SỐNG
THEO LÝ TƯỞNG BỒ TÁT
Trong
đạo Phật có hai tư trào, hai xu thế tựa hồ như mâu thuẫn
nhau, nhưng thật ra thì bổ sung hỗ trợ cho nhau; cả hai tư
trào đó đều có ý nghĩa đối với cuộc sống của con người
hiện đại.
Thứ
nhất là tư trào hướng nội, quay trở về cái mà đạo Phật
thường gọi là bộ mặt thật xưa nay của chính mình, con
người thật của mình.
Thứ
hai là tư trào hướng ngoại, mà sách Phật thường gọi là
lợi hạnh độ sanh. Lợi hạnh là làm tất cả mọi điều
lợi ích cho tất cả mọi loài hữu tình. Độ sanh là
giải thoát mọi loài hữu tình khỏi mọi nỗi bất hạnh,
đặc biệt là nỗi bất hạnh lớn lao nhất là sống chết
luân hồi. Thực chất của tự trào hướng ngoại này là đồng
nhất cá nhân mình với toàn thể mọi người, mọi chúng sinh
trong thế giới vũ trụ.
Cả
hai xu hướng nói trên tiêu biểu cho hai hạnh lớn của đạo
Phật là trí tuệ và từ bi, và đức Phật là bậc Thánh được
Phật tử toàn thế giới ca ngợi, tôn sùng như là thể hiện
một cách hoàn hảo nhất hai đức hạnh trí tuệ và từ bi
đó.
Tôi
xin lần lượt phân tích cặn kẻ hơn hai xu thế của đạo
Phật, mà tôi tin rằng có một giá trị hiện sinh lớn (great
exitstential dimension) đối với thời đại hiện nay của chúng
ta.
1.
Xu thế hướng nội: Quay về con người thật của chính mình.
Chúng
ta có thể suy nghĩ gì về cuộc sống thác loạn, chạy theo
lạc thú vật chất đang là đặc trưng nổi bật của những
xã hội có trình độ văn minh vật chất cao, và cả của những
xã hội đang phát triển, nhưng bị nền văn minh đó làm cho
mê hoặc và chói lòa? Có sức mạnh sâu kín gì nằm ở đằng
sau những tệ nạn xã hội như ma túy, tội phạm ở lứa tuổi
thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và bạo dâm, đồng tính
luyến ái, bệnh tâm thần, nạn tự sát cá nhân hay tập thể
v.v . . . ? ở đằng sau tất cả nếp sống thác loạn đó là
xu thế của con người bất hạnh muốn thoát khỏi cái ta hạn
hẹp và vị kỷ, muốn thoát khỏi một tâm trạng bất an và
ưu tư dai dẳng, thường trực mà tiếng Anh gọi bằng danh
từ chung là anxiety. Nhưng vì sao lại có tâm trạng bất an
và ưu tư thường trực đó mà con người hiện đại muốn
tìm sự lãng quên trong nếp sống thác loạn, đôi khi mất
cả tính người.
Phải
chăng là con người tưởng rằng, vì nội tâm đầy ưu tư
và buồn chán, cho nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc
thú vật chất? Phải chăng con người tưởng rằng càng chiếm
hữu nhiều của cải và tiện nghi vật chất, con người sẽ
càng được thêm hạnh phúc, mọi nỗi ưu tư trong nội tâm
sẽ được xóa bỏ.
Ảo
tưởng này đâu có mới mẻ mà có tính muôn thuở ở ấn
Độ cổ đại, đã từng có triết phái Duy vật (Carvaka) chủ
trương như thế. Và ở thành phố Athène thời Socrates, có
những triết gia thuộc phái ngụy biện (Sophistes) cũng đã
từng bênh vực cho một lối sống khoái lạc vật chất tối
đa như là một lối sống lý tưởng, xứng đáng được con
người mơ ước.
Đạo
Phật nói đó là ảo tưởng của những người khát nước
mà còn ăn mặn, và càng ăn mặn càng bị khát. Đạo Phật
vạch ra rằng, nỗi bất an và ưu tư nội tâm chỉ có thể
giải quyết ở trong nội tâm, chứ không thể giải quyết
ở bên ngoài. Phương pháp tu Thiền của đạo Phật – mà
người phương Tây quen gọi là đạo Phật Thiền (Zen Buddhism)
chính là phương pháp giúp cho con người trở về với nội
tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu
tư và bất an của nội tâm. Nội tâm chúng ta không khác gì
mặt nước hồ, bị những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại
cảnh làm cho nổi sóng và vẩn đục. Chúng ta ưu tư chúng
ta bất an chính vì chúng ta hằng ngày sống với cái nội tâm
nổi sóng đó, trong khi cả lớp nước hồ sâu thẳm, trong
lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ, không phải của
mình.
Mục
đích của Thiền không ở ngoài việc chỉ bày cho chúng ta
những phương pháp thích hợp để làm cho bề mặt của nội
tâm ta không còn nổi sóng, không còn dao động, để có thể
nhìn sâu vào những lớp nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn
là cái tâm thật của chúng ta, chân tâm của chúng ta.
Nội
tâm con người, từ bề mặt cho đến những bề sâu, một
khi được làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như gương,
sẽ là nguồn an lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý là ánh
sáng, là Niết Bàn. Phương pháp tu Thiền rất nhiều vì bản
tính con người muôn vàn sai biệt, người thì độn căn, người
lợi căn, có người nặng về tham, có người lại sân và
si nhiều; hay là ngược lại. Thế nhưng mục đích cuối cùng
phải đạt tới của mọi phương pháp tu Thiền là an tịnh
nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội
tâm từ dao động trở thành yên tịnh, từ mê mở trở thành
sáng suốt. Tâm sáng suốt, đó chính là trí tuệ Bát-nhã,
chính là cái mà sách Anh ngữ thường gọi là trí tuệ siêu
việt Transcendental wisdom. Có được trí tuệ Bát-nhã, thì tức
là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy tất cả biết hết tất
cả (Omnicient).
Một
ông vua mà giới sử học quốc tế thường biết đến như
là một anh hùng đã lãnh đạo quân dân Việt Nam hai lần chiến
thắng đội quân xâm lược Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, đội
quân đã từng làm mưa làm gió trên các chiến trường châu
âu, và Châu Á thời bấy giờ. Ông vua đó Trần Nhân Tông.
Ông vua đó, sau khi đánh bại quân Nguyên Mông đã không chịu
ở lại ngôi vua để tận hưởng vinh quang của chiến thắng,
mà đã nhường ngôi cho con, xuất gia theo đạo Phật, trở
thành vị Thiền sư lỗi lạc, lập ra phái Thiền Trúc Lâm
Yên Tử. Những tác phẩm Phật học của ông, toát lên nhiều
tư tưởng kỳ đặc. Một trong những tư tưởng đó là theo
nguyên văn lời ông.
“Bụt
ở trong nhà,
Chẳng
phải tìm xa,
Nhân
khuẩy bổn nên ta tìm Bụt,
Cốc
mới hay chính Phật là ta”.
(Cư Trần Lạc Đạo Phú - hội 5)
Nghĩa
là theo Trần Nhân Tông, con người thật của chúng ta chính
là Phật, và chính vì chúng ta quên mất cái bổn, cái gốc
đó cho nên chúng ta mới là chúng sinh, có trí óc mê muội
và thân tâm đau khổ bất hạnh. Niềm ưu tư, bất an có thường
trực trong nội tâm của chúng ta chính là bắt nguồn từ ở
chỗ chúng ta quên mất con người thật của chúng ta là Phật,
sống với con người giả của chúng ta là chúng sinh. Đạo
Phật của Trần Nhân Tông cũng như của đời Trần nói chung
là một đạo Phật hướng nội rất rõ nét, rất sinh động.
Trên từ vua cho đến các quan lại, tướng lãnh, binh sĩ, dân
thường nếu mọi người đều tin rằng mình là những vị
Phật sẽ thành, do đó ngay trong hiện tại phải sống xứng
đáng với vị Phật ở trong mình, sống với những đức hạnh
của Phật như là từ bi, trí tuệ, dũng khí, vô úy... thì
hãy hỏi có giặc ngoại xâm nào, kể cả quân đội Nguyên
Mông thiện chiến, có thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không
bị đánh bại.
Cổ
đức có câu:
“Khổ
hải vô biên,
Hồi
đầu thị ngạn”.
Nghĩa
là:
“Biển
khổ mênh mông,
Nhưng
quay đầu lại thì sẽ thấy bờ ngay”.
Quay
đầu lại hướng về nội tâm, quay đầu lại sống với con
người thật của mình, và con người thật đó chính là Phật
với đầy đủ hai đức hạnh trí tuệ và từ bi. Đó chính
là phương thuốc mà đạo Phật có thể cống hiến cho con
người hiện đại, con người hiện nay đang lãng đãng như
khách phong trần trên khắp các nẻo đường, tìm kiếm sự
thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm đó là vô
vọng. Đạo Phật nói: Thôi hãy đừng tìm kiếm đâu xa nữa?
Hãy trở về với chính mình, với con người thật của mình.
Trần
Nhân Tông, nhà vua–Thiền sư mà tôi đã giới thiệu trên
đây có hai câu thơ chữ Hán:
“Gia
trung hửu bán hưu tầm mích
Đối
cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”.
Nghĩa
là:
“Trong
nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
Lặng
lòng đối cảnh hỏi chi Thiền”.
Trong
nhà có sẵn ngọc, không cần tìm kiếm đâu xa nữa, cũng như
nói chính mình là Phật rồi, thôi đừng cầu Phật, tìm Phật
ở đâu xa nữa. Và vì đã là Phật, cho nên ngoại cảnh dù
có biến đổi, hấp dẫn như thế nào cũng không thể ảnh
hưởng chi phối. Nội tâm con người vẫn bình lặng. Đã bình
lặng thì sáng suốt, không gì không thấy, không biết. Và
đó chính là Thiền rồi, cũng không cần học hỏi Thiền làm
gì.
2.
Xu thế hướng ngoại: Một cuộc sống hoàn toàn vô ngã, vị
tha, tích cực, năng động, phong phú.
Con
người, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết
quả, cuối cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy
cái gọi mình là ta thực ra không tồn tại. Cả thân và tâm
chỉ là một dòng, một chuỗi hiện tượng tâm và sinh lý
biến chuyển liên tục trong từng sát na một và ở bên trong
hay là ở đằng sau dòng chảy liên tục đó, không có một
cái gì gọi là linh hồn hay là cái ta vĩnh cửu.
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm (Suragama) một bộ kinh Đại thừa quan trọng
đã minh họa thuyết Vô ngã của đạo Phật bằng một ảnh
dụ rất sinh động và cụ thể:
“Cũng
như trăm ngàn biển cả trong lặng mênh mông, mà bỏ đi tất
cả rồi chấp nhặt một bọt nước làm mình...”. Chấp thân
tâm này là ta, cũng như biển cả quên mình là biển cả rồi
chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.
Con
người giác ngộ lý vô ngã của nhà Phật, phát hiện thấy
mình không phải là cái bọt nước, mà là cả đại dương
rộng lớn, mình là đồng một thể với tất cả mọi người,
mọi chúng sinh, mọi loài hữu tình, và từ nhận thức đầy
trí tuệ này, con người phát ra một lòng từ rộng lớn, lòng
bi rộng lớn, nguyện làm tất cả những gì có thể làm được
vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, của tất cả mọi loài. Sống như vậy, đạo Phật gọi là sống theo lý tưởng Bồ-tát
(Bodhisattva ideal). Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi
người, mọi chúng sinh, đúng theo nguyên lý mọi người, mọi
chúng sinh đều bình đẳng, cùng một thể.
Tôi
tin rằng lý tưởng Bồ-tát, như được trình bày trên đây,
là một lý tưởng có giá trị hiện thực lớn đối với
thế giới hiện đại, vì các tôn giáo lớn trên thế giới
đều có thể chấp nhận và thực hiện lý tưởng Bồ-tát
của đạo Phật trên những mức độ khác nhau, và với những
tên gọi khác nhau.
Đạo
Gia-tô nói: “Hãy thương người như thể thương mình”. Đạo
Hồi nói: “Người Hồi giáo trong bốn biển đều là anh em”.
Đạo Phật nói: “Hãy yêu thương tất cả chúng sinh như người
mẹ yêu thương đứa con một của mình”.
Tất
cả những lời lẽ khác nhau đó đều nói lên một nội dung
thống nhất là tình thương rộng lớn, bao trùm lên mọi người
không phân biệt chủng tộc và dân tộc, màu da và giới tính
v.v. . . Tình thương rộng lớn đó phải là nét đặc trưng
nổi bật nhất của một trật tự đạo đức mới, rất cần
thiết cho xã hội và thế giới hiện đại, ở phương Tây
cũng như phương Đông.
Đạo
Phật khuyến cáo mọi người hãy quay về với người thật
của mình, thế nhưng con người thật của chúng ta lại là
vô ngã. Nó không hạn chế trong cái thân và tâm vô thường
hạn hẹp này, nó là cũng một thể với tất cả mọi người,
mọi chúng sinh và mọi loài hữu tình khác. Và sống hòa nhập
với mọi người, mọi chúng sinh chính là lối sống vô ngã
vị tha theo lý tưởng Bồ-tát.
Nói
tóm lại, hướng nội để tìm con người thật của chính
mình. Nhưng sau khi phát hiện con người thật của mình lại
không có mình không có ta, lại là vô ngã, đồng nhất thể
với tất cả mọi người, mọi chúng sinh khác, cho nên đạo
Phật lại chủ trương một cuộc sống năng động tích cực,
hướng ngoại không phải là để tìm và hưởng thụ những
lạc thú vật chất tầm thường và phi đạo đức, mà là
để mưu lợi ích và đem lại an lạc cho mọi người, mọi
loài Trong cả hai xu thế hướng nội và hướng ngoại này,
nổi bật lên chủ thuyết Vô ngã của đạo Phật, nó không
khác gì sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ giáo lý, đạo
đức và thực tiễn tu hành của đạo Phật.
Khi
đức Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài đã nhập diệt,
tại bất cứ nơi nào đạo Phật có mặt thì lý tưởng vô
ngã vị tha bao giờ cũng là chuẩn mức bất di dịch của nếp
sống đạo đức Phật giáo, đối với người xuất gia cũng
như người tại gia. Lý tưởng đó chói sáng Phật giáo Nguyên
thủy cũng như Phật giáo phát triển, Phật giáo Nam tông cũng
như Phật giáo Bắc tông, hồi Phật còn tại thế cũng như
mãi mãi về sau này. Bất cứ mọi người nào mà chối bỏ
lý tường đó, sống ngược lại với lý tưởng đó, thời
không thể được xem như là người Phật tử chân chính, chứ
đừng nói gì đến bậc A-la-hán. Ấy thế mà vẫn có người
viết sách phê phán, lý tưởng của A-la-hán là vị kỷ hẹp
hòi. Họ không hiểu rằng muốn thành A-la-hán, điều kiện
tiên quyết là phải diệt trừ mọi tư tưởng về cái ta,
phải giác ngộ về lý vô ngã vị tha.
Chúng
ta hãy nghe lại lời đức Phật khuyến dụ lớp học trò đầu
tiên của Ngài:
“Này
các Tỳ kheo, các người cần phải tu hành, vì an lạc cho số
đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì hạnh phúc của chư Thiên và loài Người...” (Mahavagga,
19)
Cần
nhắc lại rằng, sớm từ năm 300 trước Công nguyên, vào một
thời mà đạo Phật Đại thừa chưa hưng khởi thì Hoàng đế
Asoka ở Ấn Độ đã phái nhiều đoàn truyền giáo mang thông
điệp của đức Phật Thích-ca đến tận các xứ Xiri, Hy Lạp,
Ai Cập và Bắc Phi và nhiều vùng xa xôi khác trên thế giới.
Theo truyền thuyết, một phái đoàn truyền giáo của Asoka đã
đến tận nước Việt Nam, và có xây một bảo tháp ở đây.
Truyền giáo ở đất nước xa xôi, bất chấp những trở ngại
về ngôn ngữ, phong tục tập quán v.v... là một hành động
không những vị tha mà còn dũng cảm nữa. Và đã có biết
bao nhiêu người đi mà không trở về trong sự nghiệp truyền
giáo của các tôn giáo lớn trên thế giới.
Thiếu
sót cơ bản của con người hiện đại là đã đánh mất con
người thật của chính mình, mà chạy theo cái Ta giả với
những khao khát thèm muốn không bao giờ có thể thỏa mãn.
Con người hiện đại ở xã hội văn minh phương Tây, có thể
sống một dời sống tiện nghi vật chất thật đầy đủ,
nhưng chỉ thiếu một cái là hạnh phúc, là sự an ổn nội
tâm để thật sự thụ hưởng tất cả mọi của cải và
tiện nghi vật chất đó.
Đúng
như vậy, của cải và tiện nghi vật chất, lạc thú vật
chất không thể là mục đích tự nó, và cứu cánh được
Bởi vì, tối thiểu, con người phải có sự bình tĩnh và
thanh thản của tâm hồn mới có thể tận hưởng những lạc
thú vật chất hay tinh thần. Thế nhưng từ lâu, do cuộc sống
thác loạn và hướng ngoại, mất hài hòa với bản thân, với
thiên nhiên và xã hội, con người của xã hội văn minh phương
Tây đã đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản đó của tâm
hồn, là điều kiện tiên quyết và cơ bản của một hạnh
phúc chân chính và thật sự.
Ngay
từ thời Hy Lạp cổ đại, Socrates đã vạch ra tất cả sự
vô nghĩa lý của một lối sống tôn thờ khoái lạc vật chất
như là độc nhất và tối thượng. Chúng ta có thể đọc
lời phê phán sắc sảo đó của Socrates trong bài đối ngoại
Phillebus của Plato. Trong cuộc đàm thoại, Socrates đã dẫn
đối phương của mình là Protarchus đến kết luận vô lý
này là con người chỉ cần hưởng lạc thú tối đa, ngoài
ra thì không cần gì hết, kể cả lý trí, sự thông minh, trí
nhớ, kiến thức và quan niệm đúng đắn. Nghĩa là theo Protarchus, con người miễn là được hưởng lạc thú tối
đa, còn thì không cần gì nữa hết, kể cả sự thông minh,
lý trí, trí nhớ v.v. . .
Socrates
nói: “Như vậy thì không có trí nhớ làm sao ông nhớ được
ông đã được hưởng lạc thú: bởi lẽ ngay sau khi hưởng
lạc thú, ông không còn còn nhớ gì được hết, và hơn nữa,
vì ông cũng không có quan niệm đúng đắn, ông cũng không
nghĩ được rằng ông đã được hưởng lạc thú, và bởi
vì ông cũng thiếu khả năng lý trí, ông cũng mất khả năng
nhận thức được rằng ông sẽ còn được hưởng lạc thú
trong tương lai. Ông phải sống cuộc sống của con sò hay là
của những con vật sống nào khác mà trú xứ là đáy biển
mà linh hồn bị dấu kín ở trong vỏ cứng. Có phải tất
cả là như thế chăng, hay là chúng ta có thể nghĩ một cái
gì khác?”
Protarchus:
“Chúng ta không thể nghĩ khác được”.
Socrates:
“Nếu vậy thì phải chăng chúng ta có thể nghĩ rằng một
lối sống như thế là đáng mong ước?”
Protarchus:
“Này Socrates, lập luận của ông làm tôi điếc cả tai ...”
Tôi
dẫn chứng cuộc đàm thoại của Socrates để nói rằng con
người hiện đại, sống một cuộc sống văn minh vật chất
cao ở cuối thế kỷ XX này vẫn có thể tiếp tục suy nghĩ
ấu trĩ như Protarchus ở Athenes cách đây hai mươi lăm thế
kỷ .
Tất
nhiên, đạo Phật một mặt lên án cuộc sống chạy theo những
dục vọng vật chất thấp hèn, mặc khác cũng không phải
đề cao cuộc sống nghèo đói, kham khổ, đạo Phật lại càng
phê phán lối tu hành hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ
làm cho thân người bệnh hoạn và đầu óc con người u mê.
Đức Phật khuyến chúng ta tránh cả hai cực đoan chạy theo
dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh. Đức Phật
khuyến cáo học trò mình cũng như tất cả mọi người sống
nếp sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói sáng
đạo đức, giới hạnh và trí tuệ, một nếp sống mà tất
cả mọi người giàu hay nghèo, xuất gia hay tại gia, ở phương
Đông hay phương Tây đều có thể sống hay hướng đến. Một
nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình tĩnh nội tâm sự
sáng suốt của trí tuệ, giúp cho con người có thể thấy
được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà con người có
thể sống hài hòa với bản thân và làm chủ bản thân, sống
hài hòa với xã hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp
sống hài hòa đó, với bản thân, với xã hội và thiên nhiên,
con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự.
Nếu
tất cả mọi người đều chấp nhận và sống nếp sống
như vậy, thì cả thế giới chiến tranh và bất ổn này sẽ
sớm trở thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc, kỷ
nguyên XXI sắp tới đây sẽ trở thành kỷ nguyên của con
người, kỷ nguyên trong đó các giá trị nhân bản là thước
đo, là chuẩn mức của mọi giá trị, đường ranh giới phân
biệt thật hay giả, thành công hay thất bại, chánh kiến hay
tà kiến. Một kỷ nguyên trong đó con người trở thành vị
quan tòa tối thượng, đánh giá mọi hệ thống chính trị
xã hội, xem hệ thống nào ưu việt, đầy sức sống, hệ
thống nào lỗi thời, phải cương quyết tự cải tổ lại
hay là rút lui khỏi vũ đài lịch sử.
Xu
thế hướng nội, quay về với con người thật của chính
mình không thể bị hiểu nhầm, là tiêu cực, tự thu mình
trong tháp ngà. Trên đây, tôi có nói đến một xu thế khác
của đạo Phật, xu thế hướng ngoại dẫn tới một cuộc
sống vị tha tích cực, vì lợi lạc của tất cả mọi người,
mọi chúng sinh. Trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy,
có ghi những lời dạy của đức Phật, khuyến cáo các đệ
tử của mình hãy tích cực hoằng hóa độ sanh, và nhất là
thực hành Bốn nhiếp pháp để gần gũi chúng sinh, mưu lợi
lạc cho chúng sinh, gần gũi mọi người, đem lợi lạc cho
mọi người.
Bốn
nhiếp pháp đó là ái ngữ tức là lời nói dịu hiền, dễ
nghe, bố thí tức là giúp đỡ chúng sinh trên các mặt cung
cấp của cải vật chất, giảng giải đạo lý, giáo pháp
của đức Phật, che chở, bảo vệ chúng sinh nếu cần thiết,
và tùy hỷ với tất cả mọi điều lợi lạc cho chúng sinh,
và cuối cùng, đồng sự tức là cùng làm việc với chúng
sinh v.v... Bốn nhiếp pháp, ái ngữ, bố thí, lợi hành, đồng
sự là như vậy, chúng thể hiện nếp sống vị tha tích cực
của đạo Phật. (Xem Tăng Chi I, 387). Cùng với Bốn nhiếp
pháp, người Phật tử giác ngộ về thuyết vô ngã còn ra
sức tu tập, thực hành Bốn vô lượng tâm, tức là mở rộng
lòng từ lòng bi, lòng hỉ, lòng xả, bao trùm tất cả chúng
sinh khắp mười phương. Đồng thời cũng tu tập thực hành
sáu hạnh ba la mật, tức là bố thí, giới hạnh, nhẫn nhục,
tinh tấn, Thiền định, trí tuệ. Sáu hạnh này được tu tập
và thực hành đến chỗ hoàn hảo, triệt để sẽ giúp cho
những người sống theo lý tưởng Bồ-tát, có thể vứt bỏ
hoàn toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa nhập vào tất
cả chúng sinh, tất cả mọi người.
Đó
là nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý
Vô ngã của đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là tiêu
cực thụ động. Trái lại, nó rất tích cực, năng động
và phong phú, đa dạng. Mong rằng nó tỏ ra hấp dẫn đối
với con người hiện đại, đối với xã hội hiện đại.