I.
Đức Phật với mục đích duy nhât cứu khổ, độ sinh.
Đức
Phật, dầu ở trong cung điện, thụ hưởng nhiều dục lạc,
nhưng Ngài thấy được sự đau khổ sanh, lão, bệnh, tử đè
nặng trên kiếp sống con người. Nên Ngài đã từ bỏ ngai
vàng, xuất gia, tìm cho dược phương pháp cứu khổ cho loài
Người, cho chúng sinh. Kinh Thánh Cầu (số 26, Trung Bộ I, 163)
nêu rõ: “Chưa thành Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ tát,
Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái
bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết Bàn... tự mình bị già... tự mình bị
bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình
bị uế nhiễm... Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị
già... bị bệnh... bị chết... bị sầu. Sau khi biết rõ sự
nguy hại của cái bị uế nhiễm, hãy tìm cầu cái không uế
nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn”.
Khi Ngài thành Đạo, dưới cây bồ đề, tức là Ngài đã
tìm ra được pháp môn, giúp Ngài đoạn trừ được sự đau
khổ về sanh, già, bệnh, chết. Trong đó năm thuyết pháp độ
sanh, tức là Ngài thuyết pháp môn cứu khổ, mà Ngài đã chứng
ngộ, chỉ vì mục đích trừ khổ, đem lại an lạc cho chúng
sinh. Trọn đời Ngài, từ khi xuất gia, cho đến khi nhập Niết
Bàn, Ngài không bao giờ quên mục đích cứu khổ, độ sanh
của Ngài. Lời dạy sau này làm nổi bật tâm trạng của một
bậc Đạo sư canh cánh bên lòng trách nhiệm cứu khổ độ
sanh của Ngài: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ
nói lên sự khổ và diệt khổ (Trung bộ I, 140)”. Lời dạy
này đức Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trong kinh điển
của Ngài.
Ngài
được diễn tả như một bậc Đạo sư, luôn luôn đem lại
hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh: “Một vị hữu tình không
bị si chi phối, đã sanh ra ở đời, vì hạnh phúc cho chúng
sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người (Trung Bộ I, 83)”.
Tôn giả Udàyi trong khi Thiền tịnh độc cư, nói lên lời
tán thán đức Phật: “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn
trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị
đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự
là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta.
Thế Tôn thật sự là vị đã đem lại nhiều thiện pháp cho
chúng ta (Trung Bộ II, 448A)”. Lời khích lệ của đức Phật
cho 60 vị A-la-hán đầu tiên, khuyên du hành để thuyết pháp
độ sanh, nói lên tâm nguyện từ bi cứu khổ, độ sanh của
Ngài: “Này các Tỳ kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần
chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài Người (Tương ưng I, 128)”. Một lời tuyên bố nữa,
rất đặc biệt của Ngài, nói lên thái độ không tranh chấp
hơn thua của Ngài đối với bất cứ một ai. Ngài thuyết
pháp chỉ với mục đích duy nhất là làm vơi nhẹ sự đau
khổ của mọi loài chúng sinh: “Này các Tỳ kheo, Ta không
tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này
các Tỳ kheo, người nói pháp không tranh chấp với một ai
ở đời (Tương ưng III, 165)”. Do vậy, hình ảnh bậc Đạo
sư của chúng ta là hình ảnh của một vị luôn luôn ung dung
tự tại, không âu lo, không sợ hãi, không phiền não, ngày
đêm chỉ nuôi dưỡng lòng từ, thương xót chúng sinh, như
đã được diễn tả trong bài kệ sau đây:
“Khi
thức không âu lo,
Khi
ngủ chẳng sợ hãi,
Ngày
đêm không khởi lên,
Phiền
não bận lòng Ta.
Ta
không thấy tai hại
Một
chỗ nào trên đời.
Do
vậy Ta nằm ngủ,
Tâm
từ thương chúng sinh.” (TƯ. I, 136)
Như
vậy Từ bi cứu khổ chúng sinh là động lực chính khiến
Ngài xuất gia, tầm đạo, chứng đạo và thuyết pháp là sợi
chỉ đỏ thông suốt qua đời Ngài từ khi Đản sanh đến
nhập Niết Bàn, là cốt lõi của 45 năm hoằng hóa độ sanh.
Và cũng vì vậy, đức Phật của chúng ta được tôn xưng
là đức Từ Phụ, vị cha lành muôn thuở; và đạo Ngài được
đề cao là đạo Từ bi cứu khổ.
II.
Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con đường giải
thoát cho mình và cho mọi người.
Đức
Phật là vị Đạo sư đã tự mình tìm ra được pháp môn
giải thoát ngang qua kinh nghiệm bản thân, không có ai truyền
dạy cho Ngài, không có ai ban phép cho Ngài, không phải do thần
khởi, cũng không phải là hiện thân hay hóa thân của một
đấng thần linh nào. Ngài là một người như chúng ta, nhưng
chính nhờ tự lực cá nhân, tìm ra được con đường giải
thoát.
Sau
đây, là những kinh nghiệm được ghi lại về đời sống
đầy dục lạc, khi đức Phật còn là Thái tử, thái độ
đức Phật đối với vấn đề sanh, lão, bệnh, tử và đối
với ba sự kiêu mạn của tuổi trẻ, không bệnh và của sự
sống: “Này các Tỳ kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị,
tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế
nhị. Này các Tỳ kheo, trong nhà Vương phụ Ta, các hồ nước
được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ
có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng. Tất cả phục
vụ cho Ta. Không một chiên đàn nào Ta dùng, này các Tỳ kheo,
là không từ Kàsi đến. Bằng vải Kàsi là áo cánh, bằng
vải Kàsi là nội y, bằng vải Kàsi là thượng y. Đêm và
ngày một lọng trắng được che chở cho Ta để tránh xúc
chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ, hay sương. Này các Tỳ kheo, ba
lâu đài được xây dựng cho Ta, một cho mùa đông, một cho
mùa hạ, một cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỳ kheo, tại lâu
đài mùa mưa, trong 4 tháng, được những nữ nhạc công đoanh
vây, Ta không có xuống lầu. Với Ta, này các Tỳ kheo, được
đầy đủ về sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi
dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ rằng: “Kẻ phàm phu
ít nghe, tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy
người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm,
quên rằng mình cũng như vậy Ta cũng bị già, không vượt
qua khỏi già, khi thấy người khác già, Ta có thể bực phiền,
hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng đáng cho
Ta. Sau khi
quán
sát về Ta như vậy, này các Tỳ kheo, sự kiêu mạn của tuổi
trẻ được đoạn trừ hoàn toàn”. Kẻ phàm phu ít nghe, tự
mình bị bệnh, tự mình bị chết, không vượt khỏi chết,
thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê
tởm, quên rằng mình cũng như vậy: “Ta cũng bị chết, không
vượt qua khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, ta có
thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không
xứng đáng cho ta”. Sau khi quán sát về ta như vậy này các
Tỳ kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được
đoạn trừ hoàn toàn (Tăng Chi I, 162-163)”.
Ở
đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ đức Phật của chúng ta
khi còn làm Thái tử, được hưởng thụ dục lạc ở đời
không để các dục lạc ấy làm cho say đắm si mê, vẫn ý
thức được rằng sanh, già, bệnh, chết vẫn đang đè nặng
trên kiếp sống của con người, và nhờ vậy đoạn trừ được
ba sự kiêu mạn, kiêu mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của
không bệnh trong không bệnh, kiêu mạn của sự sống trong
sự sống.
Chính
nhờ ở kinh nghiệm bản thân, về những dục lạc ở đời,
chính nhờ quan sát sáng suốt về thực trạng của già, bệnh,
chết của chính mình và tất cả mọi người, nên đức Phật
của chúng ta vượt qua sự kiêu mạn của tuổi trẻ, của
không bệnh, của sự sống, để sau này từ bỏ tất cả,
xuất gia tu đạo.
Khi
Ngài quyết định từ bỏ ngai vàng, châu báu, vợ đẹp, con
thơ, tầm đạo giải thoát, chúng ta được nghe đức Phật
kể qua sự học đạo của Ngài với Alàra Kàlama và Udaka Ràmaputta,
hai vị ngoại đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ, và sau này,
là kinh nghiệm bản thân của đức Phật, khi học đạo với
Alàra Kàlama như kinh Thánh Cầu (Trung Bộ, I, 164B) đã khéo
chép: “Này các Tỳ kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alàra Kàlama
ở, sau khi đến, Ta nói với Alàra Kàlama: “Hiền giả Kàlama,
cho đến mức độ nào, ngài tự tu, tự chứng, tự đạt và
tuyên bố pháp này?” Này các Tỳ kheo, được nói như vậy,
Alàra Kàlama tuyên bố về vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỳ
kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ Alàra Kàlama có lòng tin,
Ta cũng có lòng tin; không phải chỉ Alàra Kàlama tinh tấn,
Ta cũng có tinh tấn; không phải chỉ Alàra Kàlama có niệm,
Ta cũng có niệm; không phải chỉ Alàra Kàlama có định, Ta
cũng có định; không phải chỉ Alàra Kàlama có tuệ, Ta cũng
có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alàra
Kàlama, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, đã tuyên bố”.
Rồi này các Tỳ kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng,
tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Này các Tỳ
kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến nhàm
chán, đoạn diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn,
mà chỉ đưa đến chứng đạt vô sở hữu xứ”. Như vậy,
này các Tỳ kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và nhàm chán pháp
ấy, Ta bỏ đi.”
Tiếp
đến là nếp sống khổ hạnh, đức Phật tự mình hành trì
luôn trong 6 năm, dựa trên kinh nghiệm bản thân của Ngài.
Đoạn văn sau đây diễn tả hạnh ăn ít của Ngài, chính hạnh
này khiến Thế Tôn gầy mòn, chỉ còn da bọc lấy xương như
đã được diễn tả trong các bức tượng Tuyết sơn, khắc
ghi lại sự khổ hạnh đặc biệt của đức Thế Tôn. (Kinh
Sử Tử Hống. Trung Bộ I, 80).
“Vì
Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ, hay
những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của
Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương
sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá
ít, xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà
sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta
nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt; giống như ánh nước long
lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn
quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí
đắng màu trắng cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm
cho nhăn nheo khô cằn”.
“Này
Sàriputta, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng”, chính xương
sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”,
chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sàriputta,
da bụng của Ta đến bám chặt lấy xương sống. Này Sàriputta,
nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện”, hay “đi tiểu tiện”,
thì Ta ngã gục, úp mặt xuống đất. Vì Ta ăn quá ít, này
Sàriputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân
tay, các lông tóc hư mục, rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá
ít”.
Đức
Phật của chúng ta đã tự mình hành trì khổ hạnh, và sáu
năm hành trì không có kết quả, Ngài cương quyết từ bỏ
khổ hạnh và bắt đầu hướng đến hành Thiền, như đoạn
kinh sau nêu rõ: “Này Aggivesana, rồi Ta suy nghĩ như sau: Ta
biết trong khi phụ thân Ta thuộc dòng dõi Sakka đang cày, và
Ta đang ngồi dưới bóng mát, dưới cây Diêm Phù Đề, Ta ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ...” Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này, có thể đưa
đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivesana, tiếp theo niệm ấy,
ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến
giác ngộ”.” (Trung Bộ I, 240B).
Từ
kinh nghiệm bản thân này, đức Phật từ bỏ khổ hạnh, hành
trì Thiền định, chứng được Thiền thứ nhất, Thiền thứ
hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư, chứng được Túc mạng
minh, Thiên nhãn minh.
Đức
Phật dạy tiếp: “Và với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong
sáng, không cấu nhiễm, không phiền não nhu nhuyến dễ sử
dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy, Ta hướng tâm đến
lậu tận trí, Ta biết như thật: “Đây là Khổ”; Ta biết
như thật: “Đây là Khổ tập”; Ta biết như thật: “Đây
là Khổ diệt”; Ta biết như thật: “Đây là các lậu hoặc”;
Ta biết như thật: “Đây là các lậu hoặc”; Ta biết như
thật: “Đây là lậu hoặc tập khởi”; Ta biết như thật:
“Đây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ hiểu
biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối
với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu
biết: “Ta đã giải thoát”. Ta biết: “Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Không còn trở
lui trạng thái này nữa.”” (Trung Bộ I, 248).
Như
vậy, cũng với kinh nghiệm bản thân, từ bỏ khổ hạnh, tu
tập Thiền định, phát triển trí tuệ, bậc Đạo Sư của
chúng ta thành tựu Chánh Đẳng Giác và trở thành đức Phật.
Ở đây, chúng ta thấy rõ, bậc Đạo Sư không nhờ một đấng
thần linh nào mách bảo, hộ trì, hướng dẫn. Hoàn toàn do
kinh nghiệm bản thân, do tự lực cá nhân, Ngài đã tự mình
tìm được con đường giải thoát, tự mình thực hành con
đường ấy để được giải thoát và giảng dạy lại cho
chúng ta con đường tự lực tự cường, đưa đến giải thoát
giác ngộ. Chúng ta có thể nói, đối với các tư tường ngoại
đạo đương thời, Ngài tự thân tầm học và chứng đắc.
Nói đến khổ hạnh và hành Thiền, Ngài tự thân hành trì
khổ hạnh và Thiền định. Nói đến giác ngộ, giải thoát,
Ngài tự thân phát triển Ba minh để cuối cùng tự mình giác
ngộ giải thoát. Nói một cách khác, Ngài chỉ dạy những
gì Ngài đã thân kinh nghiệm và pháp môn Giới, Định, Tuệ
là kết tinh của những năm tháng, tự tu, tự chứng và tự
giác ngộ. Do vậy chúng ta không lạ gì khi Thế Tôn hoan nghinh
lời chỉ trích phê bình của Sunakkhatta (Trung Bộ I, 69), mà
Ngài xem như là phản ảnh trung thực nhất, đối với pháp
Ngài giảng dạy: “Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự
mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm
và thuyết cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng
thượng có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”.
III.
Vị trí có một không hai của đức Phật
Đề
cập đến bậc Đạo Sư của chúng ta, chúng ta cần nhấn mạnh
đến vị trí có một không hai của đức Phật, vị trí này
cho chúng ta thấy không thể có một đức Phật thứ hai trong
suốt hiện kiếp đức Phật tại thế.
Tăng
Chi Bộ Kinh Tập I, trang 37 ghi chép: “Sự kiện này không xảy
ra, này các Tỳ kheo, không có được, trong một thế giới
có hai vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, không trước không sau,
xuất hiện một lần; sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện
này có xảy ra, này các Tỳ kheo, trong một thế giới chỉ
có một vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện; sự kiện
này có xảy ra”.
Như
vậy chúng ta có thể nói, trong hiện kiếp hiện tại, tại
thế giới này chỉ có một đức Phật, không có hai đức
Phật. Có thể có sáu đức Phật quá khứ như đức Phật
Tỳ-bà-thi, đức Phật Thi-khí v.v. . . Nhưng thuộc vào kiếp
quá khứ không thuộc kiếp hiện tại, và có đức Phật Di-Lặc
nhưng thuộc vào kiếp tương lai, không thuộc kiếp hiện tại.
Như vậy vị trí của đức Phật Thích-ca Mâu-ni thật là độc
nhất vô nhị, ngay trong hiện kiếp của thời đại chúng ta,
và trong thế giới mà chúng ta đang sống. Từ nơi vị trí
độc nhất vô nhị này, Tăng Chi Bộ kinh tập I trang 29 nói
rõ thêm:
“Một
người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất
hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có
so sánh, không có tương tự, không có đối phần, không có
người ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các loài hai chân.
Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, một người này, khi xuất hiện ở đời, là xuất
hiện một người không hai, không đồng bạn, không có so sánh,
không có tương tự, không có người ngang hàng, không có ngang
bằng, không có đặt ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các
loài hai chân”.
Như
vậy đức Phật không có một ai có thể sánh bằng, không
có tương tự đưa đến một vấn đế mới, đức Phật đứng
trên vị trí gì để trở thành một bậc Tối thượng ở
đời không ai có thể sánh bằng. Trung Bộ kinh III trang 110
nói lên địa vị tối thượng này của đức Phật.
“Không
có một vị Tỳ kheo, này Bà-la-môn , thành tựu một cách trọn
vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu Này Bà-la-môn, Thế
Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được
hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng
được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng nói,
là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo”.
Với
đoạn kinh trên, chúng ta thấy vị trí độc nhất vô nhị
của đức Phật mà Ngài là vị đã làm khởi dậy, đã làm
cho biết, đã nói lên con dường trước đây chưa từng được
ai khám phá. Con đường ấy là gì?
Chính
là tiến trình giác ngộ giải thoát mà chính tự Ngài đầu
tiên khám phá ra, tự mình tu tập con đường ấy và tự mình
giác ngộ nhờ đã đi trên con đường ấy. Tiến trình ấy
là một tiến trình gồm có 5 giai đoạn, bắt đầu từ Giới
rồi đến Định, Tuệ, Giải thoát, và Giải thoát tri kiến.
Con đường ấy đã được cô đọng một cách tuyệt diệu
thành con đường Thánh mười ngành bắt đầu từ Chánh tri
kiến và kết thúc bằng Chánh định. Chánh trí và Chánh giải
thoát.
Từ
nơi đây chúng ta không có lấy làm lạ khi thỉnh thoảng đức
Phật rống lên tiếng rống con sư tử, tiếng rống nói lên
thế ưu việt của Chánh pháp, như được diễn tả trong Trung
Bộ kinh, tập I, trang 63: “Này các Tỳ kheo, chỉ ở đây (tức
chỉ trong Pháp và Luật do đức Phật thiết lập) chỉ ở
đây là đệ nhất Sa-môn, ở đây là đệ nhị Sa-môn, ở
đây là đệ tam Sa-môn, ở đây là đệ tứ Sa-môn. Các ngoại
đạo khác không có Sa-môn”.
Tiếng
rống con sư tử này xác nhận rằng chỉ có tiến trình Giới,
Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, được cô đọng
trong con đường Thánh mười ngành do đức Phật thiết lập
mới đào tạo ra được đệ nhất Sa-môn, tức là các vị
Dự lưu, các đệ nhị Sa-môn tức là các vị Nhất lai, các
đệ tam Sa-môn tức là các vị Bất lai, các đệ tứ Sa-môn
tức là các vị A-la-hán.
Từ
nơi lời xác chứng có tính cách quyết định dứt khoát này,
chúng ta mới hiểu câu trả lời của đức Phật nói với
Upaka, một du sĩ ngoại đạo đã hỏi đức Phật là ai, khi
đức Phật đi từ Bồ đề đạo tràng đến vườn Lộc Uyển,
để thuyết pháp cho Kiều Trần Như với bốn người bạn.
Khi Upaka gặp đức Phật với các căn trong sáng, vị du sĩ
ngoại đạo liền hỏi: “Các căn của Hiền giả thật sáng
suốt, màu da của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết.
Này Hiền giả, vì mục đích gì Hiền giả xuất gia? Ai là
bậc Đạo Sư của Hiền giả?”. Đức Phật liền trả lời
vời bài kệ:
“Ta
không có Đạo Sư!
Bậc
như Ta không có.
Giữa
thếgiới nhân thiên,
Không
có ai bằng Ta!”
(Trung Bộ Kinh tập I, trang 171)
Câu
trả lời này khiến cho nhớ đến câu “Thiên thượng thiên
hạ, duy ngã độc tôn”, được xem là đức Phật tuyên bố
khi Ngài đản sanh và đi bảy bước. Và câu này cũng được
diễn theo truyền thống Pàli với lời tuyên bố, như đã được
ghi trong Trường Bộ Kinh I, trang 151: “Ta là bậc Tối tôn
ở đời. Ta là bậc Trưởng thượng ở đời. Ta là bậc Tối
thượng ở đời. Nay là đời sống cuối cùng của Ta. Nay
Ta không còn tái sanh nữa”. Như vậy hai lời tuyên bố tuy
từ hai truyền thống khác nhau, nhưng cùng nói lên địa vị
độc tôn đức Phật. Đây không phải là lời tuyên bố ngạo
mạn nhưng có thể bị hiểu lầm. Thực sự chỉ là một lời
tuyên bố nói lên vị trí có một không hai của đức Phật,
là một vị đã tự mình khám phá và giảng dạy đạo lý
giải thoát và giác ngộ. Lời tuyên bố này cũng nói lên vị
trí có một không hai của Chánh pháp, tức là tiến trình giải
thoát giác ngộ Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát
tri kiến... Chính tiến trình này đã được đức Phật thân
chứng và dạy lại cho các đệ tử Tỳ kheo, Tỳ kheo ni của
Ngài tu học để được chứng quả A-la-hán như Ngài.
Với
đức Phật, tự mình đã giác ngộ, khi Ngài mới thành Chánh
giác, Ngài khởi lên một tư tưởng rất khiêm tốn. “Thật
là khó khăn, sống không cung kính, không vâng lời. Vậy Ta
hãy đảnh lễ, cung kính và sống y chỉ vào Sa-môn hay Bà-la-môn...
Với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa đầy đủ,
làm cho đầy đủ định uẩn chưa đầy đủ... làm cho đầy
đủ tuệ uẩn chưa đầy đủ... làm cho đầy đủ giải thoát
uẩn chưa đầy đủ. Ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y
chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn. Nhưng Ta không thấy một
chỗ nào trong thế giới chư Thiên, ác ma và Phạm thiên, giữa
quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người,
không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác với Giới, với
Định, với Tuệ và với Giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta
có thể cung kính đảnh lễ và sống y chỉ. Rồi này các Tỳ
kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Với Pháp này mà Ta đã chân chính
giác ngộ. Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy””.
Như
vậy đức Phật với tâm tư khiêm tốn muốn tìm một Sa-môn
hay Bà-la-môn để nương tựa y chỉ, nhưng cuối cùng phải
nương tựa và y chỉ vào Chánh pháp. Thái độ này của đức
Phật giải thích vì sao đức Phật khuyên Tôn giả Ananda chớ
có sầu muộn khi đức Phật nhập diệt, vì các đệ tử Phật
luôn luôn có Chánh pháp lãnh đạo có Chánh pháp làm chỗ y
chỉ, có Chánh pháp làm chỗ nương tựa. Đức Phật có thể
xem là vị Giáo chủ khuyên chúng ta không nên nương tựa ỷ
lại cá nhân. Ngài chỉ khuyên chúng ta nên y chỉ vào Chánh
pháp, nên tương tựa Chánh pháp.
IV.
Đức Phật với thần thông.
Một
vấn đề được đặt ra cho chúng ta là đức Phật có thần
thông hay không? Chính đức Phật giúp chúng ta trả lời thẳng
câu này, khi Ngài bị Sunakkahatta chỉ trích là không có pháp
thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc
Thánh, đức Phật xác nhận trong Đại Kinh Sư Tử Hống (Trung
Bộ I, trang 69) rằng: Ngài đầy đủ 4 pháp truyền thống,
tức là 10 danh hiệu, Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, và Tha
tâm thông. Ngài lại đủ 10 Như Lai lực, được diễn tả
như sau: “Như Lai như thật biết sự kiện có xảy ra là có
xảy ra, sự kiện không xảy ra là không xảy ra. Như Lai như
thật biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy thuộc sở nhân
của các hạnh nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại. Như Lai
như thật biết con đường đưa đến tất cả cảnh giới.
Như Lai như thật biết thế giới với nhiều chủng loại sai
biệt. Như Lai như thật biết chí hướng sai biệt của mọi
loài hữu tình. Như Lai như thật biết các căn thượng hạ
của loài Người, của các loài hữu tình. Như Lai như thật
biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của
các Thiền chứng về Thiền, về Giải thoát, về Định. Như
Lai nhớ đến các đời sống quá khứ, với thiên nhãn thuần
tịnh siêu nhân thấy sự sống và sự chết của các chúng
sinh. Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Như vậy Như Lai xác chứng Ngài chứng được
sáu thần thông: Thần Túc thông, Thiên nhĩ thông và Lậu tận
thông. Hơn nữa, Ngài còn chứng được bốn vô sở úy, tức
là bốn điều không sợ hãi. Ngài đã chứng được Chánh
đẳng Chánh giác. Ngài không có sợ hãi, có Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên, ác ma, Phạm thiên, chư Thiên và loài Người có
thể đến chất vấn chỉ trích Ngài là chưa chứng được
Chánh đẳng Chánh giác. Ngài đã đoạn trừ bốn lậu hoặc.
Ngài không có sợ hãi, có một ai có thể chất vấn, chỉ
trích Ngài là những phải được Ngài tuyên bố là chướng
ngại pháp, thật sự khi thực hành là không có gì trở ngại
cả. Ngài không có sợ hãi có một ai có thể chỉ trích chất
vấn Ngài đúng pháp rằng Ngài thuyết giảng không đưa đến
một mục tiêu đặc biệt, không có khả năng hướng thượng,
không có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”.
Như
vậy đức Phật xác chứng Ngài có được bốn pháp truyền
thống, chứng được mười Như Lai lực và bốn pháp vô sở
úy. Ngài có đầy đủ sáu Thần thông và hơn thế nữa. Tuy
vậy, theo dõi 45 năm thuyết pháp độ sanh của Ngài, được
ghi chép trong kinh tạng Pàli, chúng ta nhận thấy Ngài sử dụng
Thần thông rất dè dặt, rất hạn chế. Ví dụ trong Tăng
Chi I, trang 78, đức Phật có mặt ở Thắng Lâm (Jetavana), theo
lời yêu cầu của chư Thiên, hiện ra ở Đông Viên (Pubbàràma).
Một lần Thế Tôn trên con đường đến Kusinara, đi đến
sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập nước đến
bờ bên kia đến nỗi con quạ đứng trên bờ có thể uống
nước được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang
đi tìm phao, có người cột bè để đi qua bờ bên kia. Thế
Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại,
hay co lại cánh tay được duỗi ra biến mất từ bờ bên này
và hiện ra bờ bên kia với chúng Tỳ kheo (Trường Bộ III,
89).
Trong
suốt năm tập Nikàya, kể cả hàng chục bài kinh, kinh nào
cũng diễn tả đức Phật đi bộ từ làng này qua làng khác,
từ thị trấn này qua thị trấn khác, trước khi vào nhà,
vào tịnh xá thời lấy nước rửa chân. Có một lần đức
Phật đi đến vườn Gosinga (Trung Bộ I, trang 205) để thăm
Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, nhưng
người giữ vườn không biết Ngài là đức Phật nên ngăn
không cho vào. Một lần nữa, ngồi nói chuyện với Tôn giả
Pukkusati suốt nửa đêm trong ngôi nhà một người thợ gốm,
Pukkusati cũng không biết người đối diện là đức Phật.
Trong nhiệm vụ hoằng hóa độ sinh của Ngài, chúng ta thấy
đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất đặc biệt,
như được ghi chép trong kinh Kevaddha (Trường Bộ Kinh II, trang
211). Kenvaddha yêu cầu đức dạy cho Tỳ kheo hiện pháp thần
thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda. Thế Tôn từ chối
không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần thông: Thần
túc thông, Tha tâm thông, Ngài chỉ lựa chọn Giáo hóa thần
thông. Thần túc thông có thể do một loại bùa chú tên Gandhàn
tác thành. Tha tâm thông có thể do bùa chú tên Maniko tác thành
nên đức Phật không có chấp nhận hai loại Thần thông này...
Ngài chỉ chấp nhận giáo hóa thần thông được diễn tả
như sau: “Ở đời có vị Tỳ kheo giáo hóa như sau: “Hãy
suy tư như thế này, chớ suy tư như thế kia. Hãy tác ý như
thế này, chớ tác ý như thế kia. Hãy từ bỏ điều này,
hãy chứng đạt và an trú điều kia”. “Như vậy gọi là
giáo hóa thần thông” (trang 214). Chính đức Phật đã lựa
chọn giáo hóa thần thông để hóa độ chúng sinh, trong suốt
45 năm dài thuyết pháp. Lý do cũng rất dễ hiểu Thần túc
thông, Tha tâm thông do bùa chú tạo thành, vừa có hại cho
người sử dụng, vừa có hại cho người chứng kiến. Còn
Giáo hóa thần thông đòi hỏi người nghe phải suy gẫm, phải
suy tư, phải cân nhắc nghĩa lý, rồi đem ra tự mình hành
trì và cuối cùng đạt được giải thoát.
Nói
tóm lại, ngài không dùng pháp lạ để dị hoặc quần chúng,
để làm chóa mắt người chứng kiến. Ngài đặt nặng vào
khả năng suy tư, tìm hiểu, cân nhắc, chọn lựa, tự mình
tự lực dùng Giới, dùng Định, dùng Tuệ, nghĩa là tự lực
hành trì đúng quy luật giải thoát để được giải thoát,
đúng quy luật giác ngộ để được giác ngộ.
V.
Thế Tôn với vị trí con người.
Để
tìm hiểu hơn nữa về bậc Đạo Sư, chúng ta cần phải ý
thức rõ ràng đức Phật là ai, đức Phật đã tự diễn tả
mình như thế nào, và đức Phật đã được các đệ tử
của mình và các ngoại đạo đề cao như thế nào. Những
tư liệu này sẽ giúp chúng ta hiểu được đức Phật rõ
ràng chính xác hơn và đánh giá được những đóng góp mà
bậc Đạo Sư đã đem lại cho loài Người. Một vấn đề
có thể làm nhiều người thắc mắc trong quá khứ cũng như
trong hiện tại là đức Phật là ai? Ngài là Thiên thần chăng,
Thiên nhân chăng, là người như chúng ta chăng? Kinh Tăng Chi
tập II, A, trang 51 ghi chép như sau: “Bà-la-môn Dona thấy dấu
chân đức Phật có dấu bánh xe (Pháp luân) với đầy đủ
tất cả chi tiết khi đức Phật đi trên con đường giữa
Ukkattha và Setabbya, liền suy nghĩ đây không phải là dấu chân
của loài Người, nên đến gần đức Phật và hỏi: “Có
phải Ngài là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn-thát-bà, Ngài sẽ
là Dạ-xoa, Ngài sẽ là loài Người?” Với bốn câu hỏi
này, đức Phật tuần tự trả lời: “Ta sẽ không phải là
Tiên, Ta sẽ không phải là Càn-thát-bà, Ta sẽ không phải
là Dạ-xoa, Ta không phải là Người”.
Câu
trả lời làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên, và chúng ta cũng
dễ hiểu, vì nếu đức Phật trả lời: “Ta sẽ là chư Thiên,
hay Ta sẽ là loài Người, tức đức Phật còn phải tái sinh,
còn phải sinh tử luân hồi nên đức Phật mới trả lời
như thế”. Câu trả lời ấy làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên
khiến phải hỏi tiếp: “Vậy sở hành của Ngài là gì, và
Tôn giả sẽ là gì?” Đức Phật trả lời rất là đặc
biệt:
“Này
Bà-la-môn, đối với những ai chưa đoạn tận các lậu hoặc,
Ta có thể là chư Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận,
được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây
tala, được làm cho không thể hiện hữu, được là cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những
ai chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà,
Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là loài Người, với các
lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ,
được làm thành như cây tala, được làm cho không thể hiện
hữu, dược làm cho không thể sanh khởi trong tương lai”.
Như
vậy tùy thuộc chúng sinh được đề cập đến, đối với
những chúng sinh là chư Thiên chưa đoạn tận các lậu hoặc
đức Phật có thể là chư Thiên nhưng với các lậu hoặc
đã đoạn tận, không còn sanh tử luân hồi. Đối với loài
Người chưa đoạn tận các lậu hoặc, đức Phật có thể
là Người, nhưng là một con người đã đoạn tận các lậu
hoặc. Nói một cách khác, dầu thuộc loại chúng sinh hữu
tình nào đang còn có lậu hoặc, đang sanh tử luân hồi, đức
Phật có thể là chúng sinh ấy, nhưng với các lậu hoặc đã
đoạn tận. Chúng ta là người, đức Phật đối với chúng
ta là người. Chỉ có sự sai khác, đức Phật là người đã
đoạn tận các lậu hoặc, còn chúng ta là người nhưng chưa
đoạn tận các lậu hoặc.
Rồi
đức Phật dùng một thí dụ xác định rõ ràng vị trí của
Ngài trong thế giới loài Người:
“Ví
như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen
trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi
nước và đứng thẳng, không bị nước thấm ướt. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, sanh ra trong đời lớn lên trong đời, Ta sống
chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn,
Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì”.
Tiếp
đến, đức Phật tự xác chứng vị trí của mình khi Ngài
nói với Tôn giả Sàriputta: “Những ai nói về Ta một cách
chân chánh sẽ nói như sau: “Một vị hữu tình không bị
si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc
cho chúng sinh, vì lòng thương tường cho đời, vì lợi ích,
vì an lạc cho chư Thiên và loài Người”. (Trung Bộ I, 83)
Tiếp
đến là lời một vị đệ tử đã chứng quả A-la-hán nói
lên lời tán thán bậc Đạo Sư của mình: “Thế Tôn đã
giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều
phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch
tịnh, Ngài thuyết pháp để tịch tịnh. Thế Tôn đã vượt
qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết
Bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết Bàn”, (Trung Bộ I,
trang 237). Như vậy, trong thế giới loài Người, đức Phật
là con người như chúng ta, chỉ khác chúng ta còn các lậu
hoặc. Đức Phật không còn các lậu hoặc nữa. Đức Phật
đã giác ngộ, đã điều phục, đã tịch tịnh, đã vượt
qua, đã chứng Niết Bàn; còn chúng ta chưa giác ngộ, chưa
điều phục, chưa tịch tịnh, chưa vượt qua, chưa chứng Niết
Bàn.
Một
điểm rất đặc biệt về đức Phật của chúng ta là đức
Phật đặt lòng tin nơi con người có khả năng tự mình giải
thoát và giác ngộ, có khả năng phân biệt được thiện ác,
chánh tà. Trong kinh Kàlàmasutta, Tăng Chi I, 212, đức Phật khuyên
trong mười trường hợp chớ nên tin: “Chớ có tin và nghe
truyền thuyết (anussava); chớ có tin vì theo truyền thống (pàramparaya);
chớ có tin vì nghe người ta nói (itikinyaya); chớ có tin vì
king tạng truyền tụng (pitakasampadànena); chớ có tin vì nhân
lý luận (siêu hình) (takkehetu); chớ có tin sau khi suy tư một
vài dữ kiện (àkàraparivitakkena); chớ có tin theo thiên kiến
định kiến (ditthinijhàna khanti); chớ có tin vì vị Sa-môn
là bậc Đạo Sư của mình”. Khi nghe đức Phật bác bỏ cả
mười trường hợp đáng tin như vậy, chúng ta tự nghĩ chúng
ta còn tin ai và tin cái gì nữa. Không tin truyền thống, không
tin truyền thuyết, không tin kinh tạng truyền tụng, không tin
vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình v.v... Đến đây đức
Phật khuyên giáo thật nhẹ nhàng. Chúng ta hãy tin ở chúng
ta, tin ở nơi lý trí phán xét, phân biệt con người của chúng
ta”. Đức Phật khuyên: “Nhưng này các Kàlàma, khi nào tự
mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp
này có tội, các pháp này bị các người có trí chỉ trích,
các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất
hạnh khổ đau” thời này Kàlàma, các người hãy từ bỏ
chúng”. Này các Kàlàma, khi nào tự mình biết rõ như sau:
“Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các
pháp này được người có trí tán thán; các pháp này nếu
được thực hiện và chấp nhận đưa đến an lạc và hạnh
phúc”, thời này Kàlàma, hãy chứng đạt và an trú”.
Như
vậy, đức Phật luôn đứng trên vị trí con người để hóa
độ chúng sinh và đặt lòng tin tưởng vào khả năng con người
có thể phân biệt thiện ác, chánh tà, có khả năng tự
giải thoát, tự giác ngộ như Ngài đã tự mình giác ngộ,
giải thoát. Về sau, có xu hướng thần thông hóa đức Phật,
thần thánh hóa đức Phật, biến đức Phật thành một bị
biểu hiện thần thông để hóa độ chúng sinh, thành một
vị thần ban phước giáng họa. Sự tha hóa đức Phật khỏi
vị trí con người được khéo thực hiện, dần dần đức
Phật rời khỏi địa vị bậc Đạo Sư, với thân giáo, khẩu
giáo, giáo hóa chúng sinh để trở thành một vị Thánh ngồi
trên khám thờ được hàng triệu người lễ bái cầu khấn,
ban phước giáng họa chúng tôi ghi sau đây hai đoạn kinh trích
từ kinh tạng Pali, một đoạn diễn tả lúc đức Phật bệnh,
một đoạn diễn tả lúc đức Phật bị già, những đoạn
này chứng tỏ đức Phật dầu đã thành Phật, giác ngộ giải
thoát, nhưng Ngài vẫn còn thân hữu dư y nên vẫn bị bệnh,
vẫn bị già, như một con người thường, chỉ có một điều
khác là khi Ngài bị bệnh, khi Ngài bị già, Ngài không có
sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh,
vì Ngài dầu còn thân bệnh, nhưng không còn tâm bệnh nữa.
Kinh
Tương ưng, tập Vi-Đề-Hy, trang 159 chép:
“Trong
khi Thế Tôn an cư vào mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng
khởi lên, những cảm thọ khốc liệt, gần như chết tiếp
diễn. ở đây, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, không có than
van... Rồi Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp phục trọng
bệnh ấy, lưu giữ thọ hành và sống...”
Cũng
kinh Tương ưng, tập V, trang 229 chép:
“Rồi
Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế
Tôn với tay xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, thưa rằng: “Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh trong
sáng, tay chân rã rời nhăn nhíu, thân được thấy còm về
phía trước, và các căn đang bị đổi khác”. –“Này Ananda
sự thể là vậy. Tánh già nằm trong tuổi trẻ. Tánh chết
nằm trong sự sống... Như vậy màu da không còn thanh tịnh
trong sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân được thấy còm
về phía trước, và các căn đang bị đổi khác...”
Với
hai đoạn kinh này, chúng ta thấy đức Phật thật sự là người
như chúng ta, có già, có bệnh, có chết, chỉ khác Ngài là
một con người đã đoạn trừ các lậu hoặc, đã diệt tận
tham, sân, si, không còn rơi vào sanh tử luân hồi.
VI.
Thế Tôn với vị trí bậc Đạo Sư.
Nay
chúng ta bước qua vị trí bậc Đạo Sư để tìm hiểu đức
Phật, và chính đức Phật được tôn xưng là bậc Đạo Sư
loài Trời và loài Người (Satthà devamanussanam). Đức Phật
sở dĩ chiếm một địa vị ưu thế so sánh với các ngoại
đạo đương thời là vì Ngài là vị đầu tiên để lại
cho chúng ta một truyền thống kế thừa rất đặc biệt, khác
với các ngoại đạo cổ xưa, và truyền thống ấy mãi cho
đến ngày nay, sau hơn hai ngàn năm có mặt trên thế giới
này, vẫn còn được tôn trọng tiếp nối và truyền thừa.
Kinh Makhàdeva. Trung Bộ Kinh II trang 75, đề cập đến truyền
thống của vua Makkhàdeva, vị vua này khi sợi tóc bạc đầu
tiên hiện ra trên đầu mình, Ngài liền giao ngôi báu cho hoàng
tử, tự mình xuất gia tu đạo. Vua Makkhàdeva lại dặn hoàng
tử lên ngôi trị vì cho đến khi sợi tóc bạc đầu tiên
mọc lên thời liền trao ngôi báu cho con trai của mình, còn
mình thời xuất gia tu đạo. Vua Makkhàdeva dặn dò phải giữ
gìn truyền thống này đừng cho gián đoạn. Tuy vậy truyền
thống của vua Makkhàdeva được truyền đến vua Nemi là vị
vua cuối cùng gìn giữ truyền thống này. Con của vua Nemi là
Kalara Janaka lại không tiếp tục truyền thống này; không chịu
xuất gia khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc trên đỉnh đầu
mình và do vậy truyền thống của Makkhàdeva bị chấm dứt.
Nhưng truyền thống của đức Phật lại khác. Chính đức
Phật xác nhận như sau trong Trung Bộ I trang 82A: “Này Ananda,
truyền thống ấy của Makhàdeva không đưa đến yểm ly, ly
tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết
Bàn. Và Ananda, thế nào là truyền thống tốt đẹp được
Ta thiết lập và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham,
đoạn diệt, tịch tịnh, thương trí, giác ngộ, Niết Bàn?
Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh
tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Này
Ananda đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập,
và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt,
tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Này Ananda, về
vấn đề này Ta nói như sau: “Truyền thống tốt đẹp này
do Ta thiết lập, hãy tiếp tục duy trì. Các ông chớ có thành
người tối hậu sau Ta”. Này Ananda, khi hai người còn tồn
tại, và có sự đứt đoạn, người ấy là người tối hậu
vậy. Này Ananda, Ta nói với ông: “Truyền thống tốt đẹp
này do Ta thiết lập các ông hãy tiếp tục duy trì”. (Trung
Bộ Kinh II, trang 82A). Truyền thống kế thừa mà đức Phật
đã để lại cho chúng ta, chúng ta đã tiếp tục thừa kế
trải hơn 2.000 năm lịch sử, và cho đến nay, truyền thống
kế thừa ấy vẫn được tiếp tục.
Trong
khi các bậc Đạo Sư khác, giới không thanh tịnh, mạng sống
không thanh tịnh, thuyết pháp không thanh tịnh, trả lời pháp
không thanh tịnh, thời bậc Đạo sư của chúng Ta thật là
tuyệt diệu về cả năm phương diện này, như Tăng Chi II,
quyển B miêu tả: “Này Moggallàna, Ta có giới thanh tịnh và
Ta tự rõ biết: “Giới của Ta thanh tịnh, trong sáng không
có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về giới.
Mạng sống của Ta thanh tịnh trong sáng, không có uế nhiễm.
Các đệ tử Ta không có che chở Ta về mạng sống. Ta không
có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về mạng sống. “Thuyết
pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Thuyết pháp của
Ta thanh tịnh trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không
có che chở Ta về thuyết pháp. Ta không có chờ đợi các đệ
tử che chở Ta về thuyết pháp”. Các câu trả lời của Ta
thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Các câu trả lời của ta thanh
tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không có
che chở Ta về các câu trả lời”. Tri kiến của Ta thanh tịnh,
Ta tự rõ biết: “Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng, không
có uế nhiễm. Các dệ tử không có che chở Ta về tri kiến,
Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về tri kiến””.
Một
sự đóng góp rất đặc biệt của đức Phật trong vị trí
bậc Đạo Sư của mình là thành lập hai hội chúng: Hội chúng
xuất gia là hội chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, và hội chúng
tại gia là hội chúng nam Cư sĩ và nữ Cư sĩ. Về hội chúng
xuất gia, Ngài chế đặt một số giới luật căn bản để
bảo đảm một đời sống thật sự hòa hợp nhất trí, giới
thiệu pháp môn Giới, Định, Tuệ, hướng dẫn các đệ tử
xuất gia tu học, thoát ly gia đình, thoát ly sự ràng buộc
của dục vọng, trọn đời hành trì Phạm hạnh, cuối cùng
chứng đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát, vượt khỏi
sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết. Đức Phật là vị Giáo
chủ đầu tiên thiết lập Giáo hội Tăng già cho phép phái
nữ xuất gia và xác chứng các Tỳ kheo ni có khả năng chứng
được quả A-la-hán tối thượng, không khác gì nam giới.
Trải hơn 2500 năm Giáo hội vẫn còn tồn tại, tuy có một
vài sự thay đổi không đồng bộ.
Đối
với hội chúng tại gia, nam Cư sĩ, nữ Cư sĩ đức Phật dạy
thọ ba quy y, năm giới, từ bỏ mười ác hạnh, thành tựu
mười thiện hạnh, có quyền thọ hưởng các dục nhưng không
đi đến say đắm đam mê, làm các công đức. Lời giáo huấn
của Ngài rất rõ ràng. Muốn sống hạnh phúc, phải sống
theo giới luật của người tại gia, thâu hoạch tài sản đúng
pháp do tự cánh tay, tự mình đổ mồ hôi làm ra, đặc biệt
là phải làm các hạnh lành. Những lời dạy này của đức
Phật mãi cho đến nay vẫn được các Phật tử hành trì và
được xem là mẫu mực tốt đẹp cho một đời sống văn
minh đạo đức.
Một
đặc điểm nữa của bậc Đạo Sư chúng ta là Ngài có một
lòng ưu ái rất đặc biệt đối với các đệ tử của Ngài,
luôn luôn sách tấn họ tận lực tu hành: Như được thấy
trong các đoạn kinh sau đây (Trung Bộ III, 96): “Này Ananda,
những gì bậc Đạo Sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu
tìm hạnh phúc cho các dệ tử, những điều ấy đã được
Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với người. Này Ananda
đây là những gốc cây. Đây là khoảng nhà trống. Hãy tu
Thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về
sau. Đây là lời dạy của Ta cho các ông”.
Một
ưu điểm trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh của đức Phật
là Ngài luôn luôn giữ đúng vị trí của một bậc Đạo Sư
đối với các đệ tử. Trong kinh Ganaka Moggallàna, Bà-la-môn
Ganaka hỏi đức Phật: “Có phải khi Sa-môn Gotama giảng dạy
như vậy, tất cả đệ tử của Ngài đều chứng được cứu
cánh Niết Bàn?” Đức Phật đã trả lời là một số chứng
được cứu cánh Niết Bàn, một số chứng không được. Ganaka
bèn hỏi: “Do nhân gì, duyên gì, trong khi có Niết Bàn, trong
khi có một con đường đưa đến Niết Bàn, trong khi có một
Tôn giả Gotama được Tôn giả là bậc chỉ đường, tuy vậy
các đệ tử Tôn giả Gotama được Tôn giả khuyến giáo, bảo
vệ giảng dạy như vậy, mà một số chứng được cứu cánh
Niết Bàn và một số không chứng được?”
Đức
Phật trả lời một cách rất nhẹ nhàng, khiêm tốn, nhưng
cũng rất thiết thực và tuyệt diệu. Ngài giữ đúng vị
trí của bậc Đạo Sư đối với các đệ tử: “Cũng vậy,
này Bà-la-môn, trong khi có một Niết Bàn, có một con đường
đưa đến Niết Bàn, và trong khi có mặt Ta là người chỉ
đường. Nhưng các đệ tử của Ta được Ta khuyến giáo như
vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh
Niết Bàn một số không chứng được. Ở đây, này Bà-la-môn,
Ta làm gì được? Như Lai chỉ là người chỉ đường”. (Trung
Bộ III, trang l05).
Câu
trả lời của đức Phật vừa nói lên trách nhiệm của một
bậc Đạo Sư là trình bày giảng dạy con đường giải thoát
giác ngộ, chứ không phải thay thế đệ tử tu hành giúp cho
các đệ tử. Thái độ đức Phật trong tư cách của một
bậc Đạo Sư cũng nói lên lòng tin tưởng của mình đối
với khả năng hiểu biết và tu chứng của mình đối với
khả năng hiểu biết và tu chứng của các đệ tử của mình.
Ngài chỉ dạy con đường, các dệ tử phải tự mình dấn
bước trên con đường ấy. Không những đức Phật đóng đúng
vị trí bậc Đạo Sư đối với các đệ tử. Ngài còn đặt
ra những tiêu chuẩn để hướng dẫn các đệ tử phải tìm
thầy học đạo như thế nào để có thể được giải thoát
giác ngộ, như đã trình bày trong kinh Khu rừng, Trung Bộ I,
trang l08:
“Vị
Tỳ kheo đệ tử cần phải suy tư như sau: “Ta sống gần
người này, các niệm chưa an trú được an trú, tâm chưa định
tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn
đoạn trừ, được đoạn trừ, và vô thượng an ổn khỏi
các ách phược chưa được thành đạt dược thành đạt,
và những vật dụng này cần thiết cho một đời sống xuất
gia phải được sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này nhận được
một cách không khó khăn”. Chư Tỳ kheo, vị Tỳ kheo ấy cần
phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi,
dầu cho có bị xua đuổi””.
Như
vậy tiêu chuẩn của một bậc Đạo sư lý tưởng đối với
các đệ tử, một mặt phải đem lại những vật dụng vật
chất cần thiết để nuôi đưỡng người đệ tử, một mặt
phải đáp ứng nhu cầu giải thoát giác ngộ của người đệ
tử “Niệm chưa an trú được an trú, tâm chưa được định
tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa hoàn toàn đoạn
trừ được hoàn toàn đoạn trừ”.
Như
vậy đoạn này trình bày rõ ràng những tiêu chuẩn để người
đệ tử lựa chọn bậc Đạo sư, và bổn phận bậc Đạo
sư cần phải làm đối với đệ tử.
Kinh
Đại Không, Trung Bộ kinh III, trang 267 lại minh định rõ ràng
hơn những tiêu chuẩn, một đệ tử Thanh văn nghĩ là hợp
lý xứng đáng để đi theo một bậc Đạo sư dầu cho bị
hắt hủi. Nếu bậc Đạo sư có khả năng giảng dạy Khế
kinh và Phúng tụng v.v. . . thật chưa xứng đáng cho một đệ
tử bám sát theo vị Đạo sư dầu cho bị hắt hủi vì rằng:
“Trong một thời gian dài, các pháp đã được các người
nghe, thọ trì, đọc lớn tiếng, suy tư với ý, khéo thấu
hiểu với Chánh trí. Nhưag này Ananda, đối với những lời
nói nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhất hướng ly tham,
đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, Niết Bàn, như là Thiểu
dục luận, Tri túc luận, Độc cư luận, Bất chúng hội luận,
Tinh cần luận, Giới luận, Định luận, Tuệ luận, Giải
thoát luận, Giải thoát trí kiến luận. Này Ananda, do nhân
duyên những loại thuyết luận như vậy, thật xứng đáng
cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Đạo sư dầu cho bị
hất hủi. Nói một cách rõ ràng hơn, chỉ có bậc Đạo sư
dạy cho các đệ tử đạt được Thiểu dục, Tri túc, Độc
cư, Bất chúng hội, Tinh cần, Giới, Định, Tuệ, Giải thoát,
Giải thoát tri kiến mới thật xứng đáng cho người đệ
tử trọn đời theo vị ấy dầu cho bị hất hủi. Và chúng
ta có thể nói một bậc Đạo sư đáp ứng được những tiêu
chuẩn như trên sẽ không bao giờ hất hủi một vị đệ tử
nhiệt thành như vậy. Cũng trong kinh Đại Không, đức Phật
yêu cầu các đệ tữ đối với Ngài nên đối xử với tâm
thân hữu, không với tâm thù nghịch, vì như vậy các đệ
tử sẽ được hạnh phúc lâu dài: “Và như thế nào, là
các đệ tử đối xử vị Đạo sư với tâm thù nghịch, không
với tâm thân hữu?...”. “Ở đây này Ananda, vị Đạo sư
vì lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, mong cầu hạnh
phúc cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn nói rằng: “Đây là
hạnh phúc cho các ông, đây là an lạc cho các ông”. Nhưng
các đệ tử của vị ấy không chịu nghe theo, không chịu
lóng tai, chú tâm vào hướng khác (annan), ngược lại, họ
đi xa lời giảng dạy của vị Đạo sư. Này Ananda, như vậy
là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thù
nghịch, không với tâm thân hữu. Và như thế nào này Ananda,
là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân
hữu, không với tâm thù nghịch? Ở đây, này Ananda vị Đạo
sư với lòng từ mẫn nói rằng: “Đây là an lạc cho các
ông”. Các đệ tử của vị ấy chịu nghe theo, chịu lóng
tai, không chú tâm vào hướng khác, và không ngược lại đi
xa lời dạy của bậc Đạo sư. Này Ananda, như vậy là các
đệ tử đối xử với bậc Đạo sư với tâm thân hữu, không
phải với tâm thù nghịch. Do vậy, này Ananda, như vậy hãy
đối xử với Ta với tâm thân hữu, chớ với tâm thù nghịch
và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc lâu dài cho các ông”.
Đến
đây, đức Phật tuyên bố rõ ràng là Ngài không sách tấn
các đệ tử của Ngài như người thợ gốm đối với đồ
gốm chưa nung, chưa dược nung chín vì sợ các đồ gốm chưa
được nung sẽ bị bể và đức Phật tuyên bố: “Ta sẽ
nói hết lời chỉ trích này đến lời chỉ trích khác, hết
lời tán thán này đến lời tán thán khác”, nghĩa là các
đệ tử nào xứng đáng bị rầy la thời Ngài rầy là thẳng
thắn, không nhân nhượng. Và những đệ tử nào xứng đáng
được tán thán thời bậc Đạo sư của chúng ta nói lên những
lời tán thán, không có tiếc lời. Và Ngài giải thích vì
sao Ngài có thái độ như vậy. “Vì cái gì là lõi cây, cái
ấy sẽ tồn tại lâu dài (yo sàro so thassati)”. Bậc Đạo
sư dạy cho các đệ tử đạt cho được lõi cây của Phạm
hạnh, không dừng lại ở giác cây, vỏ trong, vỏ ngoài và
cành lá của Phạm hạnh, vì chỉ khi nào đạt được lõi
cây Phạm hạnh, nghĩa là thật sự giác ngộ và giải thoát,
khi ấy vị đệ tử mới đạt được cứu cánh của sự tu
hành hoàn toàn được hạnh phúc an lạc lâu dài. Thật sự
chúng ta có một bậc Đạo sư tha thiết mong cho các đệ tử
của mình, xuất gia cũng như tại gia, được chân hạnh phúc.
Và hạnh phúc lâu dài chỉ đến với những vị thật sự
giải thoát, thật sự giác ngộ.
Như
vậy, chúng ta đã lần lượt trình bày về “Đức Phật của
chúng ta” dưới sáu đặc điểm:
1.
Đức Phật với mục đích duy nhất cứu khổ, độ sanh.
2.
Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con đường giải
thoát cho mình và cho mọi loài.
3.
Vị trí có một không hai của đức Phật.
4.
Đức Phật với thần thông.
5.
Đức Phật với vị trí con người.
6.
Đức Phật với vị trí là một bậc Đạo sư.
Với
sáu đặc điểm trên, và dựa trên những tư liệu kinh tạng
Pali, chúng tôi chỉ có thể xem là tạm đủ để trình bày
một vài đặc điểm về thân thế và sự nghiệp của bậc
“Đạo sư của chúng ta”. Hình ảnh dầu cho chưa đầy đủ
này cũng giúp chúng ta thấy rõ, đức Phật luôn luôn đứng
trên vị trí con người để tầm đạo, học đạo, tu tập
Thiền quán và chứng ngộ đạo quả và hoằng pháp độ
sanh.
Không bao giờ Ngài cầu khẩn thần linh ban phước, thần khởi,
Ngài hoàn toàn dựa vào tín lực, tấn lực, niệm lực định
lực và tuệ lực của con người ở trong Ngài đtìm ra được
phương pháp giải thoát giác ngộ.
Cũng
vậy, trong nhiệm vụ độ sanh, Ngài hoàn toàn dựa trên tâm
lý con người, hướng dẫn con người hướng thượng, giúp
con người thoát khỏi các cám dỗ của dục vọng hạ liệt
làm hại phẩm giá con người, giúp con người
vươn
lên đạt được những tâm lý hướng thượng, bằng phương
pháp Thiền định, Thiền quán và cuối cùng dùng trí tuệ
để đoạn tận khổ đau. Chúng ta có thể nói đức Phật
là một con người toàn diện, sử dụng toàn diện khả năng
con người để được giác ngộ giải thoát.