Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Quan niệm Thiên đàng hay địa ngục

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13287)
08. Quan niệm Thiên đàng hay địa ngục

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
QUAN NIỆM THIÊN ĐÀNG HAY ĐỊA NGỤC

Tất cả những con người trên thế gian này đang sống giữa quãng đời đua chen, tranh đấu, tìm đủ mọi thủ đoạn để giành hơn thua lẫn nhau, kẻ giầu còn muốn giàu thêm, mọi người từ già đến trẻ, ai ai cũng ngày đêm suy nghĩ, tìm ra trăm phương ngàn kế để lo cho ta, cho gia đình rồi lại lo cho thân bằng quyến thuộc, làm sao cho hơn người khác, cứ như thế ai ai cũng mang trong người cái nghiệp, nghiệp tham, sân, si. Ít có ai nghĩ đến quả báo, một ngày nào đó rồi ta cũng phải chết, chỉ gặp một chút nghịch cảnh là hồn lìa khỏi xác. Bạn bè thân hữu như kẻ bạn đường, vàng bạc, châu báu, tiền của chỉ là phương tiện sinh nhai nào có chi chắc thật.

Cái chắc thật là linh hồn, còn gọi là thần thức, chỉ có linh hồn mới có cái thật, tất cả các tôn giáo, Phật Giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Nho giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo, Hòa Hảo... Các vị thánh nhân sáng lập ra các thuyết giáo, để truyền bá cho mọi người chỉ nhắm mục đích, răn dạy, khuyên bảo cho nhân loại trên thế gian loại bỏ các ý nghĩ và hành động gây nghiệp báo. Thật vậy, nếu ta chịu khó đọc sách, nghiên cứu và dành thì giờ đi nghe thuyết pháp của các vị chân tu truyền giáo, ta có thể cải đổi được bản ngã và hiểu được linh hồn là phần quan trọng đối với ta khi nhắm mắt ngàn thu.

Hiện nay chúng ta đang đứng giữa hai con đường, con đường nuôi thân ích kỷ, tham lam, ác độc, si mê dẫn đến địa ngục khổ đau. Con đường khác là nuôi tâm vị tha, bố thí, từ bi, sáng suốt dẫn đến thiên đàng, an lạc. Nếu ta theo con đường nuôi thân tội lỗi thì thân chúng ta phạm ba tội: Sát sanh, trộm cắpdâm dục. Miệng phạm 4 tội: nói láo, vu oan giá họa, nói thêm bớtchửi rủa. Ý ta cũng phạm 3 lỗi: Tham lam, sân hận và cuồng si. Bây giờ chúng ta quay về nẻo thiện thì thân, miệng và ý sẽ quay đầu trở lại: Thân không sát sanhphóng sanh, giúp người không cầu lợi, miệng nói lời chân thật, đứng đắn, hòa giảidịu dàng, ý không tham lam mà phải bố thí, từ bisáng suốt. Ở đây, vì đức mỏng, tội dày nên chúng ta chưa dám nghĩ đến cảnh niết bàn của chư Phật đầy đủ 4 đức: Chân thường, chơn lạc, chơn ngã, và chơn tịnh mà tôi chỉ bàn đến ác và thiện, khổ và vui để định rõ hai con đường hầu giúp chúng ta cùng đi.

Tôi sinh ra và lớn lên hấp thụ trong một gia đình nho giáo, có lẽ đối với hiện tại thì đã lỗi thời, theo quan niệm của một số người. Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được những điều tôi đã học, học sinh lúc đó đối với thầy rất tôn kính, trọng thầy như cha đẻ, sống thì tết chết thì giỗ, đã là đồng môn thì tất cả đều phải đóng góp để nuôi thầy, tết thầy, và khi thầy chết phải làm giỗ, cùng góp sức với các con đẻ của thầy.

Nếu chúng ta cứ lấy ân oán, để trả thù lẫn nhau thì không bao giờ hết. Khổng Tử cũng đã dậy cho ta rằng “Oan oan tương báo, ác giả ác báo, thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Nếu ai cũng cứ nghĩ đến hơn thua, ân oán giang hồ thì nghiệp chướng oan gia cứ chồng chất, không bao giờ hết nạn binh đao, không bao giờ hết được cái tội lỗi của con người đã gây ra.

Mạnh Tử cũng đã phát huy chủ thuyết Khổng Tử để khuyên răn người đời cần phải có Đức. Đức được tạo dựng bởi Đạo, Đạo là một con đường hướng dẫn ta đi đến Chân, Thiện, Mỹ hầu đạt được cái Đức, cho nên ngài đã nói “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo”. Đạo không thể xa con người, người không thể xa Đạo, tất cả ai ai trên thế gian này cũng phải có Đạo. Đạo đây là đạo ông bà, cha mẹ đã để lại những lời vàng thước ngọc và các Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Nho, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo v.v...

Vậy, nếu ai chưa có Đạo thì hãy tìm lấy một con đường cho linh hồn khi quá vãng, đó là theo Đạo, Đạo PhậtĐạo từ bi hỷ xả, một trong những lời dậy của Đức Thế Tôn để ta lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời của mình là: “Lấy ân báo oán thì oán tiêu tan. Lấy oán báo oán, thì oán chồng chất.” Đến đây tôi xin dẫn giải một vài thuyết của các danh nhân: Lão Tử đã nói: “Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân, nhược ngô vô thân hà hoạn chi hữu” Ta có hoạn lớn do ta có thân, bằng ta không thân làm gì có hoạn. Không phải ta tạo tội mà cứ chịu quả báo nhất định, mà theo Phật dậy, ta còn có phương pháp cải thiện được, không có gì khó, một anh đồ tể nếu biết ăn năn hối cải buông dao sám hối cũng có thể thành Bồ Tát được.

Nho giáo có câu: 

Thế sựvạn sự.
Đô lại tâm bất chuyên,

Tạc sơn thông đại hải,

Phi vụ đỗ thánh thiên.

Tạm dịch :

Ở đời không có việc gì khó,
Đều do Tâm không chuyên mà thôi,

Có thể đục núi thông ra biển,

Vén mây núi thấy trời xanh.

Lại có câu “Nhất chí đông khí, nhơn định thắng thiên”. Nghĩa là quyết chí thì có một năng lực mạnh, mình định lấy nghiệp mình không phải trời làm cho. Vì chúng ta không chịu làm, cứ xuôi tay theo định mệnh thế thôi, bằng muốn cải thiện cho khỏi tai ương cũng như quả báo nơi địa ngục, thì nên cố gắng tập ăn chay, không sát sinh, thường ngày tụng kinh niệm Phật, nhờ Phật cầu sanh về Tịnh Độ, chớ có chần chờ, thân người khó đặng, Phật Pháp khó gặp, sống ngày nay khó bảo đảm ngày mai, thân như cá cạn nước, có vui gì mà chẳng lo tu.

Nếu ai không hiểu được thế nào là địa ngục, linh hồn đi về đâu sau khi qua đời, chỉ biết sống cho hiện tại, bồi đắp cho thể xác không nghĩ đến kiếp sau, khi thân xác này trong tích tắc đã qua đi, linh hồn sẽ trở về địa ngục vì ta đã quá tham lam, ích kỷ, gây nhiều tội ác. Địa ngục, âm phủ, danh từ này không phải xuất xứ từ các tôn giáo, mặc dầu tôn giáo nào cũng nhìn nhận có địa ngục, âm phủ, ngước lên trời ta thấy bầu trời xanh bao la, thanh bạch, nhìn xuống ta thấy hỗn loạn ô trược. Do đó, người ta có một khái niệm rõ rệt về âm, dương hay thiên đàng, địa ngục vậy.

Lão giáo cho rằng: “Khinh quang thắng thượng, trông ám trầm học”. Đạo Gia Tô gọi là thiên đàng, tất cả các tín đồ Thiên Chúa dường như ai cũng thuộc lòng câu “Ai làm lành tin theo Chúa, được lên thiên đàng, ai làm ác phải bị phạt nơi địa ngục” Phật Giáo nói: “Ba cõi dục giới, vô sắc giới, cộng chung có 38 cõi trời và theo Duy Thức luận: “Nhất thiết do tâm, vạn pháp duy thức”. Thiên đàng hay địa ngục đều do Tâm tạo, cho đến siêu lên giải thoát thành Phật cũng đều do Tâm, những hiện cảnh đang thấy đây là địa ngục, thiên đàng nơi xa xôi thanh bạch hoặc mờ ám kia cũng do Tâm tạo ra cả. Cao Đài Giáo trong bài sám hối có câu:

- Hình bảo lục, cột đồng vòi vọi,
- Đốt lửa hồng, ánh sáng chói loà,
- Trói người vào đó xát chà,
- Vì chưng hung bạo, đốt nhà bắn săn.

Nói tóm lại các tôn giáo đều công nhậnquả quyết rằng có “Địa ngục”. Người ngoài các tôn giáo kém lòng tin cũng phải nhận có địa ngục như: Hiện cảnh nơi khám đường, những người có bổn phận điều tra giám sát hiện nay họ đâu có thù oán gì, mà cứ tra tấn đánh đập tội nhân, cũng như quỷ sứ hiện tạithù hằn gì với vong giả mà cứ cưa xẻ, đánh đập như vậy, đó là oan gia thù đối nhiều kiếp, nên tạo cảnh khám đường cũng như địa ngục nên Nho Giáo có câu “Dương gian âm phủ đồng nhất lý”.

Lênh đênh qua cửa trần phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm

Thế mà chẳng biết nổi lên ở đâu? Chìm xuống ở đâu? Khéo tu những gì? Và vụng tu là sao?. Nếu ta chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảochuyên cần đi chùa lễ Phật, đi nghe thuyết giảng của các vị chân tu truyền giáo những điều của các thánh nhân để lại trong các kinh sách, ta có thể tạo cho Tâm có được niềm tin để tu thân, tích đức vậy.

Trời Phật ở tại lòng ta
Làm lành, lánh dữ, ấy là đức tin
Ta tin có trời, có đất
Có mưa, có gió, có ngày, có đêm
Hết đêm trời lại bừng sáng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 60)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 222)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 187)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 795)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 798)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 792)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 681)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 803)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1042)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1086)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1083)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1230)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1940)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1316)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1041)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1237)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant