Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Tóm tắt lời giảng của HT Thích Thanh Từ

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12641)
05. Tóm tắt lời giảng của HT Thích Thanh Từ

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
TÓM TẮT LỜI GIẢNG CỦA THIỀN SƯ THÍCH THANH TỪ

THIỀN TÔNG: Cốt dạy người làm Phật, làm Tổ chứ không phải chỉ dạy tu phước đức cõi trời, Làm Tổ, làm Phật đâu phải là việc dung dị. Cho nên người bước vào cửa Thiền phải là Sư Tử con, phải gầm, phải hét, không phải như những con nai tơ nhút nhát kia...

Người tu theo Thiền Tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của mình. Khi nhận được bản tâm mới tin “TÂM tức PHẬT”. Khi nhận được bản tánh mới tin “TÁNH MÌNH ĐẦY ĐỦ TẤT CẢ” xưa nay vẫn thanh tịnh Nhưng tâm tánh ở đâu? Thế nào? Tất cả người tu Phật đều thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi Tâm Tánh ở đâu? Thế nào? thì khác gì “Người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật”, biết bao giờ thấy được Phật?

Thật không xa nếu chúng ta can đảm tin nhận, thì nó sờ sờ trước mắt. Bởi từ lâu chúng ta cứ để cho bao nhiêu vọng tưởng hư ảo giả dối như: Lo lắng, phiền não, tham muốn, thương ghét, tốt xấu bám víu bản tâm làm lu mờ TÁNH GIÁC nên chúng ta không thấy được mặt thật của nó. Chúng ta phải mạnh dạn gạt bỏ những chướng ngại đó, ví như đám mây đen che mất ánh sáng mặt trăng khả dĩ mới trực nhận “CHÂN TÂM, PHẬT TÁNH” chính mình. Thiền Tông lấy bản tâm làm chủ nên sự tu thiền là sống trở lại với Ông Chủ của mình trong mọi hành động, mọi thời gian.

Tất cả hình thức bên ngoài đối với người tu thiền không có gì là quan trọng. Huống nữa, quên tâm mình chạy theo hình thức bên ngoài càng tu càng xa đạo, càng không thấy Phật. PHẬT là GIÁC, nếu chúng ta cầu Phật mà quên Tâm, thử hỏi bao giờ thấy Phật? Vì Tâm là Phật, khi chúng ta khởi một niệm ác, khởi một niệm Thiện thì Phật biết liền, hơn nữa khởi một niệm là TẠO MỘT NGHIỆP. Chúng ta sợ nghiệp thì phải dứt niệm, luôn sống với bản tâm thanh tịnh của mình.

Những hình tượng Phật, Bồ Tát thờ bên ngoài, chỉ là phương tiện gợi lại cho chúng ta nhớ BẢN TÂM mình. Nếu chúng ta không chịu nhớ lại bản Tâm, cứ cầu cạnh, vái van nơi hình tượng bên ngoài thật là một việc làm trái đạo. Vì không có sự giác ngộ nào ngoài Tâm mà có.

Chơn Tâm hằng lộ liễu trong mọi hành động của ta. Nếu trực nhận là thấy. Người học đạo không chịu ngay nơi hành động trực nhận chân Tâm, mãi cầu thiện trí thức chỉ dậy cho thể hội. Nhưng làm sao chỉ dậy được, vừa nói ra là đã sai rồi. Tu Thiền nên chú ý hành động hàng ngày:

Cái NGHE, cái THẤY, cái BIẾT cái XÚC CHẠM, do sáu căn tiếp xúc sáu trần thể hiện cái dụng của CHƠN TÂM rồi, Cái Thể của CHƠN TÂM là ĐỊNH, có ĐỊNH thì HUỆ mới hiện.

Tu thiền phải dẹp sạch bản ngã, dù bản ngã Thánh cũng không còn thấy sở đắc là còn bản ngã, chưa thật giải thoát. Ví dụ ngồi thiền tôi thấy tướng lạ, thấy ánh sáng, thấy hình Phật, thấy hào quang, nghe âm thanh hay, ngửi mùi thơm v.v... đó là tướng sở đắc, còn bản ngã. Được không dính mắc mới tự tại giải thoát, còn dính mắc một chút quả vị nào cũng là chưa tự tại, chưa thực sự giải thoát. Thế mà người tu thiền hiện nay ngồi là mong được nhiều giờ, mong thấy cái này, mong chứng quả kia. Khởi Tâm vọng cầu như vậy làm sao không lạc vào cảnh giới ma? Làm sao tránh khỏi Tâm bị cuồng loạn?

blank

Cư Sĩ Nguyễn Đức Can PD Tuệ Minh Đạo đến thăm HT 
Thích Thanh Từ tại Trúc Lâm Thiền Viện Đà Lạt.

Ngồi Thiền, Tâm được thanh tịnh, an ổn, đừng KHỞI NGHĨ tôi được an ổn thanh tịnh, đó là bệnh. Trong nhà Thiền hay nói “ĐẦU THÊM ĐẦU” là vậy. Thanh tịnh biết mình thanh tịnh là đủ. Vọng tưởng biết có vọng tưởng cho nó qua luôn, lâu ngày Tâm thuần thục, vắng lăïng, bóng trăng Phật của mình sẽ chiếu rọi, đến đó sẽ biết tất cả giáo lý của Phật, vì KHO TÀNG KINH ĐIỂN TAM TẠNG GIÁO LÝ cũng trong tâm mà ra. Đọc kinh sách Phật, đọc tới đâu hiểu tới đó, không cần ai giảng dạy, đấy là VÔ SƯ TRÍ phát hiện. những kẻ lý thuyết giỏi, giảng kinh hay, chỉ là TRÍ HỮU SỰ, trí này do nói lời kinh của Phật dậy, lời giảng của các bậc cao tăng rồi nhớ nói ra thì có giới hạn.

Mong quý vị Phật tử tu thiền nên nhớ trở về Tâm mình, là ÔNG CHỦ của mình, gạt bỏ những phàm tình, những vọng tưởng hư dối, có ngày sẽ thấy được CHƠN TÂM (ông Phật của mình).

 Phải gan dạ chịu đựng
 Và xem thường tất cả
 Hãy giữ vững niềm tin
 Bền chí tất sẽ được.

Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi
Mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Ca dao.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 162)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 619)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 701)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 491)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1382)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 911)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1059)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1156)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 816)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 970)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1394)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1249)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant