Ý
NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO
Theo
truyền thuyết Nam tông, đức Phật đản sinh, thành đạo và
nhập Niết Bàn cùng trong một ngày, tức là ngày Rằm trăng
tròn tháng Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức
Phật đản sinh vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8
tháng Tư), thành đạo ngày mồng 8 tháng Chạp, và nhập Niết
Bàn vào ngày Rằm tháng Hai âm lịch. Nhưng Bắc tông hay Nam
tông, quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là một. Chí
nguyện xuất gia, quá trình tầm đạo học đạo, hành khổ
hạnh, hành Thiền, tu tập Thiền quán, chứng Chánh Đẳng Giác
cùng là một. Quá trình ấy đều được các học phái chấp
nhận, dù có những sai khác về chi tiết.
Theo
truyền thống, Thái tử đi dạo chơi bốn cửa thành, thấy
một người già, một người bệnh, một người chết và một
người tu sĩ xuất gia. Bốn hình ảnh được chứng kiến này
làm Ngài xúc động rất mạnh. Ba hình ảnh đầu mở mắt
cho Ngài thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử đè nặng trên kiếp
sống con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu con đường
giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già, bệnh, chết. Do vậy
chí nguyện xuất gia của Ngài đã được minh định rõ ràng
như đã được diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
“Này
các Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng
Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại
tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị
già , tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị
sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm...
Vậy Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của
cái bì sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn,
khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già... cái không
già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị
sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm. Sau khi biết
rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không
ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn”
(Trung Bộ Kinh I, 163).
Ở
nơi đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò của cảm thọ (Vedanà)
rất là đặc biệt trong quá trình xuất gia, tu đạo và thành
quả của Ngài, chính vì thấy sự đau khổ của chúng sinh,
và đau khổ (Dukkha) là một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh,
đau khổ vì bị già, đau khổ vì bị bệnh, đau khổ vì bị
chết nên Ngài mới xuất gia tìm đạo. Cho nên đạo Phật
có thể nói là một đạo bắt đầu với một cảm thọ tức
là khổ thọ và chấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức
là lạc thọ, giải thoát lạc, chánh gìác lạc. Ở đây chúng
ta hiểu một cách toàn diện câu nói rất đặc biệt của
đức Phật: “Trọn đời Ta thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai
điều: sự khổ và sự diệt khổ” (Trung Bộ I, 140).
Với
tâm nguyện giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử nên
Thái tử xuất gia tu đạo, như được chính Ngài diễn tả
trong đoạn kinh sau đây:
“Rồi
này các Tỳ kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu,
tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong
thời vàng son cuộc đời, mặc dù cha mẹ không bằng lòng,
nước mắt đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ râu tóc, đắp
áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Ta xuất gia như vậy, để đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu
vô thượng, tối thắng an tịnh, đạo lộ, hướng đến tịch
tịnh...” (Trung Bộ Kinh I, trang 163).
Sau
khi xuất gia, Thái tử đi đến học đạo với Alàra Kàlàma
và Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả Vô sở hữu
xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà
hai vị này đạt được, Ngài suy nghĩ: “Pháp này không hướng
đến yểm ly, ly tham, đoạn, diệt, an tịnh, thượng trí, giác
ngộ, Niết Bàn mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở
hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các
Tỳ kheo, Ta không tôn kính các pháp này, và từ khước pháp
ấy, Ta bỏ đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
Tiếp
đến là những năm khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy
giờ, có nhiều vị giáo chủ tin tưởng rằng khổ hạnh là
con đường đưa đến giải thoát; có hành hạ thân xác, có
cảm thọ khổ đau mới hy vọng giải thoát giác ngộ.
Trong
Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập nghiến răng, dấu chặt
lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm,
đánh bại tâm. Rồi Ngài tu tập Chỉ tức Thiền (tức là
Thiền nín thở), chịu những khổ đau kinh khủng, khi thì bị
tiếng gió động kinh khủng thổi ngang qua lỗ tai như tiếng
ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh khủng thổi ngang qua đầu,
khi thì bị đau đầu một cách kinh khủng, khi thì bị một
sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức Phật tường thuật
lại đời sống tu khổ hạnh:
“Và
này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống,
ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen, hay súp
đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức
gầy yếu. Vì ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những
gọng cỏ hay những đốt cay leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít,
bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta
ăn quá ít, xương sống phơi bày của Ta giống như một chuỗi
trái bóng; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của
Ta giống như rui cột của một sàn nhà hư nát; vì Ta ăn quá
ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt
giống như ánh nước long lanh nằm sâu trong một giếng nước
thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu của Ta trở thành nhăn
nheo khô cằn như trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín,
bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Aggivessana,
nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng” thì chính xương sống
bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”
thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, này Aggivessana,
da bụng của Ta đến bám chặt xương sống”.
(Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
Hiện
nay ở các chùa Việt Nam có thờ tượng Phật gọi là tượng
Tuyết Sơn hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn da bọc lấy
xương, như chúng ta được thấy ở chùa Bút Tháp.
Điều
quan hệ ở nơi đây là những bài học, những kinh nghiệm,
vị Bồ-tát đã rút tỉa ra được, khi tự mình tu khổ hạnh
như vậy: “Này Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh
tấn, tận lực, dù cho niệm được an trú không dao động,
nhưng thân của Ta vẫn bị khích động không được khinh an,
vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại
khổ thọ ấy”. Rồi vị Bồ-tát nghĩ đến lúc còn nhỏ
khi vua cha đang dự lễ cày cấy, và Thái tử được đặt
ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập sơ Thiền: “Ta ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”. Khi an
trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác
ngộ chăng?”. Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý
thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến
giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng,
lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?”.
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thọ này,
một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp”. (Đại kinh Saccaka,
Trung Bộ Kinh I, trang 246-Bồ-tát).
Vị
Bồ-tát nói lên kinh nghiệm riêng của Ngài về vấn đề Thiền
như sau:
“Và
này Aggivessana, sau khi ăn thô thực, và được sức lực trở
lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có
tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được
tồn tại nhưng không chi phối tâm ta. Diệt tầm và tứ, chứng
và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như
vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không
chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc
thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi
Ta, được tồn tại, nhưng Ta không chi phối tâm Ta”. (Trung
Bộ Kinh I, trang 247).
Ở
đây, thế giới hành Thiền là một thế giới cảm thọ, cảm
thọ sơ Thiền đưa đến hỷ lạc là một cảm thọ này do
sống viễn ly đưa đến. Thiền thứ hai cũng là một cảm
thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng hỷ lạc này do định sanh.
Thiền thứ ba cũng là một cảm thọ. Xả niệm lạc trú, không
còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và Thiền thứ tư cũng
là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn,
và được xả thay thế và xả cũng là một cảm thọ.
Khi
đã nhận thức được con đường phái đi, vị Bồ-tát đi
tới Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả
ái một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần,
có một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng
mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa
đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh
tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và
nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi mà
vị Bồ-tát lựa chọn là dưới gốc cây Bồ đề ở Bồ
đề Đạo tràng, và con sông kế cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền).
Theo truyền thống Nam tông, đêm ấy Ngài thành đạo chứng
quả Bồ đề, và sau khi thành đạo, Ngài ở lại chung quanh
cây Bồ đề đến 49 ngày. Theo truyền thống Bắc tông, sau
khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày rồi mới chứng
quả. Đó là những sai khác về học phái chưa được giải
thích tường tận. Điều quan hệ là Ngài đã thành đạo dưới
gốc cây Bồ đề, sau khi thực hiện quá trình thành đạo:
xuất gia, học đạo, tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quán và
chứng quả Chánh Đẳng Giác.
Con
đường đức Phật tự mình tu hành chứng quả và giảng dạy
lại cho các đệ tử là con đường Giới, Định, Tuệ. Giới
là một nếp sống lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện
pháp, như đã được diễn tả trong nhiều kinh điển. Thứ
hai là Định, tức là Thiền định, phương pháp tập trung
nội tâm trên những đối tượng lựa chọn để đoạn trừ
năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối,
nghi và thay thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc,
nhất tâm. Các Thiền chi này được giảm dần cho đến Thiền
thứ tư, chỉ có xả và nhất tâm. Tới đây chấm dứt giai
đoạn Thiền định thứ hai và mở đầu giai đoạn thứ ba
tức là giai đoạn trí tuệ.
Chính
xả và nhất tâm, tức là Thiền thứ tư đóng một vai trò
rất quan trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu sĩ Một
mặt, Thiền thứ tư là vị trí người hành giả, có đủ
nội lực, nghị lực để đối trị ác ma, đối trị sức
mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và nhất tâm đạt
được địa vị cao nhất của Thiền sắc giới, Thiền này
chấm dứt giai đoạn Giới (Sìla) và Định (Samàdhi) và mở
đường cho giai đoạn thứ ba tức là Tuệ (panna). Thiền này
chấm dứt Samatha (Chỉ) và mở đầu cho Vipassanà (Quán). Nói
một cách khác, phải với định lực của Thiền thứ tư là
xả và nhất tâm, người hành giả mới có sức mạnh để
Thiền quán có hiệu quả và tiến dần đến đích giác ngộ,
giải thoát. Tiến trình giải thoát, giác ngộ của đức Phật
dược diễn tả như sau:
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy.
Ta dẫn tâm đến Túc mạng minh...
Như
vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các
nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là đệ
nhất minh Ta đã chứng được trong đêm canh một. Vô minh diệt
thì minh sanh, ám diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ
sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như
vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của
chúng sinh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhãn, thấy
sự sống và chết của chúng sinh . . . Này Aggivessana, đó là
đệ nhị minh Ta đã chứng được trong đêm canh hai, vô minh
diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy này Aggivessana, lạc thọ
sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
“Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy,
Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí Ta biết như thật:
“Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của
Khổ”, biết như thật “Đây là Khổ diệt”, biết như
thật “Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”, biết
như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như
thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các
lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy,
tâm của Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát
khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như
vậy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Ta đã
biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm
đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác
nữa”. Này Aggivessana, đó là đệ tam minh Ta đã chứng trong
canh ba, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta
sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này
Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không
chi phối tâm Ta”.
Có
một con đường làm nổi bật vai trò các cảm thọ trong quá
trình giải thoát và giác ngộ, vì trong phương pháp này, chúng
ta thấy rõ sự đóng góp vô cùng quan trọng của cảm thọ.
Vị
hành giả, cùng với xả và nhất tâm của Thiền thứ tư,
thanh tịnh trong sáng như vậy, không tập trung vào bốn Không
định vì là những pháp hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không
suy tưởng đến Hữu hay Phi hữu, nên không có chấp thủ mọi
sự vật gì ở đời. Không chấp thủ nên không sợ hãi tháo
động. Do không sợ hãi tháo động, vị hành giả chứng Niết
Bàn, tự biết mình đã chứng quả A-la-hán: “Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, những điều gì nên làm đã làm, không
còn trở lại trạng thái này nữa”. Khi vị ấy cảm thọ
lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết
cảm thọ ấy là vô thường, không nên đắm trước, không
phải là đối tượng để hoan hỷ. Vị ấy biết không có
hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ ấy. Khi vị ấy cảm
giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy sinh mạng
làm tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ,
lấy thân làm tối hậu hay lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị
ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ
ở nơi đây trở thành thanh lương. Do vậy vị hành giả thành
tựu được bốn Thắng xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị
ấy thành tựu Tối thắng tuệ thắng xứ (Pannà) nghĩa là
trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của
vị này an trú vào Chân đến (Sacca) không bị dao động, không
thể đưa đến hư vọng, thuộc về Chân đế, Niết Bàn. Vị
hành giả thành tựu Tối thắng đế thắng xứ (Saccadhitthànà),
tức là Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh
y vô trí thức của vị ấy được đoạn tận gốc rễ, không
có thể tái sanh. Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà),
tức là sự xả ly tất cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục;
phẫn nộ thuộc sân hận; vô minh thuộc si mê, không có thể
hiện hữu trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Vị
ấy thành tựu được tối thắng, tịch tĩnh thắng xứ (Upasamàditthànà).
Những vọng tưởng: “Tôi là, tôi là cái này, tôi không là
cái này, tôi sẽ không là cái này. Tôi sẽ có sắc, có tưởng”.
Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục bướu, là mũi tên,
vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được gọi
là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không
già, không có dao động, không có hy cầu. Không sanh làm sao
già được, không già làm sao chết được, không chết làm
sao dao động được. Không dao động làm sao hy cầu. Cho nên
vị ấy đạt được tịch tĩnh. Ở đây chúng ta nhận thấy
vị hành giả khi giác ngộ giải thoát không phải thụ động,
không phải đoạn diệt, không phải trở thành vô tri giác
như thường bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất
sinh động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh
thắng xứ (Ariyàdhitthànàni): trí tuệ, chân đế, tuệ xả,
tịch tịnh, tác động rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ
được chấm dứt hoàn toàn, mọi cảm thọ trở thành thanh
lương, tịch tịnh, không có sanh, lão, bệnh, tử, không còn
khổ vì sanh, khổ bệnh, khổ vì già, khổ vì chết. Vị ấy
thật sự giác ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành đạo.
Quá
trình giác ngộ giải thoát của đức Phật Thích-ca Mâu-ni
cũng như sự giác ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã
được thể hiện trọn vẹn trong ngày thành đạo của Ngài.
Từ nơi sự thành đạo của Ngài, chúng ta rút tỉa được
một số kinh nghiệm và hiểu biết như sau:
1.
Quá trình giác ngộ, giải thoát của đức Phật là một quá
trình tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người
hiện tại, không có thần linh, không có bùa pháp, không có
cứu rỗi.
Trong
quá trình này các cảm thọ đóng một vai trò chủ yếu vô
cùng quan trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất gia; chính
khổ thọ khiến Ngài từ bỏ khổ hạnh; chính lạc thọ khiến
Ngài hành Thiền; chính xả thọ là chân đứng để Ngài giác
ngộ giải thoát, thành đạo.
2.
Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là Giới, Định,
Tuệ, nghĩa là phải sống một nếp sống tốt lành trong sạch,
dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những đối
tượng có lựa chọn để phát triển nội lực định tâm,
và với xả và nhất tâm trong sáng của Thiền thứ tư, bước
vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và
lấy trí như thật ấy đoạn tận các lậu hoặc để được
giác ngộ giải thoát.
3.
Đức Phật là một người như chúng ta, sanh ra là một người,
sống như một người và từ giã cõi đời như một người,
nhưng là một người vì sự đau khổ của chúng sinh mà xuất
gia tu đạo, một con người có đủ nghị lực kiên trì can
đảm, để chiến thắng mọi trở ngại cuối cùng tìm ra được
con đường diệt khổ cứu độ chúng sinh.
Ngày
Thành Đạo của Ngài nói lên sự thành công cao cả của con
người đã biết nâng cao phẩm giác tuyệt vời của con người,
có khả năng giác ngộ và đã thành tựu sự giác ngộ một
cách trọn vẹn dưới gốc cây Bồ đề.