Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn tâm vô lượng

19 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13381)
Bốn tâm vô lượng

Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ cho chúng sanh cũng đạt được như mình của chư Phật và Bồ-tát.
Bốn loại tâm thức cao thượng rộng lớn không lường này, có được nhờ vào sự đạt định của hành giả trong khi tu tập phát sinh khi các thứ phiền não vô minh vọng động được lắng trong. Bốn phạm trù tâm thức này chúng tùy thuộc vào thuộc tính của căn cơ của hành giả mà có những tên khác nhau như: Bốn Phạm trú (catur-brahmavihāra), khi hành giả thực hành Bốn phạm trú, thì hành giả sẽ tái sinh tại cõi Trời (deva) theo luật tắc nhân quả tương đối của nhị thừa bị giới hạn. Theo Tăng nhất A-hàm 21 thì, hành giả tu Bốn Phạm trú sẽ vượt qua được trời Dục giới mà trụ vào Phạm xứ, cho nên Bốn vô lượng còn gọi là Tứ Phạm đường, Tứ Phạm xứ, Tứ phạm hạnh. Vì thuyết Tứ Phạm đườngliên hệ đến chủ trương của các ngoại đạo Bà-la-môn như trong kinh Tạp A-hàm 27 ghi lại, các ngoại đạo cũng có thuyết về pháp này, nhưng đức Đạo sư chuyển dụng như là pháp của riêng mình trong việc thể hiện lòng từ bi hỷ xả theo quan điểm của Ngài trong chỉ ác hành thiện qua pháp tu thiền định cho các đệ tử của Ngài như Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ đức Đạo sư dạy: 

A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn vô lượng, Tỳ-kheo tâm đi đôi với từ biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. Bi và hỷ cũng vậy. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. A-nan, bốn vô lượng này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu ông nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn vô lượng này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.” 

Cũng theo Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ và Đại Trí Độ luận 20 giải thích thuyết A-tỳ-đàm về Bốn vô lượng như sau: Một, duyên vào vô lượng chúng sanh, tư duy khiến cho họ được pháp vui mà nhập “Từ đẳng chí” gọi là Từ vô lượng. Hai, duyên vào vô lượng chúng sanh, tư duy khiến cho họ lìa pháp khổ, mà nhập “Bi đẳng chí” gọi là Bi vô lượng. Ba, tư duy vô lượng chúng sanh thường lìa khổ được vui; thâm cảm vui thích ở trong tâm, mà nhập vào “Hỷ đẳng chí”, gọi là Hỷ vô lượng. Bốn, tư duy vô lượng chúng sanh tất cả đều bình đẳng, không có bất cứ sai biệt giữa oán và thân, mà nhập vào “Xả vô lượng”, gọi là Xả vô lượng

Theo Câu Xá luận 29 thì, từ vô lương có ba nghĩa: Một, lấy chúng sanh vô lượng làm chỗ duyên cho bốn tâm này. Hai, bốn tâm này có khả năng dẫn đến phước vô lượng. Ba, bốn tâm này có khả năng chiêu cảm quả báo vô lượng và, cũng theo Câu Xá luận 29 thuyết minh thì bốn vô lượng này dùng để đối trị bốn chướng: Dùng từ vô lượng đối trị sân, dùng bi vô lượng đối trị với hại, dùng hỷ vô lượng đối trị không an vui, dùng xả vô lượng đối trị tham sân dục giới. Đại thừa thì gọi là Bốn tâm vô lượng (Skt: catur-apramāṇavihāra; Pāli: catur-appamañña-vihāra), có nơi còn gọi là Tứ đẳng tâm, Tứ đẳng, Tứ tâm.

Bốn Phạm trú, hay Bốn vô lượng là: 

Từ vô lượng (Skt: maitrī-apramāṇa, Pāli: metta appamaññā). 
Bi vô lượng (Skt: karuṇāpramāṇa. Pāli: karuṇā appamaññā). 
Hỳ vô lượng (Skt: muditāpramāṇa, Pāli: muditā appamaññā). 
Xả vô lượng (Skt: upeksāpramāṇa, Pāli: upekkhā appamaññā). 

Bốn phạm trù này dùng để đối trị bốn thứ phiền não đó là tham muốn, sân hận, đố kỵ, buồn lo trong lúc tu tập thiền định và, cũng từ thiền định này tạo điều kiện làm duyên cho bốn tâm thức cao thượng rộng lớn vô lượng phát sinh đối với vô lượng chúng sanh. Theo các nhà Đai thừa thì Bốn phạm trú của Tiểu thừa cũng được gọi là hạnh Ba-la-mật (pāramitā). Ðó là tâm thức của chư Phật và Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh trong việc ban vui cứu khổ. Vì tính đặc thù vô lượng (Skt: apramāṇa;Pāli: appamaññā), nên bốn phạm trù này thường được sừ dụng trong việc thực hành Bồ-tát đạo ban vui cứu khổ là chính. 

1. TỪ VÔ LƯỢNG (maitrī-apramāṇa, metta appamaññā), đây là phạm trù của trạng thái tâm thức thứ nhất đó là lòng Từ, Sanskrit ngữ maitry, hay Pāli ngữ metta đều có nghĩa là êm dịu, là tấm lòng người bạn tốt, hay được định nghĩa là lòng thành thật mong cho tất cả chúng sanh có cuộc sống an lành hạnh phúc, là mong muốn bạn bè mình được an vui hạnh phúc, là lòng mong muốn giúp đỡ mang đến cho mọi người an vui hạnh phúc cho hết thảy, không phân biệt là kẻ sơ người thân nào khi thấy họ khổ. Đó là tâm lượng cao thượng vô hạn đầu của bốn vô lượng được đức Đạo sư dạy cho đệ tử của mình dùng nó trong việc tự lợilợi tha vừa để đối trị những phiền não sân hận nhỏ nhen cục bộ, vừa đem cái vui cái hạnh phúc lại cho người khác. Đức Đạo sư dạy: 

Tỳ-kheo tâm đi đôi với từ biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.” (Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ). 

nơi khác trong các kinh đức Dạo sư cũng dạy về tâm Từ vô lượng, nhưng lại sâu rộng hơn kīnh trước. Đây chính là pháp phương tiện tùy thuộc vào căn cơ chúng sanh mà Ngài khai thị, do đó cũng là đề tài Bốn tâm vô lượng nhưng sự thể hiện qua cách dụng ngữ và nội dung cũng sâu rông hơn tuy rằng ý nghĩa không khác:

Bấy giờ các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, thế nào là tâm Từ vô lượng?

“Phật dạy:

“Là đối với mọi lúc mọi nơi, tâm Từ luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh, không tổn hại người khác; xa lìa các oán kết, đem tâm rộng lớn chỉ bày cho chúng sanh, thương nhớ cứu hộ như con đỏ của chính mình; đối với kẻ oán người thân bình đẳng không khác nhau, khiến cho họ dứt trừ triền cái, giải thoát tất cả. Như vậy gọi là tâm Từ vô lượng.” (Phật nói kinh nghĩa Pháp thừa quyết định, quyển thượng)

2. BI VÔ LƯỢNG (karuṇāpramāṇa, karuṇā appamaññā) đây là phạm trù trạng thái tâm thức thứ hai, đó là lòng Bi, Sanskrit ngữ karuṇā, hay Pāli ngữ karuṇā, giống nhau trên cách viết và nghĩa của chúng cũng đồng, là lòng mong muốn giúp cho người khác thoát khổ, là sự xoa dịu làm giảm đi, làm vơi đi sự đau khổ sầu não của người khác, là động cơ thúc đẩy tâm mình rung động trước sự đau khổ của người khác, tạo điều kiện cho người khác lìa khổ. Đó là tâm lượng cao thượng vô hạn thứ hai của bốn vô lượng được đức Đạo sư dạy cho đệ tử của mình dùng nó trong việc tự lợilợi tha vừa để đối trị những phiền não tàn hại vừa tạo cho người khác mọi điều kiện đề xa lìa khổ đau cho người khác. 

Đức Đạo sư dạy: “Tỳ-kheo tâm đi đôi với Bi biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với Bi, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.” (Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ). 

Cũng như tâm Từ đức Đạo sư đã dạy cho các Tỳ-kheo như trên, ở đây tâm Bi cũng vậy:

Bấy giờ các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, thế nào là tâm Bi vô lượng?

“Phật dạy:

“Là đối với mọi lúc mọi nơi, tâm Bi luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh, không tổn hại người khác; xa lìa các oán kết, đem tâm rộng lớn chỉ bày cho chúng sanh, thương nhớ cứu hộ như con đỏ của chính mình; đối với kẻ oán người thân bình đẳng không khác nhau, khiến cho họ dứt trừ triền cái, giải thoát tất cả. Như vậy gọi là tâm Bi vô lượng.” (Phật nói kinh nghĩa Pháp thừa quyết định, quyển thượng)

3. HỶ VÔ LƯỢNG (muditāpramāṇa, muditā appamaññā), đây là phạm trù trạng thái tâm thức thứ ba, đó là lòng Hỷ, Sanskrit ngữ muditāp, hay Pāli ngữ muditā, chúng có nghĩa là lòng vui thích ở đây không phải là trạng thái vui thỏa thích suông, cũng không phải là tình cảm riêng dành cho một người nào mà chúng thể hiện tâm hoan hỷ vui thích đối với người khác, trước sự thành công của họ về cuộc sống. Lòng hoan hỷ này phát xuất từ lòng tự nguyện, chúng có chiều hướng loại trừ lòng ganh tỵ, đố kỵ vốn luôn luôn đối lập trực tiếp lại hoan hỷ. Đó là tâm lượng cao thượng vô hạn thứ ba của bốn vô lượng được đức Đạo sư dạy cho đệ tử của mình dùng nó trong việc tự lợilợi tha vừa để đối trị những phiền não tật đố vừa tạo cho người khác mọi khích lệ thúc đẩytán thán cho sự thành tựu người khác cùng, giúp đỡ người khác thiếp tục có những thành công khác nữa trong cuộc sống. 

Đức Đạo sư dạy: “Tỳ-kheo tâm đi đôi với Hỷ biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với Hỷ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.” (Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ). 

Cũng như tâm Từ, tâm Bi đức Đạo sư đã dạy cho các Tỳ-kheo như trên, ở đây tâm Hỷ cũng vậy:

Bấy giờ các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, thế nào là tâm Hỷ vô lượng?

“Phật dạy:

“Là đối với mọi lúc mọi nơi, tâm Hỷ luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh, không tổn hại người khác; xa lìa các oán kết, đem tâm rộng lớn chỉ bày cho chúng sanh, thương nhớ cứu hộ như con đỏ của chính mình; đối với kẻ oán người thân bình đẳng không khác nhau, khiến cho họ dứt trừ triền cái, giải thoát tất cả. Như vậy gọi là tâm Hỷ vô lượng.” (Phật nói kinh nghĩa Pháp thừa quyết định, quyển thượng)

4. XẢ VÔ LƯỢNG (upeksāpramāṇa, upekkhā appamaññā), đây là phạm trù trạng thái tâm thức thứ tư, đó là lòng Xả, Sanskrit ngữ upeksā, hay Pāli ngữ upekkhā, là nhận thức vô tư không luyến ái không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn; là nhận thức chân thật đúng đắn với bản chất của mọi sự vật, không cực đoan nghiêng về bên nào, không vui cũng không buồn, không lệ thuộc vào bất cứ trạng thái nào khiến chúng ta bị lệ thuộc dính mắc, tâm luôn luôn giữ trạng thái bình thản trước mọi sự vật: nào khen chê, được mất, vinh nhục, sướng khổ. Đó là tâm lượng cao thượng vô hạn thứ tư của bốn vô lượng được đức Đạo sư dạy cho đệ tử của mình dùng nó trong việc tự lợilợi tha vừa để đối trị những phiền não tham đắm vừa tạo cho người khác mọi điều kiện nhận thức đúng đắn chân thật về sự vật nằm ngoài mọi sự phân biệt do chấp trước dính mắc sinh ra. 

Đức Đạo sư dạy: “Tỳ-kheo tâm đi đôi với Xả biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với Xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ.” (Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ). 

Cũng như tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ đức Đạo sư đã dạy cho các Tỳ-kheo như trên, ở đây tâm Xả cũng vậy:

Bấy giờ các Tỳ-kheo lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, thế nào là tâm Xả vô lượng?

“Phật dạy:

“Là đối với mọi lúc mọi nơi, tâm xả luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh, không tổn hại người khác; xa lìa các oán kết, đem tâm rộng lớn chỉ bày cho chúng sanh, thương nhớ cứu hộ như con đỏ của chính mình; đối với kẻ oán người thân bình đẳng không khác nhau, khiến cho họ dứt trừ triền cái, giải thoát tất cả. Như vậy gọi là tâm Xả vô lượng.” (Phật nói kinh nghĩa Pháp thừa quyết định, quyển thượng).

I. BỐN TÂM VÔ LƯỢNG THEO QUAN ĐIỂM CÁC NHÀ TIỂU THỪA

Phần trên chúng tôi mới giới thiệu tổng quát về Bốn Tâm vô lượng, dưới đây chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của các bộ phái Phật giáo phát triển sau này mà đại diện hiện tạiTiểu thừaĐại thừa.

Theo các nhà Tiểu thừa thì Bốn tâm vô lượng được đức Đạo sự đem ra dạy rộng rãi cho bốn chúng đệ tử tại giaxuất gia của Ngài và, cũng tùy thuộc vào thuộc tính của hai hàng đệ tử tại giaxuất gia này mà Ngài tuyên dạy cho hợp với căn cơ của họ. Trên căn bản vẫn tùy thuộc vào luật tắc nhân quả để Ngài thuyết minh về pháp chỉ ác hành thiện mong hành giả đạt được những kết quả tốt lành trong nhân thiên qua việc thoát khổ được vui là trọng. Đối với các hành Phật tử cư sĩ tại gia ngoài việc thực hành trì năm giới không cho sai phạm mà còn thực hành trong tự lợi cho chính mình mà còn lợi tha cho tha nhân nữa được phát xuất từ lòng từ có được của chúng ta.

Theo Trường A-hàm 8, kinh Tán-đà-na đức Đạo sư dạy Phạm Chí về cách tu khổ hạnh làm sao gọi là rốt ráo chân thật thù thắng bật nhất. Vì pháp này không có gì cao xa và không tưởng siêu hình mà chính pháp thực tế hằng ngày các Ông thực hành là pháp trói buộc, cấu uế. Nếu những pháp này mà các Ông thực hành ngược lại thì pháp tu khổ hạnh đó sẽ trở nên thanh tịnh, đức Đạo sư nói: 

Này Phạm-chí! Người tu khổ hạnh mà tự mình không giết, không dạy người giết, tự mình không trộm cắp, không dạy người trộm cắp, tự mình không tà dâm, không dạy người tà dâm, tự mình không nói dối, không dạy người nói dối. Người ấy đem tâm từ rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy, từ tâm quảng đại, bình đẳng vô lượng, khắp cả thế gian, không chút oán kết. Bi tâm, hỷ tâm, xả tâm cũng như thế…” 

Ở đây nếu người tu khổ hạnh hay hành giả tại gia nào thực hành được những điều mà đức Dạo sư đã dạy như trên một cách rốt ráo thì trong hiện tại hay tương lai chúng ta se đạt được những kết quả vô cùng to lớn như đức Đạo sư đã dạy tiếp cũng cùng một kinh:

Người khổ hạnh kia lại có thể biết được việc xảy ra vô số kiếp trước, hoặc một đời, hai đời cho đến vô số đời, quốc độ thành hoại hay kiếp số trước sau, đều thấy đều biết cả. Lại còn thấy biết mình từng sanh vào chủng tộc đó, tên tuổi như thế, ăn uống như thế, sống lâu như thế, thọ khổ, thọ lạc như thế, từ kia sanh đây, từ đây sanh kia như thế. Những việc từ vô số kiếp như thế đều nhớ cả… 

“Vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh xem xét các loài chúng sanh chết đây sanh kia, nhan sắc đẹp xấu, chỗ hướng đến tốt hay xấu, tùy theo hành vi mà bị đọa lạc; thảy đều thấy hết biết hết.

“Lại biết chúng sanh với thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện, phỉ báng Hiền Thánh, tà tín điên đảo, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh với thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, không phỉ báng Hiền Thánh, tu hạnh chánh tín, khi thân hoại mệnh chung được sinh vào cõi trời, cõi người. Bằng thiên nhãn thanh tịnh vị ấy xem thấy các chúng sanhhành vi nào sinh tới chỗ nào, đều thấy biết hết. Đó gọi là khổ hạnh thù thắng bậc nhất.

Qua kết quả đã được đức Đạ sư dạy ở trên; nếu hành giả nào đạt được sự tu tập hoàn hảo về phương pháp tu này thì có thể nói là họ đã hoàn thành được hai minh trong ba minh của đức Phật đó là Túc mang minh và thiên nhãn minh. Vì chính họ đã nhờ có Túc mạng minh (pūrva-nivāsānusmṛti-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā) nên thấy được mọi việc trong quá khứ và, Thiên nhãn minh (cyuty-upapatti-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā) nên thấy được mọi việc trong vị laï, đây chỉ là bước đầu của việc thấy biết về quá khứ và tương lai; nhưng việc của Lậu tận minh (āsrava-kṣaya-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā)tức là Lậu tận trí chứng minh họ chưa đạt được. Chỉ khi nào hành giả sau khi thấy xong phải yểm ly xa lìa những hiện tượng có được đó và thành tựu việc yểm ly xa lìa chúng thì lúc đó trí vô lậu giải thoát mới có được và an lạc tịch diệt sẽ hiện hữu, tất cả mọi thứ phiền não hoặc đồng lúc không còn nữa. Đó là những gì đức Đạo sư đã dạy cho Phạm Chí và, dạy cho những hành giả tại gia cách thức thực hành bốn tâm vô lượng kèm với năm giới căn bản của các Phật tử tại gia theo kinh điển Tiểu thừa còn ghi lại. 

Còn các hàng đệ tử xuất gia Thinh Văn Tỳ-kheo thì như trong Tăng Nhất A-hàm 7, phẩm An Ban đức Đạo sư dạy Tôn giả La Vân (Rahula: phiên là La-hầu-la) nhân Tôn giả luôn ôm lòng sầu lo, ngay đến trong lúc đi khất thực không cột được chánh niệm trong bước đi, lòng ưu sầu trói chặt, Thầy đã không giữ được chánh niệm phải bỏ giở cuộc đi khất thực giữa đường trở về Tinh xá Kỳ Hoàn ra ngoài gốc cây, kiết già phu tọa để cột tâm một chỗ, nghĩ về sắc, thọ, tưởng, hành thức là vô thường để đối trị tâm ưu sầu của mình. Trong lúc đó, đức Đạo sư cũng đi khất thực và sau khi thọ trai kinh hành xong đức Phật đến chỗ Tôn giả La Vân, bảo La Vân:

Thầy nên tu tâp và thực hành pháp An Ban; tu tập thực hành pháp này thì sẽ diệt trừ hết được những tư tưởng có được về ưu sầu. Hôm nay Thầy lại đang tu tập và hành ác, biểu lộ qua tưởng bất tịnh, nên trừ diệt hết những tham dục có được. Này La Vân, nay Thầy nên tu tậpthực hành tâm Từ, đã thực hành tâm từ rồi thì những sân nhuế có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Bi, đã thực hành tâm Bi rồi thì tâm não hại có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Hỷ, đã thực hành tâm Hỷ rồi thì tâm tật đố có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Xả, đã thực hành tâm xả rồi thì tính kiêu mạn có được đều sẽ được trừ hết.” 

Bốn tâm vô lượng ở dây được đức Đạo sư đem ra để dạy cho các hàng đệ tử xuất gia của mình với mục đích nhằm đối trị với tâm sân nhuế, hại, tật và kiêu mạn của các Thầy Tỳ-kheo; vì bốn tâm này (là bốn trong mười loại tâm sở thuộc tiểu phiền não trong lục vị tâm sở) làm chướng ngại con đường đưa hành giả đến bến bờ giải thoát. Khi hành giả dùng bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả để đối trị với bốn tâm sở tiểu phiền não, chính là lúc hành giả chánh niệm chánh định trong pháp tu đối trị để thanh tịnh hóa ba nghiệp thân-khẩu-ý cho hành giả ngay trong cuộc sống hiện tại hiện tiền. Đây chính là phương pháp tu tự lợi dành cho các hàng đệ tử xuất gia; nếu Tỳ-kheo nào có những thứ phiền não phù hợp với bốn phương pháp đối trị này thì việc thực hành sẽ mang lại cho hành giả những kết quà tốt đẹp trong việc làm sạch ba nghiệp thân-khẩu-ý. Và để tiến xa hơn nữa trong triển khai sâu rộng hơn trong việc khế cơ cho các hàng Tỳ-kheo có căn cơn bén nhạy hơn trong việc thừa hưởng những pháp vị thậm thâm hơn trong việc vừa tự lợi vừa lợi tha, đức Đạo sư đã hướng dẫn các Tỳ-kheo qua bốn tâm vô lượng, thực hiện hạnh lợi tha không những cho mình và cho kẻ khác ngay trong lúc hành giả thực hiện tự lợi cho mình. Theo Trung A-hàm 21, kinh Thuyết Xứ đức Đạo sư đã dạy Tôn giả A-nan:

A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn vô lượng, Tỳ-kheo tâm đi đôi với từ biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. Bi và hỷ cũng vậy. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. A-nan, bốn vô lượng này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu ông nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn vô lượng này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.” 

Ở đây Tỳ-kheo không những chỉ trải lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả cho chính mình để đối trị những phiền não bệnh mà còn trải lòng từ, bi, hỷ, xả của mình đến tận khắp tất cả thế gian không còn biên giới nữa, không kết oán, không sân nhuế, không tranh dành, khéo léo dàn trải bốn tâm đến vô lượng vô biên không còn ngắn mé, khéo dụng tâm tu tập, thành tựu an trụ. Khi Tỳ-kheo đã thực hiện tâm vô lượng như vậy rồi thì tâm họ sẽ được an ổn, được sức manh, dược mọi sự an lạc. Lúc này thân và tâm Tỳ-kheo không còn phiền não bức bách nữa, nhờ vậy mà trọn đời họ hành phạm hạnh. một cách hoàn hảotrọn vẹn. Chính vì sự lợi ích của viêc thực hành bốn tâm vô lượng như vậy cho nên đức Đạo sư bảo Tôn giả A-nan hãy đem phổ biến rộng rãi dạy lại cho các Tỳ-kheo trẻ nên thực tập thực hành ngay trong cuộc sống cho chính họ. Cũng như Trung A-hàm 21 ở trên theo Tăng Nhất A-hàm 6 thì nội dung của kinh này cũng đồng ý nghĩa với nhau; nhưng trong kinh này chỉ, nêu lên vấn đề khác hơn kinh Trung A-hàm là khi hành giả đệ tử Hiền Thánh khi không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui mà đem tâm từ, tâm bi, tâm, hỷ, tâm xả trang trải khắp cả thế gian, không nơi nào là không đến, với tâm hành giả không oán không hận, vô lượng, vô hạn, không thể ti81nh biết hết được mà tư an trú, đem tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi thì tâm ý hành giả sẽ được chính, cũng có thể gọi là chánh tâm chánh ý hay chánh niệm. Vậy thì khi hành giả đạt được bốn tâm vô lượng trong việc trang trải khắp cả mọi nơi trên thế gian khi không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui thì tâm ý sẽ được chánh niệm như những gì đức Đạo sư đã dạy trong Tăng Nhất A-hàm 6:

Nếu đệ tử Hiền Thánh kia không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui, đem tâm từ trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm từ này rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi, tâm ý liền chính.

“Lại đem tâm bi trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm bi này trang trải đầy khắp, ở trong đó được hoan hỷ rồi, thì tâm ý liền chính.

“Lại đem tâm hỷ trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm hỷ này rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi, tâm ý liền chính.

“Lại đem tâm xả trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm xả này trang trải đầy khắp, ở trong đó được hoan hỷ rồi, thì tâm ý liền chính.”

Ở trên là chúng tôi mới trích một số kinh tiêu biểu trong bốn bộ A-hàm của Tiểu thừa, tiếp theo chúng tôi sẽ cứ cứ vào các bô luận của các nhà Tiểu thừa giải thích về Bốn tâm vô lượng. Theo A-tỳ-đạt-ma phẩm loại túc luận 7 thì Bốn tâm vô lượng này nếu chúng cùng tương ưng với thọ, tưởng hành, thức, hoặc chúng cùng khởi lên với hai nghiệp thân, khẩu hay, chúng cùng khởi lên tâm bất tương ưng hành, thì đó gọi là bốn vô lượng như trong A-tỳ-đạt-ma phẩm loại túc luận đã giải thích:

Thế nào gọi là từ vô lượng? là từ cùng từ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc từ cùng khởi lên nghiệp thân, khẩu, hoặc từ cùng khởi lên tâm bất tương ưng hành, thì đó gọi là từ vô lượng. Thế nào gọi là Bi vô lượng? nghĩa là Bi cùng bi tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nó cùng khởi lên nghiệp thân, khẩu, hoặc nó cùng khởi lên tâm bất tương ưng hành, thì đó gọi là Bi vô lượng. Thế nào gọi là Hỷ vô lượng? Nghĩa là Hỷ cùng Hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nó cùng khởi lên nghiệp thân, khẩu, hay nó cùng khởi lên tâm bất tương ưng hành, thì đó gọi là Hỷ vô lượng. Thế nào gọi là Xả vô lượng? Nghĩa là Xả cùng Xả tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức; hoặc nó cùng khởi lên nghiệp thân, khẩu, hay nó cùng khởi lên tâm bất tương ưng hành, thì đó gọi là Xả vô lượng.” 

Qua cách luận giải về Bốn tâm vô lượng trong A-tỳ-đạt-ma phẩm loại túc luận của Tôn giả Xá-lợi-phất cho chúng ta thấy, đây là một cách giải thích khác đối với các kinh mà chúng tôi đã trích ra về Bốn vô lượng tâm; tuy nhiên nếu chúng ta thông hiểu một cách chính xác hơn về những lời dạy của đức Đạo sư qua các kinh thì chúng ta sẽ thấy cách giải thích này của Tôn giả Xá-lợi-phất không khác gì cách dạy của đức Đạo sư, hơn nữa những lời ghi lại trong A-tỳ-đạt-ma phẩm loai túc luận cũng chính là những lời dạy của đức Đạo sư mà chính Tôn giả đã từng nghe Ngài dạy, nên chỉ ghi lại mà thôi. Vì chính bốn tâm vô lượng khi đem trang trải ra cùng khắp từ tâm cho đến mọi vậthành giả an trụ, thì trong đó có cả thọ tưởng, hành, thức hay, chúng cùng khởi lên với hai nghiệp thân, khẩu hay, cùng khởi lên với tâm bất tương ưng hành cũng đồng ý nghĩa với luận này; tuy trên mặt dụng ngữ cách dùng có khác và đối tượng bốn tâm dàn trải ra có khác. Đây chính là những lời dạy tùy thuộc vào căn cơ, nên việc giải thích khác nhau tùy thuộc vào thuộc tính của chính những pháp đó nhằm vào những đối tượng mà nó cần. Cũng giống như A-tỳ-đạt-ma phẩm loại túc luận, luận thành Thật cũng có cách dụng ngữ khác và đối tượng của bốn tâm dàn trải hướng đến tuy là chúng sanh; nhưng mỗi cách dàn trải đối tượng phải tùy thuộc vào các thuộc tính của chúng, nên ở đây dù cũng dùng bốn vô lượng để đối trị với bốn căn bệnh, nhưng ở đây chú trọng về phần định nghĩa giải thích nhiều hơn, rộng hơn mà thôi. Theo luận Thành Thật thì bốn vô lượng được luận nghĩagiải thích như sau:

Từ, bi, hỷ, xả: Từ là cùng tâm thiện trái nghịch lại với sân, như thiện tri thứcthiện tri thức thường cầu lợi ích và an lạc. Hành giả cũng vậy vì tất cả chúng sanh thường cầu an lạc, cho nên người này cùng với tất cả chúng sanhthiện tri thức

Hỏi tướng trạng thiện tri thức gọi là gì? 

Đáp: Thường tướng của nó là vì mong cầu lợi ích an lạc đời này và đời sau, nên cuối cùng chúng không trái nhau với việc cầu không lợi ích. Hành giả cũng vậy, chỉ vì chúng sanh mà cầu việc lợi ích an lạc chứ không cầu việc phi an lạc. Bi là cùng với tâm từ trái nhau với não, sao vậy? Nó cũng vì chúng sanh cầu an lạc vậy.

Hỏi: Giữa sân và não có sự sai biệt thế nào? 

Đáp: Trong tâm sinh ra niệm sân, muốn đánh đập hại chúng sanh này, thì phải từ sân mà khởi lên nghiệp thân và miệng, đó gọi là não. Hơn nữa, sân là nhân của não, người ôm tâm sân thì thường hành não hại. Hỷ là cùng với tâm từ trái nghịch lại với tật đố (gen ghét). Ghen là thấy tâm hảo sự của người khác không chịu nổi nên sanh ra tật nhuế, còn người tu hành thấy ích sự được tăng cũa tất cả mọi người thì sinh ra vui mừng khôn tả, như tự mình được lợi vậy. 

Hỏi: Cả ba tâm này đều là từ chăng? 

Đáp: chính là ba loại sai biệt phát xuất từ từ tâm. Vì sao? Vì không sân gọi là từ, có người tuy không hay sân, nhưng khi thấy chúng sanh khổ không sinh lòng bi (thương xót). Nếu đối với tất cả chúng sanhthực hành sâu xa tâm từ, như người bất chợt thấy con mình gặp khổ não, bấy giờ tâm từ lay động thì đó gọi là bi. Hay có người đối với cái khổ của người khác thường sinh bi tâm, nhưng đối với việc tăng ích của họ lại không thể sinh tâm hoan hỷ. Vì sao biết? Vì thông thường có người thấy cái khổ của oán tặc còn sinh lòng thương xót, nhưng cũng có người thấy con hơn việ mình lại không vui; nhưng đối với người tu hành khi thấy ích sự của tất cả mọi người được tăng thì lòng sinh vui mừng như chính mình không khác thì đó gọi là hỷ, cho nên chúng ta biết sự sai biệt từ tâm với bi, hỷ là như vậy. 

Hỏi: Xả những gì mới gọi là xả? 

Đáp: Tùy thuộc vào kiến giải oán và thân nên từ tâm không giống nhau, như đối với người thân thì coi trọng không như đối với kẻ oán thì lại coi nhẹ và, đối với bi, hỷ cũng như vậy. Cho nên người tu hành muốn cho tâm bình đẳng thì đối với tân xả thân, đối với oán xả oán, sau đó đối với tất cả chúng sanh tâm từ bình đẳng và, bi, hỷ cũng như vậy. Cho nên trong kinh nói: “ Vì đoạn yêu ghét nên tu tập xả tâm.””

II . BỐN TÂM VÔ LƯỢNG THEO QUAN ĐIỂM CÁC NHÀ ĐẠI THỪA

Ở trên là quan điềm của các nhà Tiểu thừa về Bốn tâm vô lượng, cho chúng ta biết rằng đây tuy là vô lượng nhưng chúng cũng tùy thuộc vào cơ tâm của hành giả nên giá trị của chúng cũng được giới hạn trong vòng nhân quảcá nhân được đề cao hơn là tập thể trong việc thể hiện. Trong khi để đáp ứng tùy thuộc vào căn cơ cao hơn qua việc thể hiện bình đẳng tánh đưa đến cứu cánh rốt cùng, hành giả phải thực hiện con đường Bồ-tát hạnh của mình việc lợi tha được đặt ra là chính nên Bốn tâm vô lượng cũng tùy thuộc vào đó mà đức Đạo sư tuyên nói.

Theo Phật nói kinh Quán Phật Tam-muội Hải 6 thì, đức Đạo sư bảo A-nan, muốn phát triển bốn tâm tam-muội (định) đến chỗ cùng cực của nó, trong đó từ tâm tam-muội là nền tảng chính thì, liên hệ nhớ nghĩ đến nỗi khổ não của chúng sanh trong ba đường ác, trong đó nỗi khổ của những người thân của mình là gần nhất và, cứ như thuyết luân hồi nghiệp báo thì chúng sanh trong ba cõi sáu đường không ai không là những người thân của chúng ta xa hơnvì vậy cho nên nỗi khổ của chúng sanh luôn liên hệ đến chúng ta, nên việc ban vui cứu khổ và tạo mọi điều kiện thực hiện lợi mình lợi người đối với họ là hạnh nguyện của những hành giả thực hành bồ-tát đạo trong chiều hướng tiến đến Niết-bàn an vui giải thoát. Biết vậy, tại sao chúng ta lại khởi tâm sát hại đối với chúng sanh? Sau khi đức Đạo sư dạy đến đây thì Vua Tịnh Phạn cùng tất cả đại chúng bạch Phật rằng: 

Sao gọi là Từ tâm tam-muội? Nguyện xin Thế Tônmọi người mà lược nói.”

Phật bảo đại chúng:

Từ tâm, trước hết nên khởi tưởng đối với những người thân. Lúc nghĩ đến họ thì nên nghĩ đến những khổ não của cha mẹ mình, nghĩ đến vợ con mình chỗ yêu thương của chúng sanh đang chịu mọi khổ não, thấy chúng sanh bệnh hủi, ung nhọt. Thấy rồi tự nghĩ nên tìm cách nào để cứu? Một lần tưởng nghĩ thành rồi thì nên nghĩ tưởng đến lần thứ hai, lần thứ hai nghĩ tưởng thành thì nghĩ tưởng đến lần thứ ba, lần nghĩ tưởng thứ ba thành rồi thì nghĩ tưởng cho khắp cả nhà, nghĩ tưởng cho khắp cả nhà thành rồi thì nên nghĩ tưởng đến khắp cả phường xóm, một phường xóm thành rồi thì cho cả một do tuần (Bốn mươi lý là một do tuần. Một lý = một dặm = 360 bước), một do tuần thành rồi thì cho cả Diêm-phù-đề (Ấn Độ), cả Diêm-phù-đề thành rồi thì cho cả ba thiên hạ, dần biến khắp cả mười phương thế giới.

“Thấy hết chúng sanh phương đông là cha mình, thấy hết chúng sanh phương tây là mẹ mình, thấy hết chúng sanh phương nam là anh mình, thấy hết chúng sanh phương bắc là em mình, thấy hết chúng sanh phương dưới là vợ con mình, thấy hết chúng sanh phương trên là sư trưởng mình, ngoài ra bốn phía là Sa-môn, Bà-la-môn v.v… Thấy tất cả chúng sang đang chịu khổ, hoặ măc bệnh nặng, hoặc ở trên núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò tro. Thấy tất cả những nỗi khổ này rồi, lòng khóc thương, muốn nhổ đi cái khổ này, tự nghĩ: ta nương vào hoa sen báu đến chỗ mọi người, đích thân tiếp xúc rửa sạch ung nhọt. Nhìn lửa địa ngục buồn thương rơi lệ muốn diệt lửa kia, nhìn thấy ngạ quỹ đâm thân ra máu tưởng hóa thành sữa, cung cấp ngạ quỷ khiến được đấy đủ, khi đã đầy đủ rồi vì họ mà nói pháp, khen Phật, khen pháp, khen Tăng Tỳ-kheo. Sau khi khen ngợi mọi lợi ích rồi, khiến thay đổi được tâm buồn thương không bao giờ xả bỏ kia và, như vậy tâm từ thật sự đã đả thông được tất cả, còn ba tâm kia cũng nói rộng như từ tam-muội vậy. Tâm từ như vậy gọi là tu tập từ, khi đã tu tập từ rồi thì tiếp đến là thực hành bi. Người tu tập bi, khi thấy mọi người chịu khổ như tim bị mũi tên vào, như con ngươi bị phá, lòng thật khổ thương, máu dâng khắp cơ thể, muốn nhổ khổ kia, nhưng lòng bi thương này không phải một mà có trăm ức cửa nên cũng nói rộng như đại bi tam-muội này vậy. Hành giả sau khi hành từ. bi rồi tiếp đến thực hành đại hỷ, hành giả nhìn thấy mọi người an ổn hưởng vui, lòng sinh hoan hỷ như chính mình vui không khác, khi đã sinh hoan hỷ rồi thì tiếp đến thực hành pháp xả. Là chúng sanh thì không đến đi, tướng từ tâm tưởng sinh. Tâm tưởng sinh chính là nhân duyên hòa hợp nên giả gọi là tâm. Tâm tưởng này cũng giống như hoa đớm từ bệnh điên đảo khởi lên, nên khổ cũng từ tưởng mà khởi lên, vui cũng từ tưởng sinh ra, tâm giống như ruột cây chuối không chắc thật.”

Ở đây đức Đạo sư đã dùng pháp bốn tâm vô lượng để dạy chung cho các đệ tử của mình dù là xuất gia hay tại gia, trong đó có cả phụ thân của Ngài nữa. Bốn tâm này nếu chỉ giới hạn cho riêng mỗi một cá nhân trong đối tượng thực hành thì thì vẫn là những hạn cuộc và sẽ không đưa hành giả đến cứu cánh rốt cùng được mà phải được mở rộng ra xa hơn nữa ngoài cá nhân mình mà còn những người chung quanh, trước hết là những người thân gần chúng ta nhất đó là cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộcxa hơn nữa là khắp pháp giới, đây mới chính là đối tượng thực hành bốn tâm vô lượng đưa đến rốt ráo. Qua đây đức Đạo sư dạy cho chúng ta cách quán oán thân bình đẳng trong vô ngãvô pháp: Từ quan hệ nhân quả đến quan hệ duyên khởi có trong nhau đưa đến phát khởi từ tâmcuối cùng đưa đến ngã pháp đều không để thực hành bốn tâm vô lượng. Cũng trong ý nghĩa này, theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn 16 nói về Bốn Tâm Vô Lượng, nếu đem Bốn Thiền phối hợp với Bốn Tâm Vô lượng này để phân tích thì, Bốn Thiền chỉ là chỉ có công đức tự chứng Thiền định cho chính mình chứ chưa có công đức lợi tha đối với kẻ khác, cho nên muốn có cái công đức lớn an vui thì buộc hành giả chúng ta phải có lòng thương xót lân mẫn đối với chúng sanh, tức là hành giả chúng ta phải tu tập Bốn định vô lượng đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn định này gọi chung là Tâm vô lượng. Từ cảnh mà chúng ta có được tên gọi, lấy vô lượng chúng sanh làm cảnh sở duyên và, tâm chúng tanăng duyên luôn tùy thuộc vào cảnh vô lượng chúng sanh này mà phồi hợp tu tập, cho nên cả hai đều có được tên gọi chung là tâm vô lượng. Đây chính là cách tu tập dành cho các hành giả thực hành Bồ-tát hạnh trong lúc tu tập để hoàn thành Giác hạnh viên mãn chứng đắc Niết-bàn an lạc. Theo Pháp Giới Thứ Đê Sơ môn thì Bốn tâm vô lượng được trình bày như sau:

Một, tâm từ vô lượng là tâm luôn luôn ban vui cho người khác, nên gọi là từ. Nếu hành giả nào ở trong Thiền định, khi nhớ đến chúng sanh muốn cho họ được vui thì, trong tâm số pháp (Tâm sở) sinh định gọi là định từ. Từ này tương ưng với tâm không sân, không hận, không oán, không não, khéo tu tập được giải thoát. Vì tâm này biến đầy mười phương, rộng lớn vô lượng nên gọi là tâm từ vô lượng.

“Hai, tâm bi vô lượng là tâm luôn luôn cứu khổ người khác, nên gọi là bi. Nếu hành giả nào ở trong Thiền định, khi nhớ đến chúng sanh chịu khổ muốn họ được giải thoát khổ thì, trong tâm số pháp sinh định, gọi là dịnh bi. Bi này tương ưng với tâm không sân, không hận, không oán, không não, khéo tu tập được giải thoát. Vì tâm này biến đầy mười phương, rộng lớn vô lượng nên gọi là tâm bi vô lượng.

““Một, tâm hỷ vô lượng là tâm vui có được từ cái vui của người khác, mà sinh ra tâm hoan hỷ này, nên gọi là hỷ. Nếu hành giả nào ở trong Thiền định, khi nhớ đến chúng sanh muốn cho họ lìa khổ được vui mà hoan hỷ thì, trong tâm số pháp (Tâm sở) sinh định gọi là định hỷ. Hỷ này tương ưng với tâm không sân, không hận, không oán, không não, khéo tu tập được giải thoát. Vì tâm này biến đầy mười phương, rộng lớn vô lượng nên gọi là tâm hỷ vô lượng.

“Hai, tâm xả vô lượngtâm duyên vào người khác với tâm không ghét không yêu, nên gọi là xả. Nếu hành giả nào ở trong Thiền định, khi nhớ đến chúng sanh tất cả đều nhớ nghĩ một cách bình đẳng không ghét không yêu như chứng Niết-bàn, trong sạch vắng lặng thì, trong lúc nhớ nghĩ như vậy, tâm số pháp sinh định, gọi là định xả. Xả này tương ưng với tâm không sân, không hận, không oán, không não, khéo tu tập được giải thoát. Vì tâm này biến đầy mười phương, rộng lớn vô lượng nên gọi là tâm xả vô lượng.”

Bốn tâm vô lượng ở đây được phát khởi khi hành giả vào Thiền định thì bốn tâm này tùy thuộc vào thiền định mà có được bốn định theo thuộc tính của nó mà phát sinh ra đó là định từ, định bi, đinh hỷ và định xả. Nếu như hành giả trong lúc thiền địnhphát khởi lên một trong bốn thứ tâm này thì định cũng sẽ tùy thuộc vào bốn tâm đó mà hiện hữu vô lượng, vì tâm này biến khắp đầy trong mười phương, rộng lớn vô lượng nên bốn tâm này cũng vô lượng. Và nếu hành giả biết cách kết hợp giữa thiền địnhbốn tâm vô lượng này thì cứ tùy thuộc vào tính đặc thù của chúng mà chúng ta sẽ có mỗi một thứ định đặc biệt cho nó. Cuối cùng hiệu quả của nó sẽ đưa hành giả đến chỗ giải thoát nếu bốn loại định này cùng tương ưng với tâm không sân, không hận, không oán, không não, khéo tu tập và nổ lực áp dụng triệt để thì sẽ được giải thoát.

Cũng đồng quan điểm với Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn 16 nói về Bốn Tâm Vô Lượng, theo Thập Địa kinh luận 5 thì, từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm của Bồ-tát luôn luôn tùy thuận với không và thời gian rộng lớn vô lượng không phải hai, nếu các Ngài dùng tâm không sân hận, không đối đãi, không chướng ngại, không não hại trang trải khắp đến tất cả mọi nơi trên thế gian cùng đến tận hư không cõi thì đó gọi là vô lượng được thực hành rốt ráo:

Sao gọi là bốn vô lượng?”

Kinh dạy:

từ tâm của Bồ-tát tùy thuận rộng lới vô lượng không hai. Không sân hận, không đối tượng, không chướng ngại, không não hại, biến khắp cho đến mọi nơi trên thế gian, pháp giới thế gian, cứu cánh hư không giới, bao trùm lên tất cả hành thế gian. Như vậy bi tâm của Bồ-tát cũng tùy thuận, hỷ tâm cũng tùy thuận, xả tâm cũng tùy thuận rộng lớn vô lượng không hai, không sân hận, không đối tượng, không chướng ngại, không não hại, biến khắp cho đến mọi nơi trên thế gian, pháp giới thế gian cứu cánh hư không giới, bao trùm tất cả hành thế gian.” 

Đó là phương pháp đem tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả qua các bản kinh luận, được dàn trải rộng khắp đối với chúng sanh không hạn định trong không gian hay thời gian mà khắp đến từ ba cõi sáu đường cho đến tận hư không giới; vì chúng không còn bị giới hạn vào bất cứ xứ, giới nào nữa cho nên được gọi là vô lượng.

Tóm lại bốn tâm vô lượng này dù là Tiểu hay là Đại thừa chăng nữa, con đường thực hành đưa đến tự lợilợi tha, chúng vẫn hiện hữu trong nhau; nhưng chúng chỉ khác nhau về mặt tiêu cựctích cực mà thôi. Về mặt tiêu cực thì chỉ được giới hạn kết quả theo theo nhân quả tính của tự lợi, còn mặt tích cự thì không còn giới hạn trong nhân quả tính nữa mà vượt ra ngoài tính tiêu cực của nhân quả giới hạn, mà thể hiện tính duyên khởi có nhau trong bất nhị tính. Bốn tâm vô lượng vì thế chúng cũng tùy thuộc vào giá trị thuộc tính của chúng nhiều hay ít tùy thuộc vào đối tượng hướng đến của chúng qua chúng sanhgián tiếp mang tính tiêu cực và trực tiếp mang tính tích cực. Vì bản thâm bốn tâm này giá trị của chúng đối với Tiểu hay Đại đều như nhau; nhưng đối tượng hướng đến để làm duyên hoàn thành giá trị của chúng là tiêu cực hay tích cực thì, hiệu quả của chúng có sự khác nhau giữa Tiểu và Đại mang tính tích cự chay tiêu cực mà thôi. Qua đó chúng là cũng chỉ làm duyên cho cả hai nhưng là tiêu cực hay tích cực mà chúng được thể hiện qua tự lọi và lợi tha mà thôi. Đây chính là con đường thực hành của các hành giả được thể hiện một cách tiêu cực qua giá trị tự lợi của nhân quả nhị nguyên, còn nếu theo chiều hướng tích cực thì đó là con đường thực hành của các hàng Bồ-tát mang tính tích cực vượt thoát để hoàn thành mục tiêu của mình tiến đến quả vị Chánh giác

05-01-2009
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 47)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 493)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant