Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Tạo Hóa là gì?

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 29727)
03. Tạo Hóa là gì?

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
TẠO HÓA LÀ GÌ?

LTG: Trên đây là một đề tài đã được các nhà văn học sửtriết học Đông, Tây phương tranh luận rất nhiều, vì đây là một đề tài thuộc về triết học, khoa học. Đăïc biệt là một vài tôn giáo thường hay lấy Thượng Đế làm đấng tối cao đó cũng là lẽ thường theo tín ngưỡng của họ, nhưng khẳng định Thượng Đế là sinh ra tất cả, vũ trụ và mọi loài, mọi vật trên thế gian này thì tôi không thể đồng quan điểm trong việc thần thánh hóa cá nhân của một chủ thuyết duy tâm.

Do đó, tôi mới tìm hiểu và sưu tập một tư liệu để phổ biến đến quí vị độc giả tham khảo suy luận hầu tự tìm cho mình một giải đáp. “Nếu vị nào có những tư liệu khác phong phú hơn xin chỉ giáo. Vì học thuyết và kinh sách của Đạo Phật quá cao siêu, tôi chỉ là một Phật tử với sự hiểu biết có hạn, nhưng lại thích sưu tầm, nghiên cứuhọc hỏi để trau dồi thêm kiến thức. Vậy kính xin quý vị độc giả niệm tình tha thứ những gì còn thiếu sót”.

ĐỊNH NGHĨA TẠO HÓA: 

Theo định nghĩa của chữ Hán thì TẠO là Dựng. HÓA là Đổi, danh từ này nói về sự biến đổi, xây dựng thành hình những sự vật, muôn vật trong vũ trụ. Nói ngược lại thì loài người, loài vật, núi, sông, rừng, biển v.v... đều do TẠO HÓA xây dựng thành hình.

Những cái dựng thành đó là gì? đó là vật hữu tri hay vô tri? Là cái cùng ở trong tự thân ở trong mọi cái, hay là một thứ đặc biệt riêng hẳn, chỉ để sinh ra mọi cái khác mà thôi? Nó sinh ra mọi cái bằng cách nào? Còn chính nó thì ở đâu? Cái gì sinh ra nó nữa? Để giải quyết vấn đề nan giải này, từ xa xưa đã có các bậc trí thức, đại trí thức, các khoa học gia đã dầy công nghiên cứu và thuyết phá rất nhiều, nhưng lập thuyết thì mỗi người một ý khác nhau, không đồng nhất.

Có những thuyết đại cương như sau:

- Mọi cái do tự nhiên sinh ra (tự nhiên sinh thì cái tự nhiên đó là TẠO HÓA, chiếu theo nghĩa này trở xuống mỗi câu lập thuyết đều như vậy).
- Do nhân duyên hoà hợp sinh ra.
- Do cái nguyên khí hay cái lý mầu nhiệm sinh ra (như thái cực, cốc thần, bản ngã...)
- Do thức tính sinh ra? Do một người rất tài tình tức là trời sinh ra (thiên tạo hay nhân tạo)
- Do cái nghiệp của chúng sinh ra.
- Do tinh thần hay vật chất sinh ra.
- Mọi cái biến chuyển nhưng bề trong của nó đều TĨNH.
- Mọi cái cả bề trong lẫn bề ngoài đều ĐỘNG.

Những lý thuyết khác nhau như thế sẽ thấy có các danh từ để biểu lộ riêng. Gọi là tâm tạo, vật tạo, lý tạo, sự tạo, động tạo, tĩnh tạo, thiên tạo, nhân tạo, tự tạo, tha tạo đồng tạo, biệt tạo... Những lời giải thích nghĩa lý tạo hóa bất đồng như trên là phép tạo hóa có khác nhau thật, hay những nhận thức của các vị trí thức đó khác nhau?.

Đáp lại câu hỏi này, theo định luật của mọi cái trong vũ trụ mà xét thì dù có hiểu khác nhau, khác nghĩa hay khác tên đến thế nào cũng vậy, nguyên lý nó không ngoài 4 điều căn bản dưới đây, xin quý độc giả cùng tôi tìm hiểu căn nguyên sẽ rõ:
 
A.- SẮC TẠO:

Sắc là vật sắc, mầu sắc, hay cảnh sắc, tức là vật chất vô tri. Theo bộ luật “Thuyết nhất thiết hữu” nói: “Trong thế gian mọi thứ đều là có cả”. Do đó một số trí thức hiểu rằng: Sắc tạo ra mọi cái.

Cho nên có một số trí thức lấy sắc làm bản thể phát sinh ra mọi cái. Tâm do đối sắc mà ứng hiện lên. Tâm vô hình không sinh ra vật sắc hữu hình được. Phàm tìm hiểu những lý lẽ sinh hoá đều y theo sắc chất mà xét nghiệm.

Bản chất của sắc gồm có 14 thứ: 1.- đất, 2.- nước, 3.- lửa, 4.- gió, 5.- vật hiển hiện, 6.- tiếng động, 7.- mùi ngửi, 8.- vị nếm, 9.- sự cọ chạm, 10.- căn mắt, 11.- căn tai, 12.- căn mũi, 13.- căn lưỡi, 14.- căn thân, (5 căn này là cơ bản của ngũ quan, nằm kín trong 5 nơi: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân rất khó trông thấy).

14 thứ sắc căn bản nói trên có thứ thuộc loại hữu hình, có thứ thuộc loại vô hình, thứ thô sắc thứ tố sắc. Mỗi thứ này tỉ miû chia ra ta thấy có thứ lại thành hai ba bốn thứ, hay nhiều số mục hơn nữa. Như thứ sắc hữu hình về vật hiển hiện (thứ năm) hàm súc 20 hình tướng khác nhau trong cùng một bộ phận là: xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh, bóng, sáng, tối, khói, mây, bụi, mù (12 tướng này gọi là hiến sắc). Dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, cong, thẳng (8 tướng này gọi là hình sắc).

Tất cả những thứ Sắc trên đều do vọng lực chuyển biến, trong số đó có loại ít hoặc nhiều, hoặc chung, hoặc riêng, tùy trường hợp tạo tác trong vũ trụ, ngoài thì chắp nối theo vũ trụ hiện thành núi, biển... trong thì gom góp gây nên thân thế loài động vật, bộ óc, quả tim.

Như trong thân thể người ta luôn luôn không ngừng thay đổi, cái đói đối với cái no mà nẩy ra sự ăn uống để nuôi sống người, đói rồi lại no, no rồi lại đói, đói sinh no diệt no sinh đói diệt... Trong nguyên nhân phát triển của mọi loài động vật đều gồm có 3 ý nghĩa: Tương đối, tương liên và biến chuyển.

Tương đối: Là hai bên chọi nhau, như đói đối với no, rét đối với nóng, thơm đối với hôi, lớn đối với bé, to với nhỏ, có với không, sống với chết, cũ với mới, tích cực với tiêu cực... tất cả đều có cái nội tại mâu thuẫn đối lập với nhau, lúc ẩn, lúc hiện thường nằm trong cá tính bản thể đồng nhất của nó. Như sức sống có thừa thì không chết, không đủ sức sống thì sẽ chết, cái chết ấy đi thì cái sống lại kế chân vào, luật tuần hoàn tiếp tục thay đổi nhau liên miên, cứ như thế mà sinh sinh hóa hóa.

Tương liên: Tất cả đều có sự liên quan với nhau, như đói với no tuy đối nghịch nhau nhưng cùng ở trong một bản thân, tức là thay phiên nhau gây sự dinh dưỡng, giúp khí lực cho thân mạnh hay yếu. Đói, no tuy ở bộ phận dạ dầy nhưng liên quan đến cả gan, ruột, lục phủ ngũ tạng, nếu đói không ăn sẽ làm cho thân thể bủn rủn, chân tay rã rời... Do đó, trong các bộ phận ở thân người đều có liên quan với nhau, để mà sống.

Biến chuyển: Là mối tiến hóa chính của mọi cái, mọi cái trong vũ trụ phát triển được là do sức biến chuyển tất yếu này làm nòng cốt. Bộ phận mỗi vật bất kỳ lớn nhỏ đều chịu một quy luật biến chuyển không ngừng, liên tiếp thay phiên nhau bằng những thời gian ngắn ngủi 1/1000 giây đồng hồ: Sinh diệt, lại sinh lại diệt...

Cái thân thể của người ta từng tế bào một, cái nọ cọ cái kia, cứ thúc đẩy nhau xoay tròn luôn luôn không ngớt, tấm thân ta mới thành được một khối nguyên tuyền sinh sống. Đó là luật tạo hóa của sắc pháp đã thi hành theo khuôn mẫu ấy. Cho nên ngài Thanh Biện luận sư (người Ấn Độ) lập thuyết “Duy cảnh vô thức”. Tất cả mọi cái ở thế gian chỉ là cảnh sắc tạo ra chứ không phải thần thức tạo.

Tóm lại thuyết Sắc Tạo cho rằng tất cả mọi loài động vật, bất động vật trong vũ trụ đều là hiện tượng hay trạng thái khác nhau của vật chất biến đổi, hoá vãng theo tiến trình của cách đấu tranh giữa hai khuynh hướng trái ngược nhau mà ảnh hưởng liên tục với nhau cùng trong một khối.

B.-TÂM TẠO:

Tâm là tâm thức hay ý thức có trí giác, biết suy nghĩ của người ta, khi sống người ta có thể phát hiện điều khiển thân thểnhận thức được mọi cái, khi chết thân thể bị hủy diệt, nhưng cái thần thức ấy không theo xác thân mà diệt mất đi được. (Nó còn tồn tại mãi mãi, các loài động vật đều có cái tâm này, nhưng khác nghĩa với cái linh hồn).

Tâm thuộc về phần tinh thần, hay nói cách khác gọi là Trí. Hết thẩy mọi cái đều do Tâm tạo nên. Nghĩ thiện, nghĩ ác, nghĩ phải, nghĩ trái, nghĩ xấu, nghĩ tốt, thương, ghét... đều do Tâm mà ra. Có sáu căn bệnh nguy hiểm cho mỗi người chúng ta đó là Tham, Sân, Si, mạn, nghi, ác kiến, cũng do Tâm.

Xin quý độc giả hãy cùng tôi tìm hiểu về hai giả thuyềt sau đây để xác định xem Tâm tạo là thế nào? Nếu có người hỏi quả đất có trước loài người từ 4.500 triệu năm, khi chưa có người, chưa có các loài động vật thì lấy tâm đâu sinh ra quả đất?

Theo thuyết duy tâm thì cho rằng: “Tâm của người ta không phải lúc có thân người mới có, nó vẫn có từ vô thủy, khi thụ thân người, chẳng qua là phép luân hồi, biến chuyển, nó gián tiếp vọng sinh, tiến hành từng thời gian rất ngắn ở những nơi hiện hành sau đó thôi”.

Như vậy ta suy ra trước khi sinh ra thân người thì Tâm thể đã vẫn có ngấm ngầm trong vũ trụ, cũng không phải nhân có quả đất mà thân tâm mới được phát sinh, chính trái đất, thế giới muôn vật, đã chịu sự phân hóa của tâm từ hồi vô minh, vô thủy, vô lượng kiếp về quá khứ.

Nên biết công dụng của Tâm Tạo có 4 loại: Ý thức, quan niệm, tư tưởngcảm giác. Ý thức chuyên về sự suy nghĩ, hiểu biết, chứa góp, phân biệt, nhận định cho các giác quan: Trông, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm mọi vật. Quan niệm thích hợp với nó gồm có 49 thứ, nhưng tóm lại không ngoài 3 mối: Lành, dữ và sử trung (không hẳn lành, không hẳn dữ). Tư tưởng cũng có 3 mối: Hay, dở, trung bình. Cảm giác cũng có 3 mối đó là: Sướng, khổ, chẳng sướng chẳng khổ.

Ý thức là chính, quan niệm, tư tưởngcảm giác đều là phụ. Hai món chính, phụ hợp tác với nhau tạo nên thiên hình vạn trạng trong vũ trụ cũng như cuộc đời. Tâm sinh ra thế giới, loài người, cùng loài vật như thế nào?

Xin tóm lược loài động vật gồm có 4 giống chính là:

1.- Giống sinh bằng bào thai, như loài người, loài trâu, bò...
2.- Giống sinh bằng trứng như loài chim, loài gà, vịt...
3.- Giống sinh bằng tính ướt như loài bò nước, loài đỉa...
4.- Giống sinh bằng lối biến hóa như loài chuồn chuồn bởi con gọng vó hóa ra, loài đom đóm bởi chất cỏù mục hóa ra.

Hết thẩy sắc vật đã chuyển biến kể trên đều thuộc về phản động ngoài đó ra là hư không thuộc về loài tĩnh. Hai thứ “Động, Tĩnh” hay “Sắc, Không” đã thâu tóm tất cả mọi thứ: Thế giới, loài người, hết thẩy mọi vật trong vũ trụ rồi vậy.

Tâm chuyển biến có 4 cách khác nhau:

1.- Sinh nhân - Phàm hiện hình cái gì đều bởi cái nguyên nhân khởi điểm, như cây cối có hạt giống, thai người có tinh trùng (tinh huyết).

2.- Sinh duyên - Nhân nẩy nở phải được duyên ngoài hợp lực bồi dưỡng, như cây thì đất nước, người thì áo cơm.

3.- Liên tiếp - Mối nghĩ ngấm ngầm kế tiếp liền nhau, không hề gián đoạn dù trong giây lát. Trong khoảng thời gian bằng một cái bật ngón tay của người lực sĩ có 65 niệm, mỗi niệm có 90 sát na, (tiểu niệm) mỗi sát na có 900 trăm lần sinh diệt. Như vậy trong quãng một cái bật ngón tay gồm có 5 triệu 265 ngàn (5.265.000) lần sinh diệt, tốc độ lưu hành nhanh chóng quá, không thể tưởng tượng được.

4.- Tăng thêm - Tiềm lực tự nhiên làm cho sinh hóa vun vút được lớn lên, như bé làm cho lớn, lớn làm cho già, già làm cho cỗi, chết đi xong biến đổi sang đời khác, đời khác lại bắt đầu.

Bởi 4 qui luật này khiến cho những sắc vật mọi cái trong vũ trụ được sinh hoạt, sống còn chuyển động, luôn luôn không ngừng, không rời rã trong khi đủ nhân duyên hoà hợp duy trì thọ mạnh cho thân hình, ngoài thì hóa thành luồng gió có sức rất mạnh, mang quả địa cầu, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, bay lơ lửng xoay vần trên không trung, (Đến đó thì tâm lực đã trở thành nghiệp lực chú về động tác).

Tóm lại: Thuyết tâm tạo cho rằng: Thế giới, loài người, loài vật, hết thẩy mọi cái trong vũ trụ đều do tâm duyên tưởng niệm mà phát sinh ra. Tâm là năng biến có thật, cảnh sắc là vật bị biến hiện ra như bóng hiện ra trong gương vậy. Như vậy sắc là giả hiện, là bề ngoài, nhưng không phải hoàn toàn tách rời cái tâm (Sắc cũng thuộc về tâm) mà là vật vô tri không thể sinh được cái hữu tri (tâm).

C.- SẮC TÂM TẠO:

Phái sắc tạo chấp hữu cho sắc là chính, tâm là phụ, vì nói tâm là sản phẩm cao đẳng của sắc, phái tâm tạo chấp không bảo tâm là có, sắc là không (Vì nói sắc là giả tưởng ảnh hiện của tâm... Tuy mỗi đàng thiên chấp một ý kiến khác nhau, nhưng kỳ thực sắc với tâm vẫn đi sát với nhau, dựa vào nhau hỗ tạo nên mọi vật, như hai chân của người ta chung sức cùng đi, cũng như hai cánh của con chim hợp tác cùng bay, hai thứ đó phát xuất cùng ở một gốc nguồn của thân thể mà phát xuất ra vậy.

Theo triết lý chữ tâm của nhà Phật thì không những chỉ có cái nghĩa suy nghĩ, hiểu biết chứa góp... mà còn có cái nghĩa lý rất mầu nhiệm, là cái “thế tính” hay cái “lý trí” chung của hết thẩy chúng sinh. Nên biết Tâm căn bản có hai phần: Kiến giảihình tướng (Tướng hữu hình và tướng vô hình).

Kiến giải là phần hữu trí, để nhận thấy hiểu biết mọi cái, tức là sự suy nghĩ, hiểu biết... cảm thấy ở trong người chúng ta mà thường nhắc đến hàng ngày (lòng, dạ, ý, chí...)

Như trên đã nói: Ý thức, quan niệm, tư tưởngcảm giác, đều thuộc vào phần kiến giải này. Phần này có tính khôn thiêng nhất định là phần tinh thần không bao giờ có sắc.

Sắc với tâm đã cùng một bản thể thì không phải nói: Cái nọ cọ cái kia làm gì, ví như chất nước và tính ướt cùng một thể của thủy đại chủng, thì đừng nên nói, nước sinh ra ướt, ướt sinh ra nước nữa, có nói thì nói cái năng lực của chúng nó hay làm ẩm nhão hay tư nhuận sinh hóa ra mọi cái khác mà thôi.

Khi luật nhân quả tự động thì hành tạo tác hóa sinh ra muôn vật, thì hai phần này chung nhau cùng làm việc (cũng có khi riêng, nhưng đó là sự phát khởi chênh lệch trước sau trong lúc đầu, hoặc hoàn cảnh đặc biệt như kiến giải tốt hay xấu, hay hay dỡ, hình tướng thành trụ, hoại, không...) Tâm chủ về sự gây (tạo). Sắc chủ về sự tiến (hóa), cái hữu tri giun giủi và chiêu cảm cái vô tri, cái hữu hình nẩy nở và đáp ứng cái vô hình, nhân ở chỗ gây mà kết quả ở chỗ biến.

Nếu đã nói nghĩa (Sắc, Tâm bất nhị) thì có thể nói một tiếng sắc cũng đủ cả Tâm, hay nói một tiếng Tâm cũng đủ cả Sắc, (Miễn là đừng thiên chấp một bên, mà chớ để hai cái hữu tri, vô tri lẫn lộn). Coi đó biết rằng: Thế giới loài người, cùng hết thẩy mọi vật, nói sắc tạo (duy sắc) cũng có nghĩa, đáng lẽ nói đủ nghĩa thì phải nói sắc tâm tạo.

Nhưng người ta thường chỉ nói ngắn gọn có hai chữ “Tâm tạo” thôi như vậy tâm ấy chỉ vào “bản tâm” hay “bản thể tâm” gồm đủ cả hai phần “kiến” và “tướng” bao trùm khắp cả vũ trụ mới đúng. Ở đây ta thấy rõ ràng tiếng “tâm” là một cái tên gọi của “bản thể” gồm cả hai phần: Tinh thầnvật chất. Đạo Phật nói “Nhất thiết duy tâm tạo” là như vậy đó.

D.- PHI SẮC PHI TÂM TẠO:

Đã biết rằng: mọi cái trong vũ trụ do sắc và tâm tạo ra, nhưng nó cũng không tự động hoàn toàn làm ra tất cả mọi việc. Nhưng trong thế gian còn nhiều cái không thể gọi là sắc hay tâm được (tâm duyên tự). Như cái được, cái xẩy, cái nẩy ra, cái còn lại, cái khác đi cái tiêu tán, cái tên gọi, cái câu nói, cái lời lẽ, cái già, cái chết, cái sức lưu hành giun giủi khác đi...

Lại còn một loại khác luôn luôn hoạt động không ngừng thường đi kèm với sắc tâm để giúp mọi công việc sắc tâm tiến hóa, như những điều hẹn hò, điều thề nguyền, điều gì đã xảy ra... Những cái sức vận động tạo tác thiêng liêng này, tuy mắt không trông thấy, hay lòng không nhớ đến, nhưng nó cũng không vì thế mà tạm thời giây lát rời sắc tâm, nếu quãng giữa đường đi trên mọi công việc làm của nó không bị ngoại duyên gì làm trở ngại. Những cái này với sắc tâm như chân tay với đầu mình, nhờ chân tay cử dộng, mà đầu mình chủ yếu là đầu mình của bản thân được thành công khởi tạo.

Những cái này quyết không thể gán cho nó về một phía sắc hay là tâm được. Bởi sắc thuộc về chất tứ đại, xin lấy 5 điều sau đây để dẫn chứng:

1.- Sắc có hình, đoạn, phương, sở. 
2. - Sắc thuộc về chất ngoại.
3. - Sắc có 14 thứ, 20 hình dáng khác nhau như trên.
4. - Sắc có thể phá hoại được. 
5.- Sắc dùng tai, mũi, lưỡi, thân nhận thấy, hay nắm với lấy được. Tâm tuy là mối suy lường cũng có 5 điều chứng minh: 1.- Tâm khôn thiêng, hiểu biết. 2.- Tâm có sáng, dốt, mê muội, hay say đắm. 3.- Tâm có tính lành, tính dữ, tính vô ký (Lành dữ hỗn tạp). 4.- Tâm khởi đủ mọi mối, hoặc ít hoặc nhiều. 5.- Tâm phải chịu mọi sự cảm báo.

Trong hai thứ sắc tâm phân biệt gồm có 10 điều vừa nói, thì cái sức lực mạnh ngấm ngầm quái lạ khó đặt tên này không giống một điều nào hết. Không phải sắc cũng không phải tâm, nên gọi là phi sắc, phi tâm. Nó chỉ chuyên một bề hộ việc sắc, tâm vận động tác thành cho mọi cái, nên lại có một tên gọi là động tác.

Cái động tác này vẫn cùng một thế tính với sắc tâm, nó tự trong bản nguyên chân tính lưu xuất ra từng lúc, sắc tâm thoạt đầu khởi biến cùng một lúc, rồi tự nó cứ theo dõi mãi để vo tròn công quả đó.

Động tác xuất sinh khi đã hình thành, thì nó đứng hẳn về một phương diện như trên đã nói: Chân tay với đầu mình tuy cùng chung một thể cốt nhục, nhưng chân tay thì là tứ chi, chân tay không phải đầu hay mình, mà sự làm nên các việc thì ở chân tay lại hành động mạnh.

Nhờ máy hiền vi, động tác này xếp đặt đúc nặn nên mọi hình thể phân biệt được giống nọ với loài kia người này với người khác, ta muốn gì nó sẽ ngấm ngầm tìm cách cho ta sẽ được cái ấy, ta có nhân duyên với thế giới này, nó đưa dăùt cho ta đến đây, loài thực vật, loài khoáng vật, nó sinh sản cho ta hưởng dùng, quy luật đã định: cá đẻ ra cá, cua đẻ ra cua... đối với mọi vật đều chiếu theo nguyên tác hiện hành với từng tính riêng mà truyền đời an lạp.

Cùng chỗ ở, khác thân hình, như sinh cùng trong một địa cầu mà loài người, loài cầm thú khác nhau, khác nhau về tâm, về tính, khác nhau cả về ăn, và nơi ở. Nếu nói về mỗi loài cũng có sự khác nhau, thí dụ loài người, giống người ở Á Châu khác với người Âu Châu... cũng có những sắc dân mỗi Châu hay mỗi nước cũng khác nhau. Đặc biệt ngay cả các khuôn mặt của mỗi người cũng khác nhau, (sự ăn ở, hành động, lề thói, hưởng thụ, sản vật tự nhiên v.v... đều có khác nhau). Tại sao vậy?

Ba điều của sắc (tương đối...) 4 cách biến của Tâm (sinh nhân...) đều do sức động tác này thực hiện. Hơn nữa cái sức vô cùng mãnh liệt nâng đỡ cả thế giới loài người, muôn vật, di chuyển các hành tinh, làm sống, làm chết, làm mất đi, làm còn, hết thẩy mọi cái hữu hình, vô hình, hữu sắc, vô sắc, hữu tri, vô tri, tất cả đều chính cái động tác này nó làm thành ra cả. 

Sức tác động này theo kinh nhà Phật, người ta thường gọi là cái “Nghiệp” hay cái “hành”. Do tâm tạo nghiệp, nghiệp quyết định hành.

Thế giới loài người cùng hết thẩy mọi vật, dù sắc tạo, tâm tạo, sắc tâm tạo, nghiệp tạo, tự nhiên tạo hay nhân duyên tạo... đã gọi là tạo, là sinh, đều vọng tưởng hết. Có hiểu nghĩa “Tục hữu chân không hay chân không diệu hữu” diệt hết mọi cái mịt mờ (vô minh) mới thấy rõ cái thế tính như bất động sáng suốt trong sạch (thức tỉnh nguyên minh) hiển hiện.

Tóm lại muốn biết tạo hóa là gì thì nên phải biết “phép sinh diệt”. Sinh diệt là tâm vọng tạo. Tạo hóa tức là cái Tâm. Nhân ở cái vọng (già) có tạo tác hóa sinhtìm thấy cái chân (thật) không sinh diệt biến dị của muôn vật.

bài kệ rằng:

 Dù sống hàng trăm tuổi
 Không hiểu biết sinh diệt
 Chẳng bằng chỉ một ngày
 Mà hiểu được rõ ràng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 56)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 164)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 387)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 681)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 602)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 547)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 687)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 705)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 712)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 830)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1391)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1403)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1162)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1376)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1291)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1214)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant