- [01 - 10]
- [11 - 20]
- [21 - 30]
- [31 - 40]
- [41 - 50]
- [51 - 60]
- [61 - 70]
- [71 - 80]
- [81 - 90]
- [91 - 100]
- [101 - 110]
- [111 - 120]
- [121 - 130]
- [131 - 140]
- [141 - 150]
- [151 - 160]
- [161 - 170]
- [171 - 180]
- [181 - 190]
- [191 - 200]
- [201 - 210]
- [211 - 220]
- [221 - 230]
- [231 - 240]
- [241 - 250]
- [251 - 260]
- [261 - 270]
- [271 - 280]
- [281 - 290]
- [291 - 300]
- [301 - 310]
- [311 - 320]
- [321 - 333]
- Thư mục
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
Đỗ Đình Đồng góp nhặt
281. CHIẾC Y NIỆM PHẬT
Tướng quân Yoriie không ưa những tín đồ phái Niệm Phật. Vào tháng 5 năm 1213, ông ra một đạo luật cấm niệm Phật và ra lệnh Yashiro Hiki khám xét những người hành cước, nếu tìm thấy tu sĩ nào của phái Niệm Phật, hãy lột lấy áo tu đem đốt. Thực hiện mệnh lệnh này, Yashiro khám xét khách du hành ở một bên cầu Mandokoro, nếu thấy tu sĩ Niệm Phật, liền lột lấy áo tu đem đốt, nếu khám phá thấy tu sĩ vi phạm đạo luật cấm Niệm Phật thì bắt bỏ tù.
Vào lúc ấy, ở Ise có một tín đồ Niệm Phật tên là Sho-nenbo đến Khiêm Thương để thực hiện niệm Phật. Yashiro bắt Shonenbo và đem áo tu đi đốt. Shonenbo nói: “Y này là cờ phướn của Tam Bảo, là thánh hiệu của Tăng già, là bóng y của chư Phật. Nó là chiếc y vinh dự của Bốn Vua Hộ Pháp và Tám Vị Thiên Long. Và đặc biệt nó là chiếc y xưng niệm, nếu là biểu hiện của đại tín ngưỡng, dù có ném vào lửa cũng chẳng cháy.” Yashiro liền bảo lính ném chiếc áo tu vào ngọn lửa. Shonenbo lớn tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, ngọn lửa liền tắt, không sém đến cả cái chéo áo tu -- người ta kể vậy.
Tu sĩ Sonei đem chuyện này đến sư Nam Thiền. Sư bảo: “Hãy bỏ câu chuyện thần tiên nhỏ do tín đồ phái Tịnh Độ ở Khiêm Thương truyền tụng đó sang một bên. Ngay bây giờ trước mặt ông, khi chiếc áo thân bị ném vào lửa, làm sao Shonenbo tự cứu mình được?”
Sonei không lời để nói.
(Thiền và Đạo Thuật)
282. THUYẾT PHÁP
Ông tăng thủ tọa của chùa Bảo Phước là một người điếc không thể nghe thuyết pháp được. Ông yêu cầu được làm thủ quản tàng kinh các và ông đã chăm chú làm việc hơn mười năm. Ông thấy rằng các câu chuyện về cuộc đời đức Phật trong nhiều kinh không phù hợp với nhau va ông hỏi sư trụ trì Hakudo, vị sư thứ năm của chùa, cái nào đúng. Sư nói: “Những gì trong kinh là ngón tay chỉ mặt trăng hay là cái lưới bắt cá. Một Thiền nhân muốn biết cái gì đúng và cái gì sai với những câu kinh và suy luận về giáo lý khác nhau là y đang làm vẩn đục tâm mình, phải không? Thủ tọa tu, chính là Phật tu; thủ tọa xuất gia, chính là Phật xuất gia. Khi thủ tọa đắc đạo, chính là Phật đắc đạo. Khi thủ tọa vào Niết bàn, chính là Phật vào Niết bàn. Thủ tọa đã xuất gia và tiến xa trên đường đạo, nhưng chưa vào Niết bàn; hôm nay ông ta đang ở trong giai đoạn bốn mươi chín năm thuyết pháp. Bây giờ, vì người, trời và vạn chúng sinh, hãy để ông ta thuyết pháp xem. Tất cả chú ý!”
(Thiền và Đạo Thuật)
283. MÚA THƯƠNG TAY KHÔNG
Nanjio Masatomo, một bậc thầy về phép đánh thương, đến chùa Kiến Trường lễ Phật và sau đó nói chuyện với hòa thượng Nghĩa Ông về cách sử dụng thương trên lưng ngựa. Nghĩa Ông nói:
- Ngài quả thật thiện nghệ trong phép đánh thương. Nhưng cho đến khi nào biết được cảnh giới múa thương bằng tay không, ngài chưa hội nhập được cái tối mật của nghệ thuật.
Nanjio hỏi:
- Ý thầy muốn nói gì?
Nghĩa Ông đáp:
- Không thương trong tay, không tay trên thương.
Thương sư không hiểu.
Nghĩa Ông thêm:
- Nếu ngài không hiểu, nghệ thuật đánh thương của ngài chỉ là tiểu xảo của đôi bàn tay mà thôi.
(Thiền và Đạo Thuật)
284. ĐÁNH CHUÔNG
Chuyện xảy ra khi Dịch Đường là trụ trì Thiền viện Tentoku, vào thế kỷ mười chín. Một buổi sáng sư nghe tiếng chuông rạng đông ngân nga và chẳng bao lâu sau đó, sư gọi ông tăng thị giả đến, hỏi:
- Sáng hôm nay ai đánh chuông?
Thị giả đáp:
- Đó là một chú tiểu mới nhập viện.
Sau đó, sư gọi chú tiểu đến, hỏi:
- Sáng nay, khi đánh chuông rạng đông, chú đã nghĩ gì?
Chú tiểu đáp:
- Chẳng có gì đặc biệt. Con chỉ đánh chuông thôi.
Trụ trì nói:
- Không, phải có cái gì đó trong tâm con. Được rồi dù sao, khi nào con đánh chuông, cứ đánh y như sáng nay. Đó chẳng phải là tiếng chuông tầm thường.
Lúc ấy chú tiểu nói:
- Có lần con nghe nói rằng bất cứ chúng ta làm gì cũng phải là phụng sự Phật. Con được bảo thiền định về các pháp như là Phật. Vì vậy sáng nay con nghĩ cái chuông là Phật, và mỗi lần con đánh chuông thì tiếng Phật phát ra. Mỗi lần con cúi đầu lễ bái, con cảm thấy đánh chuông là lễ bái.
Trụ trì nói:
- Con đã nghe được lời dạy hay. Từ đây về sau trong đời, khi làm bất cứ việc gì, cứ làm như vậy.
Chú tiểu sau này trở thành phương trượng chùa Vĩnh Bình, trung tâm huấn huyện Thiền vĩ đại; chú tên là Dengo Morita.
(Thiền và Đạo Thuật)
285. SAO KHÔNG?
Thiết Chu là một kiếm sĩ xuất sắc và là Thiền gia đệ tử của hoà thượng Tích Thủy ở chùa Thiên Long. Là kiếm sư hàng đầu thời đó, Thiết Chu được yêu cầu dạy kiếm thuật cho vị hoàng đế trẻ tuổi Minh Trị. Trong một buổi huấn luyện, khi cả hai xáp lại gần nhau, Thiết Chu dùng một đòn nhu đạo ném thiên hoàng xuống sàn gỗ bóng láng. Nội qui cho phép điều này, nhưng quan thị vệ của thiên hoàng hoảng hốt vì sự việc xảy ra. Sau đó ông ta nói với Thiết Chu và tức giận phản đối:
- Thật là không thể ngờ được, ông dám ném cả đức Hoàng thượng.
Thiết Chu nói:
- Sao không? Đó thuộc phần những gì tôi được yêu cầu dạy cho ngài.
Quan thị vệ không biết nói gì.
Suốt đời Thiết Chu là người ăn chay theo truyền thống Phật giáo. Một hôm, một người hay xía vào chuyện người khác đến nói với sư:
- Với cái nhìn cao nhất của Thiền, chắc chắn ăn thịt cũng đồng với không ăn thịt, phải không?
Thiết Chu đáp:
- Phải, đồng.
Người kia hỏi tiếp:
- Vậy thì, nếu là đồng, tại sao sư không bỏ ăn chay để ăn mặn?
Thiết Chu đáp:
- Nếu là đồng, tại sao ông muốn tôi thay đổi?
(Thiền và Đạo
Thuật)
286. ĂN CÁ THỊT LÀM SAO THÀNH PHẬT?
Theo sử sách chép, Tuệ Trung Thượng Sĩ là đệ tử của Thiền sư Tiêu Dao, được vua Trần Nhân Tông--sơ tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử--kính làm sư huynh, và là anh cả của thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm.
Một hôm, thái hậu mở tiệc thịnh soạn, Thượng Sĩ dự tiệc gặp cá ăn cá, gặp thịt ăn thịt. Thái hậu thấy lạ hỏi:
- Anh tu thiền mà ăn cá thịt thì thành Phật sao được?
Thượng Sĩ đáp:
- Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh. Thái hậu chẳng nghe cổ đức nói, “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát,” đó sao?
Khi thái hậu qua đời, nhà vua cúng chay ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, nhà vua thỉnh các vị tôn túc bốn phương mỗi vị làm một bài kệ ngắn trình bày kiến giải của mình. Kết quả bài nào cũng chưa tỏ ngộ.
Vua bèn trao giấy mực cho Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một hơi bài tụng tự thuật:
Kiến giải trình kiến giải,
Tựa ấn mắt làm quái.
Ấn mắt làm quái rồi,
Rõ ràng luôn tự tại.
Vua đọc xong liền phê tiếp theo sau:
Rõ ràng luôn tự tại,
Thấy quái chẳng thấy quái
Cũng ấn mắt thành quái
Quái ấy tự tiêu hoại.
Thượng Sĩ đọc, chịu lắm.
(Thiền Sư Việt Nam)
287. MƯA ĐÊM
Trước khi vào sống trong núi, Thiền sư Ranryo đã hành cước khắp bốn phương, không phân biệt triều đình hay thôn quê, thành phố hay làng mạc, không tránh quán rượu cũng không tránh nhà thổ.
Khi có người hỏi tại sao làm như vậy, sư đáp:
- Hễ tôi ở đâu thì Đạo ở đó. Không có khe hở nào hết.
Về sau, Ranryo vào núi dựng một cái am đơn sơ, sống cuộc sống khổ hạnh thanh đạm, tiếp tục tu Thiền.
Ranryo đặc biệt thích mưa đêm. Vào những đêm mưa, sư đốt nhang ngồi mãi cho đến sáng. Dân làng ở các vùng ven núi không biết tên, bèn kêu sư là Dạ Vũ tăng (ông tăng Mưa Đêm). Sư nghe gọi như thế, thấy hay hay, bèn lấy đó làm bút hiệu.
Có người đến hỏi sư về công đức tương đối của thiền định và phép niệm Phật A Di Đà của phái Tịnh Độ, sư đáp bằng bài kệ sau đây:
Thiền định và niệm Phật,
Tựa hai quả núi to;
Tiềm năng cao và thấp
Phân chia một thế gian.
Một khi lên tột đỉnh,
Tất cả đều như nhau
Thấy trăng trên đầu núi;
Tội nghiệp kẻ bất tín
Đau khổ vì leo trèo.
(Giai Thoại Thiền)
288. THIỀN SƯ THÔNG THÁI
Hạt Đường Bổn Quang (1710-1773) là một Thiền sư có tài năng phi thường, học rộng nhớ nhiều. Thầy của sư là Chỉ Nguyệt Huệ Ấn (1689-1764) cũng là một trong các sư học giả vĩ đại nhất. Bổn Quang thường chu du diễn thuyết về Thiền theo lời mời của các trung tâm học viện khắp nơi trong nước.
Trong số các tác phẩm đồ sộ của sư là một luận giải các phần của bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng, kiệt tác của Đạo Nguyên, một Thiền sư vĩ đại ở thế kỷ mười ba. Chánh Pháp Nhãn Tạng, tác phẩm đầu tiên và vĩ đại duy nhất của Phật giáo Nhật Bản, là một trong những công trình khó nhất thuộc hàng kinh điển.
Trong khi Bổn Quang đang viết luận giải của sư về bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng thì một ông tăng học luận lý học đến yêu cầu sư giảng kinh Lăng Nghiêm, một bộ kinh sâu xa và phức tạp nhất bằng tiếng Trung Hoa.
Sư liền đặt lên bàn viết ở bên trái là kinh Lăng Nghiêm, ở bên phải là bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng, ở chính giữa là giấy để viết. Rồi cùng một lúc, sư vừa giảng kinh Lăng Nghiêm, vừa đọc Chánh Pháp Nhãn Tạng vừa viết lời bình xuống giấy, chú ý cả ba công tác mà không lẫn lộn.
Những người chứng kiến lấy làm kinh ngạc, và tin đồn bắt đầu lan ra rằng Bổn Quang là thần thánh tái sanh.
(Giai Thoại Thiền)
289. ÔNG PHẬT SAY
Túy Ông Nguyên Lư (1716-1789) và Đông Lĩnh Viên Từ (1721-1792) là hai phụ tá đắc lực nhất của đại sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685-1768). Túy Ông được biết là một bậc sư có khả năng to lớn, và Đông Lĩnh là một bậc thầy tinh tế. Nhiều người thừa kế sau này của Bạch Ẩn thực sự đã nhận sự huấn luyện từ một hay cả hai vị sư trẻ hơn này.
Túy Ông đã hơn ba mươi tuổi khi gặp Bạch Ẩn lần đầu tiên. Người ta không biết gì cả về quãng đời trước kia của sư. Đại sư Bạch Ẩn nhìn thấy Túy Ông có tinh thần phi thường và do đó thúc ép sư thật mạnh để sư nhận thức tiềm năng của mình.
Túy Ông đã trải qua hai mươi năm trong tông môn của Bạch Ẩn, nhưng sư sống cách xa chùa mười dặm và chẳng bao giờ đến chùa trừ phi có thuyết pháp. Những cuộc tham vấn riêng tư của sư với Bạch Ẩn luôn luôn xảy ra vào ban đêm, vì thế không ai thấy sư tới lui. Vào những ngày có thuyết pháp, sư thường rút lui ngay khi bài pháp vừa hết. Vì thế người ta khó nhận ra sư là đệ tử của Bạch Ẩn.
Túy Ông là người có đặc tính kỳ lạ. Sư thích rượu và không bao giờ để ý đế những chuyện lặt vặt. Sư thường nói và hành động ngoài ước lệ thông thường. Có thể nói là sư chẳng ngồi thiền gì cả và cũng chẳng đọc kinh sách.
Sư không có chỗ ở nhất định và thường nằm lăn ra ngủ ở bất cứ chỗ nào có thể được. Sư tự coi là may mắn nếu có đủ rượu để được ngà say. Sư thích các môn giải trí như đánh cờ, vẽ và sống cuộc sống tùy thích. Người ta không thể quyết định được sư ẩn tàng thâm sâu hay chỉ là người nông cạn.
Mặc dù Túy Ông không cần sống trong chùa của Bạch Ẩn nhưng khi Đại sư Bạch Ẩn bị bệnh lần cuối cùng, sư đã trở lại để chăm sóc Bạch Ẩn. Sau khi Bạch Ẩn tịch, Túy Ông thừa kế ngôi chùa nhưng chẳng làm gì cả. Bất cứ khi nào có người đến học Thiền, Túy Ông chỉ đơn giản bảo họ đến Đông Lĩnh. Mặc dù sư từ chối nói Thiền nhưng người cầu tìm vây quanh sư không bao giờ ít hơn bảy tám chục.
Bấy giờ, Đại Hưu (Daikyu) và Reigen, hai Thiền sư cũng học Thiền với Bạch Ẩn, bắt đầu viết thư cho Túy Ông, thúc giục sư làm việc. Tuy nhiên, bất chấp mọi nỗ lực của họ, Túy Ông vẫn tịch nhiên bất động.
Bảy năm sau khi Bạch Ẩn viên tịch, Đại Hưu, Reigen và Đông Lĩnh cuối cùng đã cùng nhau tập hợp lại với Túy Ông, khăn khăn rằng sư là chủ lễ truy niệm Bạch Ẩn bảy năm do môn đồ tổ chức. Không thể từ chối, Túy Ông chổi dậy trong dịp này bằng cách thuyết pháp về Năm Nhà Thiền với một hội chúng hơn hai trăm người.
Lúc này, Túy Ông đã năm mươi tám tuổi. Bây giờ số người theo sư đã lên hơn năm trăm. Họ sống trong các khu nhà chật hẹp quanh vùng, không đủ thì giờ cho Túy Ông gặp tất cả mọi người khi họ cùng nhau đến.
Túy Ông cũng được các nơi mời nói chuyện, thu hút thính chúng từ ba trăm đến năm trăm người. Những năm về sau, sư thu hút cả đến khoảng bảy tám trăm người nghe, khi sư thuyết giảng về các tác phẩm Thiền cổ điển.
Túy Ông thường nói với chúng rằng, “Người xưa nói rằng quá thư thả hay hơn là quá khẩn trương. Tôi không đồng ý; quá khẩn trương tốt hơn là quá thư thả.” Sư thêm, “Đừng quá nhu nhược và tùy thuộc. Ai liên tục tìm đạo, trong một hai đêm, cũng có thể thâm nhập được.”
Túy Ông cũng thường nói, “Các nơi khác người ta trật tự và đều đặn, mang mẫu mực nghi lễ uy nghiêm. Ở đây chúng ta có mắt voi, mũi khỉ, với ống quyển không lông. Người thế gian kiếm sống bằng tụng kinh để làm gì?”
Khi nói về tông môn của lão sư Bạch Ẩn, Túy Ông nói, “Kẻ duy nhất chộp hết tất cả vốn liếng tinh thần trong nhà của Bạch Ẩn là Đông Lĩnh. Kẻ duy nhất thâm nhập tận nguồn giáo lý của Bạch Ẩn là Đại Hưu.”
Túy Ông cũng nói, “Ngay cả Thiền tăng tự do hành cước khắp cả đất liền không bị cấm cản, cũng thấy mình lạc mất khi gặp Bạch Ẩn. Tại sao vậy? Bởi vì dã vi tường vi cao thấu trời, kẽm gai nhọn phủ rợp đất, nên chẳng thể tiến cũng chẳng thể lui. Vì vậy mới bảo hạ cờ lui trống, nên cởi giáp đầu hàng. Không ai trong các Thiền hội khác có loại dã tường vi này; đó là tại sao các ông tăng đi lướt qua bên cạnh mà không thể bắt kịp ai cả. Tôi cho là hợp vậy.”
Khi Túy Ông sắp tịch, các thị giả yêu cầu sư cho kệ phó pháp. Túy Ông mắng họ. Khi họ lặp lại lời thỉnh cầu, sư lấy bút viết:
Bảy mươi ba năm,
Ta đã
Lừa Phật lừa sư.
Lời cuối cùng ư!
Cái gì ? Cái gì ?
Kaa!
(Giai Thoại Thiền)
290. ĐẠI SƯ VI TẾ
Đông Lĩnh Viên Từ (1721-1792) đầu tiên học Thiền với Cổ Nguyệt Thiền Tài (1667-1751), sau đó sư đến tham học nghiêm túc với Bạch Ẩn.
Sự tu tập của sư đã được chuẩn bị tốt khi ở với Cổ Nguyệt, không bao lâu Đông Lĩnh đã đạt ngộ dưới sự chỉ dạy của Bạch Ẩn. Chỉ trong vòng vài năm, sư đã học hết tất cả nội giáo của Bạch Ẩn.
Không may, sự cưỡng bức tận lực của sư đã làm cho thân thể sư suy sụp, và sư ngã bệnh suýt chết. Không tìm được thuốc chữa trị có hiệu quả, sư tự nghĩ, “Dù ta đã tìm ra tất cả cái nguồn và các phương pháp của Thiền, thì có gì hay nếu bỗng nhiên ta chết đi?”
Vì vậy sư viết một cuốn sách nhan đề là Tông Môn Vô Tận Đăng Luận. Khi trình sách với Bạch Ẩn, sư nói, “Nếu sách này có gì giá trị, con muốn truyền nó cho đời sau. Nếu nó chỉ là một mớ tạp nhạp, con sẽ ném nó ngay vào lửa.”
Bạch Ẩn xem qua sách và nói:
- Đây sẽ là phương thuốc mở mắt
cho đời sau.
Rồi Đông Lĩnh từ giả Bạch Ẩn đi Kyoto, nơi đây sư sống lặng lẽ, tự chăm lấy sóc bệnh mình, từ chối tất cả những gì dành sẵn cho sư, sống và chết.
Một hôm, khi ở trong cảnh giới vô tâm, Đông Lĩnh bỗng thấy suốt kinh nghiệm cả đời của Bạch Ẩn. Ngay đó sư liền bình phục.
Quá vui, Đông Lĩnh viết thư cho thầy, kể lại sự việc xảy ra. Đại sư Bạch Ẩn gọi Đông Lĩnh trở về và bảo sư làm người thừa kế.
Sau khi Đông Lĩnh bình phục, sư và Bạch Ẩn thiết lập chương trình cho Thiền môn. Phần lớn việc xét duyệt chi tiết chương trình hiển nhiên là do Đông Lĩnh làm. Vào cuối đời của Bạch Ẩn, khi năng lực của Sư cuối cùng đã hao mòn, Đông Lĩnh thúc giục và khuyến khích các đệ tử. Nhiều người trong hàng đệ tử cuối cùng của Bạch Ẩn còn thô sơ trong ngộ, những người xuất sắc là những người được Đông Lĩnh tinh luyện, thành toàn cho.
(Giai Thoại Thiền)