Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 01: Tiềm lực tinh thần trong con người

16 Tháng Hai 201200:00(Xem: 12654)
Phần 01: Tiềm lực tinh thần trong con người

Khoa học và sự tái sinh theo nhà Phật

Soạn dịch: Nguyễn Điều

PHẦN I

TIỀM LỰC CỦA TINH THẦN TRONG CON NGƯỜI

Thông thường thì con người cấu hợp sinh lý nhân thể của nhiều thế hệ cha mẹ lưu truyền. “Cấu hợp sinh lý nhân thể” này cũng được nuôi dưỡng bởi một môi trường đủ yếu tố thích hợp cho sự sống, như ở đó phải có nước, có thực phẩm, có dưỡng khí, có ánh sáng, có nhiệt độ, và có tỷ trọng v.v…

Nhưng đối với Phật giáo, tất cả những thứ ấy chỉ là vật chất, tức chỉ thuộc về phần thể xác hữu hình, hay “Sắc pháp” (Rùpadhamma) nơi con người mà thôi. Nói một cách khác có vẻ Phật học hơn, vật chất đó ám chỉ tứ đại (Cattàro Mahàbhùtàni), gồm cả bốn thể  (biến năng) nòng cốt sau đây:

1-Thể Địa và tánh cứng mềm của đất (Phạn ngữ là “Phathavì”), cùng của tất cả những gì thuộc về “địa”, hoặc từ địa mà ra, như các khoáng chất, bụi trần, cây cối, động vật v.v…

2-Thể thủy và tánh trượt lên nhau, rồi kết hợp và tan rã của nước (Phạn ngữ là “Àpo”), cùng của tất cả biến dạng của “thủy”, hòa lẫn trong lòng đất hay trong bầu khí quyển.

3- Thể hỏa và tánh co giãn, teo lại hay bành trướng của lửa (Phạn ngữ là “Tejo”), cùng của các năng lực nóng lạnh do “lửa”, hội tụ trong lòng đất hay tản mạn ngoài quả đất.

4- Thể phong và tánh xê dịch cùng làm cho những cái khác lưu động của gió, hay của không khí (Phạn ngữ là “Vàyo”), thường di chuyển ngoài mặt đất và thông thấu trong địa chất.

Còn phần “vô hình” nhà Phật gọi là “Danh pháp” (Nàmadhamma), một tổng hợp liên quan, tương ứng với phần hữu hình hay Sắc pháp (vật chất). Đối với nhà Phật, danh pháp là “nguyên lý” của mọi diệu hoạt, nên phải được đặc biệt chú ý và phân tích tỉ mỉ, như một môn học tiến hóaluân hồi xuyên qua những phản ứng hóa năng và siêu năng trong sự sống.

Bốn thể tánh nêu trên luôn luôn hiện hữu trong mọi “sắc pháp”. Sắc pháp ở đây chỉ chung cho tất cả các vật chất đơn thuần hay các vật chất biến dạng.

Như vậy đối với Phật giáo, bất cứ sắc pháp nào bên trong cũng chứa đủ bốn thể và tánh nói trên, tức là chứa tứ đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong). Duy một diều là tỷ lệ của bốn thể và tánh ấy khi quá chênh lệch, thì người ta chỉ nhận thấy cái thể và tánh cực lớn, mà không nhìn thấy cái thể và tánh cực nhỏ ẩn tàng trong đó. Nó cực nhỏ đến độ tưởng chừng như không có.

Ví dụ: Lúc quan sát một khối sắt hay một tảng đá, người ta chỉ có thể thấy cái thể và tánh cứng (địa) cực lớn của khối sắt hay của tảng đá mà thôi. Nhưng kỳ thực bên trong nó vẫn chứa ba thể và tánh kia với tỷ lệ cực nhỏ. Vì nếu không chứa ba thể và tánh ấy, khối sắt hay tảng đá đã không hiện hữu. Và nếu nó đã chứa và đang hiện hữu mà có một quyền lực nào đó “tịch thu” mất ba thể và tánh ấy, thì khối sắt hay tảng đá sẽ lập tức rã tan thành tro bụi, rồi loãng vào không khí. (Như những vật bị bom nguyên tử thiêu đốt). Trong sự sâu sắc này, rõ ràng là nhà Phật đã nói đến bốn thể và tánh của nguồn gốc vật chất do tứ đại hợp thành, một cách rất vi tế, khoa học.

Tuy nhiên, đối với “vật chất” là một con người, chúng ta muốn khảo cứu ở đây, thì Phật giáo đã tiết lộ:

Tứ đại (toàn bộ vật chất) ấy chỉ là một yếu tố trong năm yếu tố để tạo thành một nhân vật”.

Vậy bốn “yếu tố” kia là gì? Bốn yếu tố kia được nhà Phật liệt kê, là thọ, tưởng, hành, thức. Chúng còn có một cái tên chung khác là Danh pháp. Nói tóm lại theo nhà Phật, con người sinh hoạt chỉ là một kết cấu của danh pháp và sắc pháp, hay gọi tắt con người là tổng hợp của danhsắc.

Trong “Vi Diệu Pháp thống kê” (Abhidhammapitaka), tổng hợp “danh và sắc” ấy còn được gọi là “ngũ uẩn”. Chữ Phạn dịch ra ngũ uẩn là “Panca khandhà”, tương đương với tiếng Pháp là “cinq agrégats”, tức là sự phối hợp của năm kết tập, cụ thể lẫn trừu tượng (vật chấttinh thần).

Ngũ uẩn (hay năm kết tập) đó gồm Sắc uẩn (Rùpa-khandhà), Thọ uẩn (Vedanà), Tưởng uẩn (Sannà-khandhà), Hành uẩn (Sankhàra-khandhà) và Thức uẩn (Vinnàna-khandhà).

Sắc uẩn ám chỉ xác thân, có hình thức khối lượng, biến đổi theo thời gian, và sờ thấy được, nên nó cụ thể. Còn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn thì biến hiện, trừu tượng, vô hình, như điện từ.

Bốn uẩn này phải nương vào sắc uẩn (xác thân còn sinh hoạt) mới hiển lộng ra được. Và người ta cũng căn cứ vào những hiển lộng ấy mà hiểu biết, xác nhận sự hiện hữu của chúng.

Khi hoạt động, bốn uẩn (hay danh pháp) ấy lại hiển lộng ra hai mặt, là mặt nổimặt chìm

Mặt nổi gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn. Chúng hiển lộng xuyên qua năm cửa hướng ngoại và một cửa qui nội của con người, là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tư ý. Năm cửa hướng ngoại và một cửa qui nội ấy, nhà Phật còn gọi bằng một cái tên khác là lục căn, gồm nhãn căn (thị giác), nhĩ căn (thính giác), tỷ căn (khứu giác), thiệt căn (vị giác), thân căn (xúc giác), và ý căn (tâm tư). Tức là sáu cái ‘cơ sở’ để tinh thần (hay thức uẩn) hoạt động.

Sáu cơ sở này trong con người có thể ví như một ngôi nhà thí nghiệm khoa học (laboratoire), mà nhãn căn là cái máy chụp hình, nhĩ căn là “ba động kế” thu thanh, tỷ căn là dụng cụ tiếp mùi, thiệt căn là bộ phận ghi lại các vị, thân cănhệ thống đo lường sự cọ xát hay sức ép, và ý căn là chỗ tích tụphản chiếu của năm hoạt động kia. Tập hợp của sáu sinh hoạt chính ấy chính là “phần hành chung” của “bộ ba” thọ uẩn (cảm thọ), tưởng uẩn (ghi tưởng), và hành uẩn (chuyển ý vận hành) trong ngũ uẩn của con người.

Mặt chìm tuy chỉ có một mình thức uẩn (hay tinh thần) hoạt động, nhưng nó lại rất đa diện, tốc hành, và hùng hậu. Xưa nay những nhà nghiên cứu tâm linh thường gọi nôm na thức uẩn tinh thần hay linh hồn.

Nhưng theo Duy thức học trong Phật giáo, thì vì thức uẩn hùng hậu như vậy nên nó tự thiết lập đến ba vòng ẩn hoạt, huyền bí vô cùng, là vòng ngoài, vòng giữa, và vòng trong. Ví như chiều sâu của đại dương gồm đáy biển, trung tầng, và thượng tầng.

Vòng ngoài của thức uẩn tương ứng với thượng tầng của đại dương (kể cả mặt nước), nơi hứng chịu mọi vật, và áp lực của gió bão. Còn vòng ngoài của thức uẩn thì hướng qua năm giác quan, chịu tất cả ảnh hưởng của ngoại trần. Vòng ngoài ấy được gọi một cách tổng quát là nhận thức.

Vòng giữa của thức uẩn tương ứng với trung tầng của đại dương, có tác dụng phân biệt trước một đối tượng, để phản ứng ra ngoài hay nhận vào bên trong, cũng như trung tầng của đại dươngtác dụng đẫy bất cứ một vật thể gì lên mặt nước, hay nhận chìm vật ấy xuống đáy biển. Vòng giữa này có một cái tên khác là tri thức.

Vòng trong cùng của thức uẩn tương ứng với đáy biển, có đặc tánh tự nhiên là yên lặng thống kê mọi vật, và vô tư kết toán cáo nào mạnh (nhiều), cái nào yếu (ít). Cũng như đáy biển là kho chứa tất cả những gì chìm xuống đó và giữ nguyên vị, không dời chỗ. Vòng trong cùng, hay trung tâm của thức uẩn này, được gọi là linh thức.

chủ đích của tập sưu tầm này là nói về linh thức ấy, trong thân thể sinh hoạt của con người, bằng một số ngôn ngữ tỷ giảo theo khoa học.

Qua nhãn quan khoa học, người Phật tử có thể phát biểu rằng: Thân thể con người khi còn sống là một cái máy năng động. Nó có thể phát sinh một hệ thống “điện từ”(courant électro-magnétique).

Hệ thống điện từ này biểu hiện cho sức mạnh tinh thần, rất ẩn lặng và vô hình, mà nhiều nhà nghiên cứu Duy Thức trong Phật học gọi là Mạt-Na A-Lại-Da thức (Màna-Àlaya), hay “linh hồn thức”, tức tổng hợp của thức thứ bảy và thức thứ tám, có khả năng “tái tạo” sự sinh tồn dưới dạng này hay dưới dạng khác. Nó là một “thanh khí” (créature éthérée) bao trùm, thấu nhiễm não bộ, và toả đến toàn thân, không khác gì vùng thanh khí (zone éthérée) xung quanh một tinh tú.

Luồng điện từ phát sinh nơi thân thể con người còn gọi là “nhân điện”, một loại tĩnh điện (électrostatique), cũng có hai cực Âm và Dương như trong dòng điện cơ khí. Cực Âm của tĩnh điện thân người, nằm ở hạ đỉnh cung Tý (đúng lúc 0 giờ), và cực Dương nằm ở thiên đỉnh cung Ngọ (lúc mặt trời đứng bóng) trên vũ trụ tuyến. Hai cực này liên lạc với nhau bằng luồng từ điện có cái tên là Tý Ngọ tuyến, tương đương với tên khoa học là “Kinh tuyến (Méridien).

Tý Ngọ tuyến này làm thành một (thùy trục) (Axe cosmique). Thùy có nghĩa là từ trên xuyên đến dưới theo một đường vô hình chạy từ đỉnh đầu đến lòng bàn chân trong thân thể con người. Đường này phối hợp và thẳng góc (perpendiculaire) với các đường ngang di động, làm thành toàn bộ “trực giác” trong sinh lực.

Kinh tuyến thiên nhiên, hay thùy trục của quả đất, cũng là một trục vô hình (do trí biết chứ không có sắc thể), khởi từ cực Bắc xuyên quả đất đến cực Nam, làm trung tâm cho quả đất tự xoay tròn, và chạy quanh mặt Trời, khoảng 2 triệu 400 ngàn cây số mỗi ngày, giữa không gian vô tận.

Và trong thân thể con người thì thùy trục này xuyên từ đỉnh đầu đến lòng bàn chân, nối liền hai điểm Tý Ngọ. Con người khi còn sống, nằm hẳn trong một khung vô hình (trần gian), là khoảng tương giao (hay vùng giao tuyến), thuộc hoành đồ sinh động, dung thông với trục trái đất và vũ trụ tuyến. Thùy trục khởi từ đỉnh đầu xuyên đến lòng bàn chân con người, cũng giống như thùy trục của trái đất, chạy từ Bắc cực đến Nam cực.

Vì tính lưu luyến của luồng từ điện nằm trong thùy trục con người, mà tạo thành và sinh ra từ sự cảm ứng (induction) của nhân điện khí. Đó cũng là từ lực của thân thể con người, tương đương với trọng lực của trái đất, theo định lý Faraday.

(Ông Michael Faraday là người Anh, sinh năm 1791 tại Newington Survey và mất năm 1867 tại Hempton Court. Ông là một nhà vật lý hoá học thiên tài, đã khám phá ra hiện tượng cảm ứng của luồng từ điện quả đất, để làm kim chỉ nam trong địa bàn).

Nghĩa là nếu so sánh, thân thể con người thì cũng giống như quả đất. Nó có đường “kinh tuyến” làm trục cho sự xoay tròn, hoạt động.

Kinh tuyến là “quỷ hình” của đường dọc, chạy suốt từ Bắc cực đến Nam cực, từ khai thiên lập địa đã tập trung một cách sơ động hai sức nóng và lạnh (nguyên nhiệt, nguyên hàn) của mọi vật hiện hữu. Rồi từ chỗ hội tụ ban sơ đến chỗ tích lượng phát huy, tạo ra sự “cảm ứng” của điện tử khí (électricité magnétique).

Kết luận: “Sự cảm ứng (induction) của điện tử khí chính là hiện tượng cấu kết của điện và từ lực sinh ra”, đã được nhà bác học vật lý Faraday thí nghiệm mà tìm thấy, khiến công trình khám phá của ông trở thành một đóng góp vĩ đại cho nền khoa học nhân loại mãi đến ngày nay. Tức là xác nhận rằng tất cả những dòng điện đều có phát sinh ra “vùng từ lực”, và vùng từ lực đó phải có sự cảm ứng của điện tử khí.

Tương tự như thế, thân thể con người khi hoạt động cũng sinh ra dòng từ điện, tạo thành một lực cảm ứng, nối liền với linh lực của con người.

Linh lực này gồm có hai phần: Phần động (hiển lộng) gọi là Mạt-Na (Màna), quen gọi là “hồn”, và phần tĩnh (an nhiên) gọi là A-Lại-Da, thường gọi là “phách”. Đó là hai thức lực tiềm lặng ‘nằm’ vừa trong vừa ngoài trí não con người. Hai loại siêu năng này biểu lộ được là do động lực cảm ứng của dòng nhân điện lưu chuyển trong thân thể.

Hồn lực Mạt-Na (còn gọi là thức thứ bảy) bao gồm tất cả tâm sở (Phạn ngữ là Cetasikà) thuộc về dương tính (positive), chủ trì các sự hiếu độnghành vi con người. Nó tượng trưng cho tiểu ngã, hay thường gọi là tự ngã (tức là cái ta), nắm giữ toàn diện cá thể  nhân sinh. Cái “ta” này đối với bề ngoài (mặt nổi), thì phát ra lý trí tư vọng. Nhưng nó lại có tính thay đổi không ngừng, và phân biệt cái này với cái kia, luôn luôn chạy theo các quy luận song đối, nhị biên (dualité), như một số từ ngữ tượng trưng sau đây: có không, sáng tối, đẹp xấu, trắng đen, phải trái, khôn dại, trên dưới, nam nữ, thuận nghịch, thương ghét, ngon dở, xa gần, lớn bé, đa thiểu, đặc trống, kín hở, trước sau, đông tây, nam bắc v.v… tổng cộng thành vô số từ ngữ, không thể kể ra hết được. Nó hàm chứa toàn thể ý niệm, tư duy, tánh nết, từ ti tiện cho đến cao thượng của mỗi cá nhân.

Hồn lực Mạt-Na có tật ôm ấp lâu dài toàn bộ những cảm xúchiểu biết từ lục thức (năm giác quan cộng với tâm tư) phản chiếu vào. Rồi sau khi đã tự nhiễm hoàn toàn những cảm xúc và các hiểu biết ấy, nó lại chuyển chúng vào trong phách lực A-Lại-Da (hay tàng thức), để thủ kết ở đó.

Vì phách lực A-Lại-Da (hay tàng thức) ẩn sâu trong tâm khảm (sub-conscience), nên rất tiềm tàng. Bản tánh nó thuộc về âm (négative) vốn tĩnh lặng, đễ luôn luôn chất chứa mọi pháp hành (nhân quả) trong bất động. Cái “kho” A-Lại-Da cất giữ không những tất cả hiểu biếtkinh nghiệm của hiện tại, mà nó còn tồn trữ toàn thể pháp hành từ vô thủy quá khứ, đến mãi mãi muôn kiếp luân hồi trong tương lai. Nó là cái “thức lực” vô khả duy lý, thuần tuý “vô tư”, khuyến tính phân biệt, không bị hạn chế giữa hai tình trạng nhị biên, nên trong cái “kho” của nó có đủ tất cả di sản, không thiếu bất cứ một hành nghiệp nào của mỗi sinh vật.

Nói cách khác, nó ví như một bà mẹ mù , không biết phân biệt, chỉ luôn luôn giữ kỹ, và nuôi dưỡng tất cả những đứa con, bất kể đẹp xấu, mạnh yếu, lớn nhỏ.

Tuy nhiên, với bản chất “thụ động” như thế trong tiểm thức một con người, nó vốn có sự chuyển hoá phi thường: khi nó bị chất chứa nhiều quá bởi một nghiệp quả nào đó, thì nó lại làm cho hiện thân cách sống của kẻ ấy phải lộ ra, y như ưu thế của cái lượng nghiệp quả đang dồn cất trong nó. Vì vậy mà trên cõi đời mới có hàng tỷ cá nhân, tuy nhìn bề ngoàicon người, nhưng bên trong bản tánh mang nhiều tư cách khác nhau, không ai giống ai, từ thực thà hay hung bạo như thú vật, đến thông minh hiền lành hay khôn ngoan xảo quyệt như những đại danh nhân, hay đại gian hùng.

Phách lực hay tàng thức A-Lại-Da tượng trưng cho “đại ngã”, làm tiêu biểu cho “bản thể vũ trụ”. Nó là “gạch nối” giữa tiềm thức với cõi vô cùng, và là “pháp thân” của mọi sinh linh khi chưa chuyển động. Nó cũng là “chân ngã” hay “tịnh ngã”, tức cái “ta thật” của mỗi chúng sinh lúc ở chiều sâu.

Nó giống như một mảnh đất, mà kinh gọi là “Địa Tạng”, nhận đủ các loại hạt giống để làm mọc mầm, nuôi dưỡng cho lớn lên những thứ nghiệp quả đã gieo vào đó. Nếu gieo giống Bồ Đề thì có cây Bồ Đề mọc và lớn lên, nếu gieo giống cỏ độc thì có cỏ độc mọc.

Vì hiện nay khoa học chưa có cách chứng minh phách lực A-Lại-Da, để cho ta thấy biết tường tận, nên có nhiều người không tin là mình sẵn có một bảo vật, một di sản nội tại vĩ đại, một sức mạnh phi thường, là phách lực A-Lại-Da.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 198)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 179)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 216)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 420)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 785)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 795)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 672)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 798)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 684)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 785)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 808)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 862)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 914)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1021)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 912)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1084)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1080)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1935)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1055)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1069)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1227)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant