Ví dụ Con Rắn là một bài kinh hay, và rất đặc biệt. Nội dung nói lên những nhận thức sâu sắc đối với những lời dạy của đức Phật, đối với các dục (kàma), đối với mục tiêu thuyết pháp của đức Bổn Sư về những tai hại do những chấp thủ nói trên đưa đến. Tiếp đến đức Phật trình bày sáu kiến xứ, chấp thủ năm thủ uẩn là của ta, là ta, là tự ngã của ta; chấp thủ tự ngã và thế giới là thường còn, thường hằng sau khi chết. Chính sự chấp thủ sáu kiến xứ này đem lại tái sinh đời này sang đời khác, kế cả những sầu bi lo âu phiền não trong đời sống hiện tại. Tiếp tục, kinh này đề cập đến thuyết Vô ngã giúp đoạn trừ sáu kiến xứ, chứng đạt quả A-la-hán, Niết Bàn. Tiếp nữa, đức Phật đề cập đến vấn đề ngoại đạo xuyên tạc lời dạy Vô ngã của đức Phật là dạy hư vô chủ nghĩa. Đức Phật nói lên thái độ của Ngài đối với vấn đề khen chê. Cuối cùng đức Phật khuyên các đệ tử hãy từ bỏ những gì không phải là của mình. Tử bỏ như vậy sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho chính mình. Hãy hành trì theo lời thuyết pháp của đức Phật. Vì chính nhờ nghe theo lời thuyết pháp mà các đệ tử có khả năng chứng được Thánh quả tùy pháp hành, tùy tín hành, được sanh Thiên.
I.
Anttha chấp thủ các dục không phải là chướng ngại và đức
Thế Tôn giải thích các dục là chướng ngại pháp với mười
ví dụ nêu rõ các dục là vui ít khổ nhiều, não nhiều, và
các nguy hiểm nơi đây lại nhiều hơn.
Tỳ
kheo Anttha khởi lên ác tà kiến chủ trương rằng thọ dụng
các pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp thực
sự không chướng ngại gì. Sau khi khuyên bảo không có hiệu
quả, các Tỳ kheo trình lên Thế Tôn và Thế Tôn cho gọi Anttha
đến quở trách ác tà kiến của Anttha và chính thức xác
nhận các dục là chướng ngại pháp cho người tu hành. Ngài
dùng mười ví dụ xác nhận các dục là chướng ngại pháp,
vui ít khổ nhiều, các nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Thế
Tôn dùng mười ví dụ để chứng minh các dục vui ít khổ
nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm nơi đây lại nhiều hơn.
Đức Thế Tôn dạy các dục ví như khúc xương, như miếng
thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn mộng,
như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy
nhọn. Thế Tôn dạy các dục được ví như đầu rắn, vui
ít khổ nhiều não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn. Tỳ
kheo Anttha không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai
lạc còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức.
Như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho
kẻ ấy.
II.
Tai hại nắm giữ sai lạc các pháp.
Thế
Tôn đề cập đến sự tai hại do nắm giữ sai lạc các pháp
được Thế Tôn dạy. Có hạng người ngu si không học kinh
Phúng tụng, Giải thích, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị
ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học
pháp, họ không hiểu rõ ràng ý nghĩa pháp ấy. Họ học pháp
chỉ vì muốn chỉ trích người khác, chỉ vì muốn khoái khẩu
biện luận. Họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp
hướng đến. Vì nắm giữ sai lạc những pháp ấy nên họ
bị đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Như một người
muốn bắt con rắn độc lại nắm bắt ở lưng hay ở đuôi.
Con rắn ấy có thể quay đầu cắn người ấy nơi tay hay nơi
một thân phần khác, và người ấy có thể bị chết hay bị
đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Vì bắt rắn một cách
sai lạc. Ở đây cũng vậy, học pháp, nắm pháp sai lạc cũng
đưa đến khổ đau và bất hạnh.
Trái
lại, có một số thiện nam tín nữ học pháp xong, quán sát
ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì
được trí tuệ quán sát nên được rõ ràng. Họ học pháp
không phải vì muốn chỉ trích người khác, không phải vì
khoái khẩu biện luận, và chứng đạt được mục tiêu mà
học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì Tỳ kheo nắm giữ
đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Vì không
nắm giữ sai lạc các pháp. Cũng vậy, một người muốn bắt
con rắn nước, người ấy có thể đè con rắn nước với
cây gậy có nạng. Sau khi đè con rắn với cây gậy có nạng,
người ấy có thể nắm giữ cổ con rắn. Dù con rắn có thể
uốn thân của nó xung quanh tay hay cánh tay hay một thân phần
khác, người ấy không thể bị rắn cắn chết hay đau khổ
gần như chết. Vì sao vậy? Vì khéo nắm giữ con rắn độc.
ở đây cũng vậy, những thiện nam tử ấy, vì Tỳ kheo nắm
giữ pháp, Tỳ kheo quán sát ý nghĩa pháp ấy với trí tuệ
Do vậy Thế Tôn khuyên các Tỳ kheo hãy hiểu rõ ý nghĩa lời
Thế Tôn dạy mà thọ trì. Nếu có kẻ không hiểu rõ ý nghĩa
lời Thế Tôn dạy thì người ấy nên đến hỏi Thế Tôn
hay hỏi những bậc Tỳ kheo có trí để được hướng dẫn.
III.
Thế Tôn giảng pháp cho các Tỳ kheo như chiếc bè để vượt
qua sông, không phải để nắm lấy Chánh pháp còn phải bỏ
đi, huống nữa là phi pháp.
Đức
Thế Tôn xác định Thế Tôn thuyết pháp, như chiếc bè để
vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Ví như một người
đi đến một vùng nước rộng, bờ bên này, nguy hiểm hãi
hùng, bờ bên kia thì an ổn, không có gì sợ hãi. Nhưng không
có thuyền để vượt qua, người ấy bèn thâu góp cành lá
cỏ cây cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này
để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên
kia rồi, lại suy nghĩ chiếc bè được xây dựng lên một
cách công phu, bỏ lại thì luyến tiếc, nên người ấy đội
chiếc bè trên vai và tiếp tục đi. Hành động ấy khiến
mọi người đàm tiếu, vì sử dụng không đúng với sở dụng
của chiếc bè. Người ấy, khi qua bờ bên kia rồi, có thể
kéo chiếc bè lên bờ, hoặc nhận chìm xuống nước rồi tiếp
tục đi theo công việc của mình. Và đến đây thì Thế Tôn
nói lên một lời dạy bất hủ, mãi mãi được truyền tụng
cho đến ngày nay: “Này các Tỳ kheo, Ta thuyết pháp như chiếc
bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ
kheo, các ông cần hiểu ví dụ chiếc bè, Chánh pháp còn phải
bỏ đi, huống nữa là phi pháp”.
IV.
Chấp thủ sáu kiến xứ là tự ngã. Thái độ của kẻ vô
văn phàm phu và bậc Thánh đệ tử.
Kẻ
vô văn phàm phu, không yết kiến các bậc Thánh, không thuần
thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh,
không yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp
các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân. Xem
sắc pháp, xem các cảm thọ, xem các tưởng, xem các hành, xem
cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được
ý thức, được đạt tới, được tầm cầu, được ý suy
tư: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự
ngã của tôi”, và bất cứ kiến xứ nào, nói rằng: “Đây
là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường
còn, thường hằng, sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi,
xem như vậy là cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi”. Thái độ của vị Thánh đệ tử nghe
nhiều thời khác hẳn, không những các vị này yết kiến,
thuần thục, tu tập pháp các bậc Thánh, các bậc Chân nhân,
các vị này đối với năm thủ uẩn là cái không phải của
tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi, và
bất cứ kiến xứ nào nói rằng: “Đây là thế giới, đây
là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường hằng, thường trú,
không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi
mãi, xem như vậy là cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
Vị này do quan sát như vậy, đối với sự vật không thật
có, nên không có lo âu phiền não.
V.
Lo âu phiền não đến và không đến với những ai.
1.
Có thể có cái không thật có ở ngoài có thể gây lo âu phiền
muộn.
Có
người nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi
nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có
thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy”.
Người
ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc đi đến bất tĩnh.
2.
Có thể có cái gì không thật có ở ngoài không có thể gây
lo âu phiền muộn.
Có
người không nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của
tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn
có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy”.
Người ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc đi đến bất
tỉnh.
3.
Có cái gì không thật có ở trong có thể gây ra lo âu phiền
muộn.
Ở
đây có người không khởi lên tà kiến như sau: “Đây là
thế giới, đây là tự ngã. Sau khi chết tôi sẽ thường còn,
thường hằng, thường trú. Tôi sẽ trú như vậy cho đến
mãi mãi”. Người này nghe Như Lai hay đệ tử của Như Lai
thuyết pháp để bài trừ tất cả các kiến xứ, cố chấp,
luận chấp, thiên kiến, tùy miên, sự đình chỉ mọi hành
động, sự từ bỏ mọi danh y, sự diệt trừ mọi khát ái,
đưa đến ly tham, đoạn diệt Niết Bàn? Vị ấy không có
nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn
ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”.
Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực đi
đến bất tỉnh.
4.
Thế Tôn đặt một số câu hỏi.
Các
người có thể nắm giữ một vật sở hữu gì mà vật sở
hữu được nắm giữ ấy sẽ thường hằng, thường còn,
thường trú, không chuyển biến? - Thưa không!
5.
Các người có thể thấy một vật sở hữu gì được nắm
giữ và vật sở hữu nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường
hằn, thường trú mãi mãi? - Thưa không !
6.
Thế Tôn xác nhận Thế Tôn cũng không thấy vật sở hữu
nắm giữ nào, mà vật sở hữu được nắm giữ sẽ thường
còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, có thể
trú như thế này mãi mãi.
7.
Các người có thể chấp thủ một ngã luận thủ nào mà ngã
luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi
lên sầu bi khổ ưu não? - Thưa không!
8.
Các người có thấy một ngã luận thủ nào mà ngã luận thu
ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu bi,
khổ, ưu, não? - Thưa không?
9.
Thế Tôn cũng không thấy ngã luận thủ nào, mà ngã luận
thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu,
bi, khổ, ưu, não.
10.
Các người có ý chỉ kiến y nào mà kiến y ấy được y chỉ
như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
- Thưa không !
11.
Các người có thấy kiến y nào mà kiến y ấy được y chỉ
như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não? - Thưa
không !
12.
Thế Tôn cũng không thấy kiến y nào mà kiến y được y chỉ
như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
13.
Nếu có ngã thời có ngã sở thuộc, nếu có ngã sở thuộc
thời có ngã của tôi. Nếu ngã và ngã sở thuộc không thể
được chấp nhận là thường còn, thời kiến xứ này –
“Đây là thế giới đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ
thường còn, thường hằng”, kiến xứ ấy có hoàn toàn ngu
si không? Kiến xứ ấy thực sự là triệt để ngu si.
VI.
Quan điểm vô ngã của đức Phật:
Sắc,
thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, chịu sự biến
hoại, thời thật không hợp lý khi chánh quán năm thủ uẩn:
“Cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi”.
Bất
cứ sắc pháp nào, thọ pháp nào, tưởng pháp nào, hành pháp
nào, thức pháp nào, quá khứ tương lai hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các
pháp ấy là “cái này không phải của tôi, không phải là
tôi, không phải tự ngã của tôi”. Cần phải như thật quán
với trí tuệ.
VII.
Nhờ quán vô ngã đưa đến giải thoát.
Nhờ
quán như vậy, thấy như vậy, vị Thanh văn nhàm chán đối
với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán dối với tưởng,
nhàm chán đối với hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm
chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự
giải thoát có trí khởi lên biết được “ta đã giải thoát”.
Vị ấy biết “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
gì nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”.
VIII.
Những đặc tánh của một vị đã giải thoát.
1.
Tỳ kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ các chướng ngại,
nghĩa là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho
như cây tala bị chặt đầu, không thể tái sanh trong tương
lai.
2.
Tỳ kheo ấy được gọi là đã lấp đầy các thông hào tức
là đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử.
3.
Tỳ kheo ấy đã nhổ lên cột trụ, tức là đã đoạn trừ
khát ái, đã cắt tận gốc rễ.
4.
Tỳ kheo ấy đã mở tung các ổ khóa, đã đoạn trừ năm hạ
phần kiết sử...
5.
Là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng
xuống, không có gì hệ lụy, tức là đã đoạn trừ ngã mạn.
IX.
Thế Tôn bị xuyên tạc là chủ trương chủ nghĩa hư vô.
Vì
Thế Tôn thuyết một vị Tỳ kheo được giải thoát như vậy
sẽ không một ai tìm được dấu vết. Ngài nói thêm: “Ta
nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu
vết”. Vì lúc thuyết giảng như vậy, một số ngoại đạo
xuyên tạc Thế Tôn là chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề
cao đoạn diệt, hủy diệt và sự tiêu diệt các hữu tình.
Thế Tôn phủ nhận lời xuyên tạc như vậy. Xưa cũng như
nay, Thế Tôn nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Nếu có ai
phỉ báng Như Lai, nhiếc mắng Như Lai, Thế Tôn không có sân
hận. Nếu có ai tôn trọng cúng dường Như Lai, Thế Tôn không
có hoan hỷ, không có thích thú. Thế Tôn chỉ suy nghĩ: “Đây
là điều xưa kia đã từng biết rõ. Ở đây là những trách
nhiệm Ta phải làm”. Do vậy, Thế Tôn khuyên các Tỳ kheo
chỗ có tức tối, sân hận nên bị người chỉ trích. Chỗ
có hoan hỷ thích thú nên được người ta lễ bái cúng dường,
các Tỳ kheo hãy suy nghĩ: “Đây là điều xưa kia đã từng
biết rõ. Ở đây là những trách nhiệm ta phải làm”.
X.
Lời Thế Tôn khuyên dạy:
“Này
các Tỳ kheo, cái gì không phải các người, các người hãy
từ bỏ. Các người từ bỏ sẽ đem lại hạnh phúc an lạc
lâu dài. Sắc không phải của các người, hãy từ bỏ sắc.
Thọ không phải của các người, hãy từ bỏ thọ. Tướng
không phải của các người, hãy từ bỏ tường. Các hành
không phải của các người, hãy từ bỏ hành. Thức không
phải của các người, hãy từ bỏ thức. Các người từ bỏ
sắc, thọ, tưởng, hành, thức sẽ được hạnh phúc an lạc
lâu dài cho các người”.
Như
trong rừng Jetavana này, nếu người thâu lượm cỏ, cây nhành,
lá, đốt lên hay làm theo ý họ muốn. Các Tỳ kheo không nghĩ
rằng người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta và làm
với chúng ta tùy theo ý muốn. Vì sao vậy? Vì cỏ cây, nhành,
lá không phải tự ngã, không phải sở thuộc của tự ngã.
Cũng vậy, cái gì không phải của các người, hãy từ bỏ
chúng. Từ bỏ chúng sẽ đem lại hạnh phúc cho các người.
Và cái gì không phải của các người? Chính là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức.