Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Ký Sự Chùa Hương

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11767)
04. Ký Sự Chùa Hương

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
Ký Sự CHÙA ƠNG
(Đệ nhất danh lam thắng cảnh Việt Nam)

Bầu trời cảnh Bụt

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kià non non, nưóc nước mây mây

"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng. 

"Chu Mạnh Trinh"

blankMỗi lần tôi trở về quê đi tới đâu tôi luôn luôn có ý niệm tìm hiểu các di tích lịch sử để chiêm ngưỡng, học hỏi hầu mở rộng tầm mắt nhìn về những danh lam thắng cảnh, nơi quê hương ngàn năm văn vật mà bao đời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và chính bản thân mình đã sinh ra, trưởng thành trong thời thanh bình cũng như lúc chinh chiến, nơi quê nhà.

Tôi sẽ lần lượt cống hiến quý độc giả bốn phương các nơi tôi đã đến với cảm nghĩ của mình, riêng bài này tôi mời quý vị cùng tôi đến thăm Chùa Hương Tích "Đệ nhất danh lam thắng cảnh của Việt Nam" Trong tác phẩm "Trở Về Cội Nguồn". Tôi xuất bản vào đầu thiên niên kỷ mới năm 2000, và nhà sách Văn Nghệ Tổng Phát Hành, hiện có bán tại các tiệm sách, tôi có nói về: "Những kỷ niệm khó quên với cảm nghĩ của lúc thiếu thời về Trẩy hội Chùa Hương, nhưng bài này tôi viết Chùa Hương với cảm nghĩ của tuổi đời trên thất thập cổ lai hy". Đặc biệt, tôi đã dầy công sưu khảo, tìm hiểu với nhiều tư liệu giá trị để phong phú hoá bài ký sự này hầu lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau biết về một thắng tích tuyệt vời mà mỗi năm có cả hàng triệu người từ bốn phương trên khắp thế giới đổ về chiêm bái, tham quan và lễ Phật trong suốt 3 tháng, giêng, hai, ba đó là mùa "Trẩy hội Chùa Hương".

- ĐỊA THẾ HƯƠNG SƠN:

Dẫy núi Hương Sơn ở bên sườn đông của dẫy núi đá vôi chạy từ Phong Thổ, Lai Châu, Sơn La, Mộc Châu xuống đến Hà Tây, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, hang động bao bọc Hương Sơn ở phía tây Nam sông Đáy (một phụ lưu cấp 1 của sông Hồng) chạy theo hướng Bắc - Đông. Giữa sông núi (sơn thủy) là cả một hệ khe, nối suối ngầm (Suối Tuyết, Suối Yến) dẫn nước qua lại cung cấp cho Thung Dâu, Thung Mơ… phơi trải nước của các hang động. Những khe núi này là nguồn cung cấp nước cho sông Đáy thuộc miền Bắc Việt Nam. 

Bên trong dãy núi nuớc chảy xói mòn khoét thành nhiều hang động, có một ngọn núi nối liền là thắng cảnh lâu đời - Động núi Hương Tích - Theo tương truyền rằng: Đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát trước ngày tu hành rồi thành Phật tại đây. (Xin xem bài sự tích Quan Thế Âm).

Động Hương Tích còn gọi là Động Hương Sơn, ở vào địa phận Huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây tiếp giáp với tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Người ta thường nói:
 "Đường vào Hương Tích lượn quanh,
 Nước non gấm dệt, mầu xanh phủ màn.
 Người niệm Phật khách tham quan.

 Suối thanh tịnh, rửa nhẹ nhàng trần duyên"

blankTrước khi vào vãng cảnh Chùa Hương, mọi du khách đều phải đến bến Đục và từ đây mọi người mới xuống đò (ba lá), hàng trăm chiếc (ghe) thuyền nho nhỏ bằng thiếc vỏ dầy 2 ly, hoặc bằng gỗ, mỗi chiếc chở chỉ được 5 hoặc 7 người, quang cảnh bến đò lúc này thật là nhộn nhịp, từng đoàn, lại từng đoàn người đi xuống các thuyền này, mỗi thuyền (ghe) có một cô lái đò chèo thuyền ra đi dọc theo suối Yến. (có người gọi là suối Mơ). Trong cảnh đẹp Hương Sơn, những dòng suối có một vai trò hết sức quan trọng nó lôi cuốn du khách một cách vô cùng hấp dẫn. Chính vì thế mà từ thời xa xưa chúa Trịnh Sâm đã khắc trên tấm bia đá bốn chữ "Sơn Thủy Hữu Tình".

Sau đây tôi xin mô tả những cảnh đẹp của dòng suối Yến: Suối Yến có những nét đặc thù riêng ở một địa danh vô cùng hấp dẫn nó không đẹp ở sự mênh mông, mà đẹp ở sự buông thả hiền hòa giữa hai triền núi, đường suối không xa lắm nhưng trông như không có chỗ tận cùng, quanh co lượn qua lượn lại chạy theo các dẫy núi hai bên bờ suối còn có những ruộng lúa nước bao la, ban ngày, ban đêm lúc nào cũng đẹp như mơ, cho nên còn có tên là Suối Mơ, những chiếc thuyền thoi của các cô gái làng Yến, vừa xinh đẹp vừa khoẻ mạnh ngày thường chở lúa, chở gạch, chở củi, chở cá… đến mùa Xuân lại chở khách thập phượng đến vãng cảnh chùa.

Trong cái trạng thái vui say ấy, các du khách thường gặp nhau trong những ánh mắt lời thơ với những tiếng cười dòn như pháo trên các con thuyền du Xuân dọc theo Suối Yến, Ta đồng hành với những vạt lúa xanh viền hai mép suối, trên dòng nước xanh trong veo, những đám rong mềm mại lay động dưới lòng suối, với những con le, con cốc thỉnh thoảng bay vù từ mặt nước…

Bây giờ tôi cùng quí độc giả ta hãy nhìn lên trên hai dãy núi, phía bên trái, kìa núi Đụn, cao cao và nây tròn như một hột thóc. Núi Đụn còn là đuôi của một con rồng, dãy núi Hàm Rồng, gần núi Đụn là núi Soi, giống như con Kỳ Lân, còn gọi là núi Lân, gần núi Soi là núi Ái, là núi Phượng đang rộng cánh. Chỗ đầu và mỏ Phượng là động - chùa Thanh Sơn, hai cánh nó là hai chỏm núi, quá chút nữa là đến núi Đổi Chèo. Ghe (đò) ra, ghe vào đến quãng này nhất thiết các cô gái phải đổi tay chèo cho nhau, đỡ mỏi. Núi đổi chèo giống như một con trăn lớn đang bò trên mặt nước. Gần núi Đổi Chèo là núi Bưng. Gần núi Bưng là núi Voi. Núi Voi còn có một câu chuyện kể rằng:

Hương Sơn có một trăm ngọn núi thì 99 ngọn nghiêng đầu về phía động Hương Tích để tỏ lòng ngưỡng mộ. Đúng như câu thơ: "Núi xô về cửa động." Chỉ riêng một tên Voi bướng bỉnh, vô lễ quay đầu ra, quay mông vào. Ông Hộ Pháp giận quá lấy gươm phạt một mảng mông của tên voi. Bây giờ tên Voi vẫn mất một mảng mông.

LỊCH SỬ CHÙA HƯƠNG:

Tôi mời quý độc giả hãy cùng tôi tìm hiểu sơ qua về lịch sử của Hương Sơn, để có một khái niệm tổng quát về địa danh, thắng cảnh tuyệt đẹp mà nay đã được gắn liền với 5 chữ "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Non sông đất nước Việt Nam có biết bao nhiêu danh lam thắng cảnh do thiên nhiên tạo thành và cũng không ít những thắng cảnh do nhân tạo. Tuy nhiên, Chúa Trịnh Sâm là người đã nổi tiếng hay chữ và sành sỏi các thú du ngoạn xưa kia đã không phẩm bình Hương Sơn là một chốn "Sơn thuỷ hữu tình" (chữ đề bên suối Yến). Hay "Kỳ sơn tú thủy" (chữ đề bên suối Tuyết) mà còn phong cho Hương Sơn là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Hàm "đệ nhất" mà Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm dành cho Hương Tích vừa là sự so sánh, vừa là một sự khẳng định một chốn cảnh đẹp tuyệt vời mà không đâu sánh nổi trên đất nước ta. 

Đã trải qua hàng chục thế kỷ trước đây cho đến ngày nay, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm hiểu nhiều về vùng đất Hương Sơn, nhưng những cảnh quan sinh thái và di tích đã phát hiện trên đất Hà Tây được biết, trên đất Hương Sơn xưa kia đã sớm có dấu tích của con người. Nhưng nhận biết ra Hương Sơn như một cảnh quan thẩm mỹ và tâm linh, người ta nói nhiều đến truyền thuyết về một bộ tướng của Vua Hùng đời thứ 16 (Hiển Quan) đến xây Hương Tích, Bếp Trời (thiên Trù). Hay truyền thuyết bên bờ Suối Yến về một chàng trai tên Hùng Lang cùng thời với Ông Gióng cũng tham gia đánh giặc Ân, có công diệt được tướng giặc Thạch Linh, khi chết được phong làm phúc thần làng Yến Vĩ.

blank

Nhưng cứ theo sách "Hương Sơn Ký" của Nguyễn Uông người làng Thanh Oai (Hà Tây) làm đốc học Nam Định thì đến (Khoảng đời Hồng Đức (1470-1496) con đường vào Hương Sơn mới được mở… Nhờ đó mà phong cảnh kỳ thú của núi rừng mới lộ ra, rồi trở thành một kỳ quan lớn trong vũ trụ. Chính sức hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên Hương Sơn đã bồi đắp cho danh thắng này một giá trị lịch sử và đã trở thành nơi hội tụ của những danh nhân lịch sử về văn hoá dân tộc của những bậc đế vương còn lưu lại nơi các bia đá với những nét chữ để đời và những bài thơ Nôm hay Hán của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm vào năm Canh Dần (1770) người ta đã biết đến dấu tích của các bà Chúa, vợ của Trịnh Căn đã góp công, của để xây dựng các Chùa.

Các tao nhân mặc khách đến với Hương Sơn thường có những bài thơ còn để lưu truyền lại cho các thế hệ kế tục am hiểu được những cảnh quan tuyệt vời của Hương Sơn như: Chu Mạnh Trinh, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Cao, Cao Bá Quát, Bùi Di, Bùi Kỷ… rồi đến thế hệ Tản Đà, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Không kể đến những huyền tích về thời các Vua Hùng mà những chiếc trống đồng còn lưu lại nơi đây, trong đó có chiếc trống đồng tìm được ở Thượng Lâm (Mỹ Đức năm 1934) mang truyền thuyết là món quà của Đinh Tiên Hoàng tăïng cho dân làng cùng với dấu tích của con đường mang tên Vua Đinh.

blankCả một vùng thiên nhiên hùng vĩ và tuyệt đẹp của Hương Sơn kể từ khi được vua Lê Thánh Tông, vị vua sáng chói của Triều Lê phát hiện, đến nay đã trải qua đúng nửa thiên niên kỷ. Thời gian ấy, bên cạnh những huyền thoại, những truyền thuyết trải qua của một thời lịch sử xa xưa, cũng đã đủ để tạo dựng lên một bề dầy truyền thống với những giá trị lịch sử. Không những giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, đó là món quà của đất Mẹ trao cho hiện hữu, mà còn cả những di sản tinh thần đã được hun đúc từ khí thiêng sông núi, khí phách của các bậc tiền bối để lại cho cảnh quan Hương Sơn có cả bề rộng của không gian và bề dầy của lịch sử.

Đến chùa Hương tất cả các du khách từ bốn phương đổ về gặp nhau trong một trái tim. Cảnh sơn núi hữu tình, nên thơ. Trai gái trẻ già dập dìu dắt nhau lên chùa lễ Phật thật là "Bầu Trời Cảnh Bụt" bao la với những đoàn thiện nam, tín nữ từ khắp nơi đổ về hành hương chiêm bái, như thơ Tản Đà đã diễn tả:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu

Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết

Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.

Phong cảnh chùa Hương thật hữu tình, thơ mộng nhớ đến Bến Đục, Suối Yến, với giòng nước chảy nhẹ nhàng trên sông, in bóng những dãy núi chập chờn tô điểm cảnh thiên nhiên.

Theo tôi, những người Việt Nam cần phải tìm hiểu về các danh lam thắng cảnhquê nhà để mở rộng kiến thức và tầm hiểu biết về quê hương của mình, nhất là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Đời người ít nhất cũng phải du xuân chùa Hương một lần để chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt đẹp của Hương Sơn mà Chu Mạnh Trinh đã diễn tả với những giòng thơ như:

Kìa non non, nước nước mây mây
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình(1)

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng

Này am Phật Tích, này động Tuyết Kinh

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình.

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây

Chừng giang sơn còn đợi ai đây

Hay tạo hoá khéo ra tay xếp đặt

Lần hạt tràng niệm: Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao

Càng trông phong cảnh càng yêu.

(1) Chày kình: Cái chày đánh chuông, làm theo hình con cá kình.

Hay là chơi động Hương Tích của Trịnh Sâm đã diễn tả như sau:

Trời vừa hé sáng, bước lên thuyền
Khoan mái chèo lan, ghé bến tiên

Phong nguyệt thờ ơ bầu ngọc đúc

Giang Sơn bỡ ngỡ, bức tranh in

Kìa kìa qui phượng ngong kinh bối (1)

Nọ lân lòng lắng gió thiền (2)

Cảnh lạ thú màu khôn xiết kể

Thanh kỳ đệ nhất chốn Nam thiên.

(Tâm thanh tồn duy thi tập)
 

(1)Kinh bối: Kinh Phật viết trên lá bối
(2)Thiền: Nhà chùa, giáo thiền tức là giáo lý của nhà chùa.

Sau đây tôi xin mời quí độc giả hãy cùng tôi đi tìm hiểu một số di tích, lịch sử và những đặc tính tiêu biểu của Phật Giáo tại Hương Sơn để cùng nhau suy ngẫm về cảnh tích tuyệt vời, có một không hai của quê nhà:

- Phật Giáo đã đến với Hương Sơn từ bao giờ?

Nơi đây đạo Phật được truyền vào ngay từ khi phát hiện ra hang động Hương Sơn. Theo một số tài liệu chúng tôi khảo cứu thì vào đời Lê Thánh Tông thế kỷ thứ XV, có 3 vị Hòa Thượng chống tích Trượng tới đây tu hành, hàng ngày vào động Hương Tích lễ tụng, toạ thiền, tối lại ra khu vực Thiên Trù ngủ nghỉ. Hồi đó, Thiên Trù là một thung lũng hoang vu, 3 vị Hòa Thượng lần lượt dựng lên một thảo am để trú ngụ tránh mưa nắng, sau một thời gian 3 vị Hòa Thượng viên tịch thì nơi đây gián đoạn trụ trì. Tên tuổi các ngài cũng không ai nhớ rõ. Di tích của các ngài để lại đến nay chỉ còn lại là 2 ngôi mộ cổ bằng đá xanh, được đục đẽo thô sơ trong vườn tháp Thiên Trù. Ngày khoa cúng cổ ở Hương Sơn cũng chỉ gọi là "Kị Tổ Bồ Tát" và các ngài thuộc dòng phái nào cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ.

Đến năm 1687 - niên hiệu Chính Hoà mới có Hòa Thượng Trần Đạo Viên Quang ở Ty Tăng Lục (thời Lê lập ra Ty Tăng Lục để coi sócquản lý các vị tu hành) chống thiền trượng tới đây mới lập cảnh Phật ở Hương Sơn, tiếp theo là các vị Hòa Thượng Viên Quang, trụ trì khoảng 20 năm, Đaị Sư Thông Lâm thuộc giòng Thiền Lâm Tế, Hòa Thượng Thanh Quyết, HT Thanh Hữu… HT Thanh Quyết là một vị danh tăng đương thời, học thức uyên bác, phẩm hạnh thanh cao. Các nho sĩ bấy giờ đã tôn là "Tăng Trung Hào Kiệt".

Tiếp theo là các vị HT Thích Thanh Tích, Đại Sư Thanh Tích tu tập Đại bi Chân Ngôn và trì tụng Đại bi Bát Nhã, hoàng truyền Phật Pháp đồng thời đã đào tạo hàng trăm đệ tử danh tăng như các HT Tố Liên, Thanh Chân, Thanh Uẩn, Thanh Khánh, Thanh Nga, Thanh Châu…

Lịch sử đất nước cũng có lúc thăng trầm, nhưng không thể bị huỷ diệt, con người cũng có lúc lên lúc xuống, đường đời thật là chông gai, nhưng rồi cũng vượt qua.

Phật Giáo cũng vậy, đã trải qua 2000 năm trên đất nước VN là một chứng tích, đất nước thăng trầm thì Phật Giáo cũng nổi trôi theo sự tiến hóa của một dân tộc. Do đó, văn hóa Phật Giáo đã gán liền với văn hóa dân tộc Việt Nam vậy.

blankKhi các Thiền Sư chống tích trượng, dựng thảo amHương Sơnxây dựng nơi qui ngưỡng các du khách thập phương vân tập về chiêm bái ngôi Tam Bảo, tô bồi nơi danh lam của đất nước cho thế nhân du ngoạn. Có như vậy là đã làm tròn trọng trách giữa Đạo Phật và Dân Tộc. Giáo lý Phật Giáo đã tùy duyên bất biến ăn sâu vào lòng dân Việt từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nền văn hóa Phật GiáoHương Sơn đã được bản địa hóa nhận thức của con người đương thời. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvaha Boddhisattva) đã thành Phật Bà Chùa Hương, hình ảnh một người mẹ với tình thương bao la trong lòng người dân Việt.

Mỗi độ Xuân về thì lòng người lại thao thức rủ nhau đi "Trẩy Hội Chùa Hương" các du khách khi đến đây mới thấy "Bầu trời cảnh Bụt". Sau đây tôi xin mượn 4 câu thơ của Tản Đà để kết thúc bài Ký Sự này:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết
Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 701)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 702)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1382)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 910)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1516)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1382)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1248)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant