được việc, có nghĩa là thành công trên mọi
bình diện - có thể là công ăn việc làm; có thể là học vấn đổ đạt; có thể là may
mắn nhiều vận tốt... thì con người vô cùng hoan hỷ, tự thỏa mãn với điều mình
đã thành tựu. Tự mình khoe khoan, và dường như niềm vui bất tận. Trong những giờ
phút này thấy lòng nhẹ nhàng, nhìn đâu cũng thấy cảnh đời tươi đẹp. Sức sống tràng
đầy từ nội tâm đến ngoại cảnh. Từ khung cảnh gia đình đến môi trường xã hội,
đâu đâu cũng đáng thương đáng mến. Thật là một hương vị thơm tho của đời đã ưu
ái, dành riêng cho mình, và do vậy, lòng người mở rộng, tận hưởng hương vị
thanh tao của đời. Từ giá trị này, con người có thể có cái nhìn lạc quan, dễ
dãi và nhiều kỳ vọng trong ý nghĩa sống. Một niềm vui hiện hữu.
Trạng thái thứ hai đó là nỗi buồn. Sự u sầu có thể đến từ mọi phía. Sự thất bại trên trường đời; kém phần may mắn trong công việc. Thiếu tiền bạc tiêu dùng. Tự thân gặp nhiều khốn đốn, và cuối cùng một nỗi đau thương đầy ấp tâm tư. Từ những sự kiện này, con người không tìm đâu ra sự bình an, hạnh phúc của lòng, mà lúc nào cũng có mặc cảm đau thương, nhìn đời bằng cặp mắt áo não, thiếu tự tin và bất mãn. Niềm đau hay nỗi sầu đã làm con người thối chí mà vây quanh cuộc sống như những bóng đen đã đánh mất tất cả những gì tốt đẹp và đáng quí.
Hai tâm trạng trên đã làm suy sụp thực sự một đời sống khách quan, tự nhiên của con người. Nếu là một tâm trạng mừng vui trong sự thành công thái quá sẽ làm cho con người phát sinh tâm tự mãn mà khinh đời. Và từ tâm lý đó khiến chúng ta dễ dàng chuốt lấy đau thương nhiều hơn là sự vui đã có. Và cũng vậy, nỗi u sầu là sự trầm nịch của tâm lý sa đọa mà chẳng thể tự tin để vươn lên. Như vậy, một tâm lý hoan lạc, vui tươi, tự thỏa mãn với những gì mình đã được và một tâm lý chán chường, đổ vỡ với cái mà mình đã bị mất. Qua hai tâm trạng này, Kinh Kakudha, Đức Phật đã dạy:
"Rồi Thiên tử Kakudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chiếu sáng toàn khu rừng Anjana, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đãnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, Thiên tử Kakudha bạch:
- Thưa Đức Thế Tôn, Ngài có hoan hỷ không?
- Như Lai có được cái gì, này Hiền giả, mà Như Lai hoan hỷ?
- Nếu vậy, thưa Thế Tôn, có phải Thế Tôn sầu muộn?
- Cái gì bị già yếu, Như Lai đâu mất cái gì, này Hiền giả, mà Như Lai sầu muộn?
- Vậy thì, thưa Thế Tôn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
- Thật vậy, này Hiền giả, Như Lai không hoan hỷ cũng không sầu muộn. Như Lai giữ tâm định tĩnh.
... Hoan hỷ chỉ có đến
Với người tâm sầu muộn
Sầu muộn chỉ có đến
Với người tâm hoan hỷ
Do vậy người tu tập
Không hoan hỷ sầu muộn
Vậy nên, này hiền giả
Người phải biết như vậy."
Trên bước đường tu tập, người thực hành giáo pháp lấy đó làm kim chỉ nam cho chính mình, ly khai hai phạm trù tâm thức quá sầu muộn và nhiều hoan lạc. Vì sự biến chuyển của tâm; vô thường trong từng sát na, tâm của người nhiều niềm vui, nhưng không có nghĩa là miên viễn. Từng chập tâm nối lại, khi buồn lúc vui, cho ta thấy hành tướng của tâm có lúc sanh lúc diệt. Vậy, khi niềm vui được sanh khởi, thì ta thấy đời dễ thương, nhưng khi sự sầu muộn hiện hữu thì ta lại bi quan muốn xa lánh. Cho nên sự vui mừng chỉ có với người tâm phiền muộn và ngược lại. Con người mà tâm được định tĩnh, an nhiên, bất động, thì niềm vui và nỗi buồn bình thường không thể chi phối. Như Đức Thế Tôn, tâm Người Giác Ngộ đã có lời giáo huấn.
Phương pháp giữ tâm cho cân bằng, thanh thản, không lắm sầu muộn, cũng chẳng nhiều lý thú, vui sống là phút giây hiện tại, mà một thời: " Đức Thế Tôn trú giữa chư Thiên Tam Thập Tam Thiên, dưới cây Paricchattaka (Trú độ thọ) trên tảng đá pandukambala (Vô cấu bạch thạch). Tại đây, Thế Tôn nói lên Tổng thuyết và Biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả cho chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên:
"Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động không rung chuyển,
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được
Với đại quân thần chết
Trú như vậy nhiệt tâm
Đêm ngày không mệt mỏi
Xứng gọi Nhứt Dạ Hiền
Bậc an tịnh, trầm lặng".[1]
Giữ tâm được bình an là điều rất cần thiết, dù chúng ta có thực hành lời Phật dạy, để cầu mong được thăng tiến trên con đường giác ngộ giải thoát, hay không thì tâm của một con người tịnh lạc, tươi mát, ít phiền não vẫn là điều tốt đẹp. Tâm hồn thanh thản, tĩnh lặng giúp cho ta sáng suốt trong mọi công việc. Có thể làm việc chín chắn, suy tư được rõ ràng và thấy vấn đề đúng. Nhờ thấy đúng mà có hành xử đúng. Như vậy, kết quả của một tâm hồn trong sáng là nhân tố tiên quyết để có thể thâu đạt được kết quả tốt hay đó chính là giá trị đích thực của lẽ sống nhiều ý nghĩa. Bằng ngược lại, khi mà tâm hồn u tối vì quá đau thương, thì lý trí không còn sáng suốt nữa, có thể đưa đến một kết quả khó lường khi lòng quá sầu muộn. Đây là điều kiện xấu, gây ảnh hưởng trầm trọng từ tinh thần đến thân xác. Như câu chuyện thương tâm của một người mẹ chỉ có một đứa con độc nhất. Vì chỉ có một đứa con độc nhất, nên sự sống của con có thể nói là sự sống của mẹ, cái cười của con, tiếng nói, cái nhìn tất cả đều là niềm vui, là hạnh phúc của mẹ. Đó là tình thương yêu được gầy dựng, bồi đắp một tương lai huy hoàng cho con. Là ý niệm sống để bảo tồn một hy vọng. Nhưng kém phần may mắn, đứa con độc nhất của mẹ vội lìa đời. Hình ảnh đứa con chết, như bóp nát trái tim của mẹ, như cướp đi sự sống của mẹ và có thể nói trên đời này không còn điều gì có giá trị đối với mẹ nữa.
Vì quá thương con, người mẹ đó đã ôm chặt xác đứa con vào lòng, tất tả đi tận đầu làng trên đến cuối xóm dưới, cầu xin tất cả mọi người hãy ra tay cứu đứa con của mẹ. Đầu bù tóc rối, áo quần lấm luốt, mẹ chẳng hề để ý, chỉ một lòng sầu muộn và những mong con mình được sống lại. Nhưng mọi người đều bất lực trước cái chết. Có người thấy vậy liền giới thiệu đến Đức Thế Tôn, Ngài có thể cứu sống được. Chỉ thoáng nghe qua con mình có người cứu sống lại, là như một mãnh lực vô hình, một sức mạnh xốc dậy, làm tươi tĩnh tâm tư và hi vọng sống tràn đầy như núi xanh, biển biếc. Người mẹ ôm chặt con vào lòng chạy thẳng đến tinh xá Kỳ Viên, nơi Đức Phật trú ngụ.
- Bạch Đức Thế Tôn, bậc giác ngộ, hãy dũ lòng từ bi, ra tay cứu sống đứa con độc nhất của con.
- Này nữ cư sỹ, đứa con của người vì sao chết.
- Bạch Đức Thế Tôn, qua một đêm mưa gió, và chính ngay trong đêm đó, thần chết đã cướp đứa con yêu quí nhất đời con. Con chẳng thể sống được nữa nếu thiếu đứa con yêu quí này.
- Này nữ cư sỹ, người có thể đi đến bất cứ nhà nào xin cho Như Lai một nắm tro hương của nhà chưa có người chết, Như Lai có thể cứu sống con nàng.
Không phân vân, chẳng suy nghĩ, người mẹ liền đặt đứa con tại chỗ, rồi vội vàng chạy đến từng nhà một, hết con đường này, sang qua đường khác hầu như nhà nào cũng trả lời, khi được hỏi xin một nắm tro hương trên bàn thờ mà chưa có một người trong gia đình đó đã qua đời.
- Thưa chị, nhà tôi đã có người chết và lư hương trên bàn thờ là ông bà tổ tiên của tôi là cha mẹ tôi, là con cháu tôi.
Dường như vô vọng và quá mỏi mệt, người mẹ quay về với xác đứa con, đang im lìm, bất động trước mặt Đức Thế Tôn.
- Bạch Đức Thế Tôn, con đã tìm và hỏi xin tất cả xóm làng nơi đây, chẳng có một nhà nào mà không có người chết. Hoặc là ông bà nội ngoại, cha mẹ bằng hữu... Tất cả đều có người đã chết.
- Này nữ cư sỹ, sự chết là giai đoạn cuối cùng của bốn tướng: Sanh, lão, bịnh, tử. Vậy người có sanh ta thì tất có chết đi, bất luận già trẻ lớn bé. Đó là định luật vô thường của kiếp người từ quá khứ đến hiện tại cũng như mãi trong tương lai, chẳng một ai tránh khỏi...
Qua bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn, người mẹ, tâm sầu muộn được vơi đi, và thấu hiểu được lẽ huyễn hóa của kiếp người như sương mai, như điện chớp, như gió thổi mây tan, tâm tỉnh ngộ, bừng sáng mà thấy đời như huyễn, như mộng, chóng tan, nhiều đổ vỡ, dù cái đó mình muốn bảo tồn, duy trì cũng không được. Đó là thực chất của sự vật, mà con người cũng không ngoài luật tắc đó.
Tâm người mẹ được tĩnh lặng, bình an và hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giác ngộ, giải thoát.
Trong đời sống này, nếu không có lời Người Giác Ngộ, Người không còn ở trong vòng sanh tử luân hồi, để thấy thật tướng của luân hồi sanh tử mà giảng dạy, hướng dẫn cho bao nhiêu tâm hồn quá vui và nhiều sầu muộn, thì ai biết đâu là bến bờ tử sinh và đâu là thuyền từ bến giác, để được trú tâm tịnh lự, là nỗi bình an của hương giáo pháp.
[1] Kinh Trung Bộ. Kinh Lomasakangiya Nhứt Da Hiền Giả. Trang 469, 1992.