- Đức Phật của chúng ta
- Vai trò của người có trí, của trí tuệ trong Đạo Phật
- Giới, Định, Tuệ con đường giáo dục chấm dứt đau khổ sanh tử luân hồi
- Chánh pháp và hạnh phúc
- Hội chúng tỳ kheo trong thời Đức Phật còn tại thế
- Kinh "Niệm hơi thở vô, hơi thở ra"
- Kinh Ví dụ con rắn
- Vấn đề tái sanh
- Ý nghĩa Phật thành đạo
- Người Việt Nam thương mẹ, kính cha qua ca dao, tục ngữ Việt Nam
- Sống theo lý tưởng Bồ Tát
- Đạo Phật và nếp sống thiên nhiên
- Năm giới, nếp sống lành mạnh, an lạc, hạnh phúc
- Ý đẹp với mùa xuân
- Một nền giáo dục toàn diện
- Dịch kinh và Đại học
- Chùa Việt Nam và mối liên hệ với nền văn hoá dân tộc
- Xuân về với những lời Phật dạy
Ý ĐẸP VỚI MÙA XUÂN
Mùa xuân đến như báo hiệu với chúng ta một tương lai tốt đẹp đang đến gần, giống như vừng rạng đông báo hiệu một ngày mới, tươi sáng đang đến gần vậy. Dù chưa đủ xua tan màn đêm còn sót lại, ánh rạng đông là tín hiệu đáng vui mừng và tin tường, vì nó báo hiệu bóng tối đang lùi dần, nhường chỗ cho ánh sáng mặt trời tỏa ấm và soi sáng muôn vật. Chúng ta đang đón tiếp một màu Xuân dân tộc với một niềm tin tưởng như vậy về quê hương đất nước chúng ta. Mặc dù còn nhiều khó khăn cần khắc phục và vượt qua, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực nhằm phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc và nhằm hòa nhập vào trào lưu tiến bộ chung của thế giới; và chúng ta tin tưởng một tương lai tốt đẹp đang đến gần với con người và đất nước Việt Nam. Đó là tín hiệu mùa Xuân đối với mọi người Việt Nam chúng ta.
Đối với người Phật tử thì mùa Xuân còn là tín hiệu của điềm lành, của phước nghiệp đang đến gần, đang chào đón chúng ta, những người làm lành, giống như bà con và bạn hữu đang vui mừng chào đón sự trở về của người khách viễn xứ vậy:
“Khách
lâu ngày ly huơng,
An
toàn từ xa về,
Bà
con cùng thân hữu,
Hân
hoan đón chào mừng.
Cũng
vậy các phước nghiệp,
Đón
chào người làm lành,
Đời
này và đời sau,
Như
thân nhân đón chào”.
(Pháp Cú, 219-220)
Người
khách ly hương quay về xứ sở, góp sức mình cùng xây dựng
quê hương tốt đẹp. Cũng vậy, các phước nghiệp quay về
với người làm lành, gióng tiếng nói cho cuộc sống thêm
đẹp, cho đời thêm tươi.
Hòa
chung niềm vui của đất nước đang có những chuyển biến
tốt đẹp, người Phật tử Việt Nam chúng ta càng tin tưởng
và nỗ lực nhiều hơn nữa trong nếp sống thiện, nếp sống
dạo đức và nêu cao nét đẹp đạo đức của mình, vì chúng
ta hiểu rằng, chỉ có nếp sống thiện, nếp sống đạo đức
mới xây dựng được một xã hội tốt đẹp, một đất nước
thật sự phát triển và ổn định. Nhân dịp này, chúng tôi
muốn giới thiệu với quý vị bài kinh “Giáo Giới Rahula”,
như là phương pháp sống đạo đức của người Phật tử,
mở đường cho hạnh phúc và an lạc của tự thân, gia đình
và xã hội, một bài kinh đã được vua A-dục cho khắc vào
bia ký và yêu cầu cả giới xuất gia và tại gia cần phải
tụng đọc và hành trì hằng ngày.
Bài
kinh này (Kinh số 61, Trung Bộ) do đức Phật giảng dạy cho
Tôn giả Rahula khi Tôn giả còn là Sa-di, đang tập sự làm
người xuất gia hành Sa-môn hạnh. Sa-môn hạnh là nếp sống
chuyên đào luyện thân tâm dựa trên pháp môn Giới, Định,
Tuệ của đức Phật. Bài kinh được tóm tắt như sau:
Hôm
ấy, đức Phật đến thăm Tôn giả Rahula đang sống tu tập
tại ngôi rừng Ambalatthika.Tôn giả Rahula đón tiếp bậc Đạo
sư của mình với một tâm tư hoan hỷ và một vài nghi thức
cần thiết như sửa soạn chỗ ngồi, múc nước rửa chân,
kính lễ bậc Đạo sư... Rồi đức Phật , trong khi đang rửa
chân, đã dùng ảnh dụ “chậu nước rửa chân”, để dạy
cho Tôn giả Rahula về hạnh không nói láo, bởi biết mà nói
láo là hành vi dược xem là phi Sa-môn hạnh, khiến Sa-môn hạnh
trở nên bị kém cỏi, bị đổ bỏ, bị lật úp, trở thành
trống rỗng, giống như ảnh dụ cái chậu nước rửa chân
vậy.
Tiếp
theo, đức Phật dùng ví dụ hai con voi lâm trận để minh họa
hai nếp sống khác nhau. Thứ nhất là nếp sống biết phòng
hộ lời nói (không nói láo), được ví cho con voi thứ nhất,
biết giữ gìn và bảo vệ cái vòi khi lâm trận, nên không
quăng bỏ mạng sống của nó nơi chiến địa, là nếp sống
đáng thực hành, đáng học tập. Thứ hai là nếp sống không
phòng hộ lời nói (nói láo), được ví như con voi thứ hai,
không biết giữ gìn và bảo vệ cái vòi khi lâm trận, nên
cuối cùng con voi ấy đành quăng bỏ mạng sống của mình
nơi trận mạc, là nếp sống không nên thực hành; bởi vì,
khi người ta không chú ý đến việc phòng hộ lời nói, khi
người ta nói láo mà không biết tàm quý xấu hổ thì điều
đó sẽ có nghĩa là con người ta có thể làm nhiều việc
tệ hại hơn, giống như con voi lâm trận nhưng không khéo gìn
giữ, bảo vệ cái vòi của nó, con voi ấy sẽ không từ bỏ
bất cứ một hành động độc ác nào.
Sau
cùng, đức Phật lại dùng ví dụ “chiếc gương soi” để
huấn luyện cho Tôn giả Rahula phương pháp thanh tịnh hóa ba
nghiệp–thân, khẩu, ý– bằng cách xem xét và phản tỉnh
nhiều lần đối với mỗi hành vi của ba nghiệp, trước khi
làm, trong khi làm và sau khi làm, khiến cho ba nghiệp được
thanh tịnh, không rơi vào các hành động phi pháp, phi đạo
đức. Đức Phật khuyên Tôn giả Rahula nên thực hành pháp
môn này, bởi vì đó là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp mà
bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, dù ở quá khứ, hiện tại
hay vị lai, muốn trang nghiêm thanh tịnh ba nghiệp của mình
đều thực hành theo phương pháp này.
Như
vậy, nếp sống đạo đức của người Phật tử, như được
mô tả trong bài kinh Giáo Giới Rahula, là nếp sống chuyên
phòng hộ và tu tập ba nghiệp, không để cho ba nghiệp rơi
vào hành vi ác, bất thiện. Người Phật tử là người phát
nguyện đi theo con đường giác ngộ của đức Phật, do đó,
bất cứ hành vi nào chống lại sự giác ngộ, chống lại
khả năng tự hoàn thiện nhân cách giác ngộ ấy đều được
người Phật tử nhận chân và ngay lập tức tìm cách loại
bỏ nó. Nếp sống đạo đức của người Phật tử là nếp
sống biết làm điều gì và không làm điều gì.
Không
làm mọi điều ác,
Thành
tựu các hạnh lành,
Giữ
tâm ý trong sạch,
Chính
lời chư Phật dạy.
(Pháp Cú, 183)
Bài
kệ trên đã khái quát rõ một nếp sống mà người Phật
tử cần phải chọn lựa. Để tìm thấy hạnh phúc, Phật
tử không những từ bỏ các điều ác, mà còn phải làm các
điều lành, bởi chỉ có thân làm lành, miệng nói lành, ý
nghĩ lành mới có thể xây dựng một đời sống đạo đức,
hạnh phúc lành mạnh. Nếp sống đạo đức của người Phật
tử bắt đầu từ việc bỏ ác làm lành.
Có
mười hành vi thường được nói đến trong giáo lý đạo
Phật liên quan đến ba nghiệp thân, khẩu, ý gồm:
–
Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, thuộc
thân nghiệp.
–
Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm;
thuộc khẩu nghiệp.
–
Tham dục, sân hận, tà kiến; thuộc ý nghiệp.
Mười
hành vi này, nếu làm thì gọi là ác hay bất thiện, không
làm hay từ bỏ thì gọi là thiện, và phương pháp tịnh hóa
ba nghiệp như được nói trong bài kinh Giáo Giới Rahula chính
là nếp sống tử bỏ mười điều ác và làm mười điều
thiện này. Dĩ nhiên, người Phật tử sẽ không bao giờ nhầm
lẫn giữa hai nếp sống thiện và bất thiện bởi giáo lý
của đức Phật luôn luôn phân định rõ ràng biên giới giữa
thiện và bất thiện. Một vài định nghĩa sau đây sẽ giúp
soi sáng thái độ chọn lựa của người Phật tử.
“Chư
Hiền, thế nào là bất thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất
thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các
dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưới
là bất thiện, nói lời độc ác là bất thiện, nói lời
phù phiếm là bất thiện; tham dục là bất thiện, sân hận
là bất thiện, tà kiến là bất thiện.
Chư
Hiền, thế nào là thiện? Chư Hiền, từ bỏ sát sanh là thiện,
từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong
các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói
hai lưỡi là thiện, từ bỏ nói lời độc ác là thiện, từ
bỏ nói lời phù phiếm là thiện; từ bỏ tham dục là thiện,
từ bỏ sân hận là thiện, từ bỏ tà kiến là thiện”.
(Kinh Chánh Tri Kiến, TB)
GIẢI
PHÁP HAY NẾP SỐNG ĐẠO ĐỨC
ĐƯỢC
ĐỀ BẠT TRONG BÀI KINH
I.
Nếp sống từ bỏ mọi điều ác bằng cách xem xét và phản
tỉnh về ba nghiệp thân, khẩu ý.
“Này,
Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy
phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm;
thân, khẩu, ý nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại,
hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu ý nghiệp này là
bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩy,
ý nghiệp ông muốn làm ấy có thể đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp ấy là bất
thiện, đưa dến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời
này Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nhất định
chớ có làm.
“Này
Rahula, khi ông đang làm một thân, khẩu, ý nghíệp gì, ông
cần phải phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này
ta đang làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta có thể đưa
đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu,
ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại
quả báo khổ đau”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông
biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông đang làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời thân,
khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem
lại quả báo khổ đau, thời này Rahula, ở đây ông hãy từ
bỏ thân, khẩu, ý nghiệp như vậy.
“Này
Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần
phải phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đã
làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta có thể đưa đến tự
hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp
này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả báo
khổ đau”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng
thân, khẩu, ý nghiệp ông đã làm ấy có thể đưa đến tự
hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu ý nghiệp
ấy là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem lại quả báo
khổ đau, thời này “Rahula, một thân, khẩu, ý nghiệp
như vậy ông cần phải lo âu, tàm quý, nhàm chán, ông cần
phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước
vị Đạo sư hay trước các vị đồng Phạm hạnh có trí.
Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, thưa lên, tỏ lộ trình bày
ông cần phải phòng hộ trong tương lai”.
II.
Nếp sống làm các điều lành qua việc xem xét và phản tỉnh
về ba nghiệp.
“Này
Rahula, khi ông muốn làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy
phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này ta muốn làm;
thân, khẩu, ý nghiệp này của ta không có thể đưa đến
tự hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu ý nghiệp
này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu,
ý nghiệp ông muốn làm ấy không có thể đưa đến tự hại,
hại người, hại cả hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện,
đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula,
một thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nên làm.
“Này
Rahula, khi ông đang làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông
cần phải phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này
ta đang làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời thân,
khẩu? Ý nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem lại
quả báo an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh
ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông đang làm ấy không
có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an lạc, đem lại
quả báo an lạc, thời này Rahula, một thân khẩu, ý nghiệp
như vậy ông cần phải tiếp tục làm.
“Này
Rahula, sau khi làm xong một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần
phải phản tỉnh như sau: “Thân, khẩu, ý nghiệp này ta đã
làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta không có thể đưa đến
tự hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp
này là thiện, đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu,
ý nghiệp ông đã làm ấy không có thể đưa đến tự hại,
hại người, hại cả hai; thân, khẩu, ý nghiệp ấy là thiện,
đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula,
ông cần phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục
tu học ngày đêm trong các thiện pháp”.
*
* *
Giải
pháp hay nếp sống đạo đức như được gợi ý ở các đoạn
kinh trên là hết sức căn bản và rõ ràng. Đạo đức ở
đây là đồng nghĩa với việc bỏ ác làm lành, là một nếp
sống thiết thực có cân nhắc chọn lựa vừa thiện và bất
thiện, chớ không có mơ hồ, tưởng tượng. Bởi các nghiệp
sẽ đưa đến ác báo, khổ đau và thiện nghiệp đưa đến
thiện báo, an lạc; do đó, sống đạo đức, bỏ ác làm lành,
cũng có nghĩa là sống hạnh phúc. Có rất nhiều ý kiến khác
nhau xoay quanh khái niệm hạnh phúc, nhưng đạo Phật nhấn
mạnh hạnh phúc của nếp sống bỏ ác làm lành. Quả vậy,
với tiêu chuẩn thiện ác rõ ràng, không lẫn lộn, người
Phật tử có thể quyết định số phận khổ đau hay hạnh
phúc của chính mình qua nếp sống thiện hay bất thiện, như
đức Phật đã chỉ rõ:
“...
Nếu
với ý ô nhiểm,
Nói
lên hay hành động,
Khổ
não bước theo sau,
Như
xe, chân vật kéo”. (Pháp Cú 1)
Hay
là :
“Nếu
với ý thanh tịnh,
Nói
lên hay hành động,
An
lạc bước theo sau,
Như
bóng không rời hình”. (Pháp Cú, 2)
Một
vài nhận xét về bài kinh:
Tiếp
theo, chúng tôi xin trình bày với quý vị một vài nhận xét
về bài kinh vừa nêu.
Trước
hết, Giáo Giới Rahula là bài kinh căn bản giúp xây dựng nếp
sống thiện, nếp sống đạo đức, hạnh phúc cho người Phật
tử. Nếp sống đạo đức của người Phật tử là nếp sống
bỏ ác làm lành. Bài kinh cần được các Phật tử lưu tâm
học thuộc lòng nhiều doạn, nhất là các đoạn nói về cách
từ bỏ ba nghiệp ác, thực hành ba nghiệp thiện qua việc
xem xét và phản tỉnh nhiều lần, trước khi làm, trong khi
làm và sau khi làm ba nghiệp.
Bài
kinh chỉ nêu lên cách thức quán sát và phản tỉnh về ba
nghiệp thân, khẩu, ý, mà không đề cập cụ thể các hành
vi thường đi liền với ba nghiệp. Do đó, một sự liên kết
mười thiện nghiệp hay mười ác nghiệp gắn liền với thân,
khẩu, ý là hết sức cần thiết trong khi thực hành phương
pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp này.
–
Sự xem xét và phản tỉnh về ba nghiệp là rất quan trọng
trong pháp môn thanh tịnh hóa ba nghiệp, bởi vì, có xem xét
và phản tỉnh nhiều lần thì mới đoan chắc điều gì nên
làm và điều gì không nên làm. Có thể nói, cốt lõi của
bài kinh là nằm ở chỗ này, tức là sự xem xét và phản
tỉnh về những gì muốn làm, đang làm hay đã làm bởi thân,
khẩu, ý; vì nếu không có sự xem xét hay phản tỉnh về ba
nghiệp thì không thể có sự phòng hộ hay tu tập ba nghiệp.
Tương tự, thái độ xem xét thành thật về ba nghiệp, thiện
hay ác, là hết sức cần thiết nhằm chặn đứng điều ác,
nếu có, và nhằm khích lệ các điều thiện đã làm.
–
Thiện hay ác không dễ dàng đến với mình nếu không do sự
tích lũy dần dần trong cuộc sống. Một cuộc đời chứa
đầy ác, ấy là do thái độ xem thường của con người đối
với các điều ác nhỏ nhặt được tích lũy lâu ngày trong
cuộc sống. Tương tự, người Phật tử chứa đầy thiện,
ấy là do thái độ biết trân trọng các điều thiện, dù
rất nhỏ, được nuôi dưỡng lâu năm dần trong nếp sống
làm lành:
“Chớ
chê khinh điều ác,
Cho
rằng chưa đến mình,
Như
nước nhỏ từng giọt,
Rồi
bình cũng đầy tràn.
Người
ngu chứa đầy ác,
Do
chất chứa dần dần”. (Pháp Cú, 121)
và:
“Chớ
chê khinh điều thiện,
Cho
rằng chưa đến mình,
Như
nước nhỏ từng giọt,
Rồi
bình cũng đầy tràn,
Người
trí chứa đầy thiện,
Do
chất chứa dần dần”. (Pháp Cú, 122)
–
Tính cách thực tiễn của bài kinh khiến chúng ta tin tưởng
rằng lời dạy của đức Phật không phải để dành riêng
cho ai, mà dành cho tất cả mọi người, cho những ai biết
trân trọng và tìm thấy lợi ích, hạnh phúc trong nếp sống
thiện, nếp sống có đạo đức. Giải pháp đạo đức được
đề bạt trong bài kinh là thiết thực và dễ dàng, liên quan
đến đời sống hàng ngày của con người (lời nói, suy tư
và hành động), do đó mọi người đều có thể ứng dụng. – Sau cùng và cũng là điều quan trọng hơn cả là việc ứng
dụng bài kinh vào cuộc sống hàng ngày của người Phật tử.
Bài kinh nói về nếp sống thiện, nếp sống đạo đức; nhưng
đạo đức không có ở trong bài kinh, đạo đức chỉ có nơi
những người chuyên tâm thực hành những lời kinh dạy. Do
đó, giảng nói về đạo đức là cần thiết, nhưng quan trọng
hơn vẫn là sống một nếp sống đạo đức thực sự với
sự xem xét và phản tỉnh thường xuyên về ba nghiệp, thân,
khẩu, ý của mình.
Chúng
tôi vừa giới thiệu với quý vị bài kinh Giáo Giới Rahula
với giải pháp đạo đức thực tiễn có thể giúp ứng dụng
dễ dàng vào đời sống hàng ngày của mỗi người Phật tử
chúng ta. Chúng tôi cũng đã có vài nhận xét gợi ý nhằm
giúp cho quý vị thấy rõ tầm quan trọng của pháp môn thanh
tịnh hóa ba nghiệp đối với cuộc sống là như thế nào.
Vấn đề còn lại chỉ là mỗi cá nhân chúng ta có cương
quyết thực hiện hay không mà thôi. Tất nhiên, chúng
tôi rất tin tưởng mỗi người Phật tử chúng ta đều đang
nỗ lực thực hành lời Phật dạy, nhất là vấn đề tu dướng
đạo đức là hết sức cần thiết cho cuộc sống con người
và xã hội ngày nay. Quả thật, chúng ta cần bình tâm mà nhận
ra rằng, dù đã có những bước chuyển mình khá tốt đẹp,
xã hội Việt Nam đang tồn đọng nhiều vấn đề đòi hỏi
mỗi người Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn
mới mong giải quyết được. Nhưng điều chúng ta lo ngại
nhất là nếp sống văn hóa và đạo đức truyền thống dang
có nguy cơ bị đẩy lùi khiến ảnh hưởng đến các thế
hệ con em của chúng ta, vì nó làm cho con người Việt Nam vốn
mất dần đi tính chất của con người Việt Nam vốn có cội
nguồn văn hoá và đạo đức rất đặc biệt. Nguyên nhân
của vấn nạn trên là gì nếu không nói là sự thờ ơ và
xem thường của con người Việt Nam trước vấn đề đạo
đức của cá nhân dẫn đến sự thờ ơ đối với đạo đức
gia đình và xã hội? Tại sao trẻ em Việt Nam chưa ngoan? Tại
sao trẻ em Việt Nam thiếu hoặc không tôn trọng bố mẹ, thầy
cô giáo? Tại sao trẻ em Việt Nam trở thành kẻ phạm pháp?
Câu trả lời thì đã có nhiều, nhưng chắc chắn con em của
chúng ta sẽ không có những sai phạm nói trên nếu như những
người lớn chúng ta đã không tỏ ra quá buông thả trong đời
sống cá nhân khiến ảnh hường đến tâm lý hay học đòi,
bắt chước của chúng? Vấn đề đang đòi hỏi sự quan tâm
nhiều hơn nữa về nếp sống đạo đức và nêu cao đạo
đức của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Chúng
ta đã từng có, trong lịch sử dân tộc, những mùa Xuân thật
sự hạnh phúc và thái bình mà tấm thảm dệt nên mùa Xuân
đó không gì khác là nếp sống thiện, nếp sống đạo đức
của một dân tộc được phát huy cao độ. Một thoáng nhìn
về quá khứ để thấy rằng dân tộc Việt Nam chúng ta đã
từng tu dưỡng đạo đức qua nếp sống từ bỏ mười điều
ác, thực hành mười điều thiện của thân, miệng, ý và
đã từng hưởng trọn những mùa Xuân an lành, thịnh vượng
nhờ nếp sống ấy. Đó là những mùa Xuân thời Lý, Trần.
Chúng ta từng có những ông vua bỏ ngai vàng xuất gia, kiên
quyết sống đời sống đạo đức và khuyên dạy người dân
tu dưỡng đạo đức qua nếp sống làm mười điều thiện
khiến ảnh hưởng đến đời sống đạo đức của toàn dân
và thái bình của xứ sở.
Lịch
sử đã sang trang. Thời Lý, Trần đã lùi về quá khứ. Nhưng
phải chăng tấm gương của thời Lý, Trần đã cần thiết
cho cuộc sống hiện tại của chúng ta để suy gẫm lại nếp
sống của chính mình, giống như “chiếc gương soi” của
đức Phật trong bài kinh Giáo Giới Rahula là hết sức cần
thiết để soi lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mỗi người
chúng ta? Chúng tôi hy vọng mỗi người Phật tử chúng ta sẽ
mang sắc bên mình “chiếc gương soi” mà hơn 25 thế kỷ
trước đức Phật đã ưu ái trao cho Tôn giả Rahula. Và đó
là tín hiệu đầu Xuân mà chúng tôi thân ái muốn gởi đến.