Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Tác Giả Authors
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

14. Tu học để hoằng pháp

25 Tháng Hai 201200:00(Xem: 4823)
14. Tu học để hoằng pháp

ĐÓNG GÓP CỦA CƯ SĨ 

TRONG VIỆC HOẰNG PHÁP TẠI HẢI NGOẠI
(Kỷ Yếu Hội Luận 2011, Hội Phật Học Đuốc Tuệ)

Phần Ba - Bài viết Tham chiếu


TU HỌC ĐỂ HOẰNG PHÁP
Nguyên Giác Phan Tấn Hải

blankSau đây, là một số góp ý trong cương vị cư sĩ để giúp hoằng pháp ở hải ngoại, trong đó nêu lên ý chính: trước tiên phải là lo tu và học, nghĩa là học và hành; sau là khuyến tấn tu học, nghĩa là quảng bá chánh pháp, biện biệt được các nghĩa đúng sai, và dùng mọi phương tiện có thể có để mời gọi mọi người cùng tu học.

Bản thân từng người cư sĩ phải lo siêng năng tu học. Bởi vì, không tu, không học sẽ không làm được gì hết, và sẽ trở thành gương xấu cho các thế hệ sau, làm mất lòng tin từ tứ chúng, và tự cứu mình cũng không nổi. Thứ nhì, tìm phương pháp tiếp cận với tứ chúng trong các chùa, để hỗ trợ việc tu học, việc huấn luyện thế hệ kế tiếp. Và sau cùng, tiếp cận thích nghi với tất cả các thành phần khác trong và ngoài cộng đồng, và với cư dân địa phương.

Về bản thân từng người cư sĩ, trước tiên là phải thực tu, thực học. Chuyện học, cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, cực kỳ quan trọng, vì để giúp tự mưu sinh, tìm việc, hướng dẫn người khác, và tự phát triển những khả năng tiềm ẩn có thể có để sau này thêm phương tiện hoằng pháp. Muốn thực tu, thực học cần phải ngàỳ đêm nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm, luôn luôn thấy mình là người gìn giữ giáo pháp Đức Phật.

Về học, cần học các pháp thế gian cho vững, để ngay trong xã hội tự mình trở thành nơi nương tựa cho người khác. Các khả năng căn bản nên rèn luyện như viết tin, viết bài, sáng tác văn học, chụp ảnh, sử dụng máy vi tính, thuyết trình, tổ chức... Pháp thế gian không nắm vững, tất nhiên phương tiện hoằng pháp sẽ hạn hẹp.

Hãy tham dự các đại lễ, các hội nghị, các thiền thất và nhìn cách hoằng pháp của các vị sư và cư sĩ Hoa Kỳ, Tây Tạng, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam... chúng ta sẽ thấy việc hoằng pháp là một kết tập rất nhiều công sức của nhiều người, và đòi hỏi nhiều kỹ năng. Đọc kỹ một cuốn sách về Thiền, hay một tạp chí Phật Giáo, chúng ta sẽ thấy đó là những công trình có khi là của riêng một người, có khi là của nhiều người – nhưng thành công hay thất bại sẽ là do những kỹ năng rèn luyện nhiều năm mà thành, và có khi là do cơ duyên từ nhiều đời trước. Gặp một câu văn dở, độc giả sẽ không muốn đọc tới đoạn kế tiếp. Gặp một câu tối nghĩa, độc giả có thể hiểu trật ý tác giả. Nghe một cô ca sĩ hát hay, buổi văn nghệ Phật Đản năm sau có thể thu hút thêm nhiều người chưa từng biết Đạo Phật tới tham dự. Kho tàng thơ Thiền còn lưu truyền qua nhiều thế kỷ, chưa nói chuyện đạo vị, thấy trước tiên là vì thơ hay. Thơ dở là đã biến mất từ lâu.

Ngoài ra, người cư sĩ có thể tự học thêm những khả năng khác để có thêm phương tiện hoằng pháp. Bạn có thể vào mạng YouTube (www.youtube.com) và gõ chữ “chinese ink” để tự học Thư Pháp và tranh thủy mặc, hay gõ chữ “drawing” hay “painting” để học vẽ, sau này có thể vẽ tranh Thiền trong những cơ duyên nào đó.

Trong các pháp thế gian cần học hiện nay ưu tiên còn là Anh Văn. Có rất nhiều bản văn về Phật Giáo chúng ta đọc trong những bản Việt dịch nhiều thập niên qua ở quê nhàngôn ngữ tối tăm, có khi dịch không đúng. Cho nên, nếu đọc đối chiếu bản Anh ngữ sẽ có cơ duyên nhìn Đạo Phật dưới lăng kính đa diện hơn. Thí dụ, Kinh Pháp Cú có rất nhiều bản dịch khác nhau. Chuyện thời xưa, chúng ta đành để cho các nhà sử học đối chiếu, thí dụ 3 bản tiếng Sanskrit và 4 bản tiếng Trung Quốc. Nơi đây chúng ta chỉ bàn về 24 bản Kinh Pháp Cú tiếng Anh dịch từ tiếng Pali.

Chỉ riêng phân tích về bài kệ số 372 trong Kinh Pháp Cú, các bản Anh ngữ đã mang nhiều nghĩa lệch nhau.

Bài kệ này được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ:

372. "Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ,
Nhất định gần Niết-Bàn."

(http://hoavouu.com/D_1-2_2-228_4-4525_5-15_6-1_17-38_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark)

Tác giả Sotapanna Jhanananda (Jeffrey S. Brooks) đã viết bài “A comparative analysis of 23 translations of Dhammapada Verse 372 to Reveal the Variability in Translation” (Phân Tích Đối Chiếu 23 Bản Dịch Bài Kệ 372 của Kinh Pháp Cú Để Hiển Lộ Các Dị Biệt Trong Dịch Thuật -- http://www.greatwesternvehicle.org/translation.htm) trong đó ông đối chiếu 24 bản Anh ngữ về bài kệ 372.

Chỉ cần trình độ tu học trung bình, một người giỏi tiếng Anh có thể thấy rằng nhiều dịch giả Anh ngữ đã dịch sai (nói lịch sự: không chính xác), cho dù họ đều là các học giả nổi tiếng hoặc các vị sư nổi tiếng của thế giới. Nếu bạn chỉ đọc một bản dịch, bạn sẽ không có cơ hội đối chiếu, và đành phải tin vào riêng một người. Cũng y hệt như khi 24 cô thiếu nữ đứng bên nhau, chúng ta sẽ thấy ngay cô nào trắng hơn, cao hơn, gầy hơn, cười tươi hơn, vân vân. Không có gì tuyệt vời hơn cho người tu học khi đọc đối chiếu tới 24 bản Kinh Pháp Cú để dò tìm chính xác ý của Đức Phật thời xưa. Đây cũng là lý do chúng ta không nên hoàn toàn nương tựa riêng một vị sư, mà nên tiếp cận nhiều vị, và nên học nhiều pháp môn, trước khi chọn một pháp thích nghi cho mình.

Do vậy, nhu cầu học là cần thiết. Nhất là khi các thế hệ trẻ hơn đang nương tựa vào chúng ta để tìm hiểu Đạo Phật. Nhu cầu tu lại còn cần thiết hơn. Bởi vì, nếu bạn không nếm trải được pháp hỷ thiền duyệt, bạn không có gì để trao truyền cho người khác, và lúc đó bạn chỉ là cái máy cassette lập lại những gì bạn đã nghe. Lúc đó, sẽ rất là tội nghiệp cho mình, và cho người chung quanh.

Một nhu cầu để thấy cần phải tu chuyên cần, không chỉ là một khát vọng giảỉ thoát, mà còn là để đối trị với pháp thế gian. Thí dụ như để ngăn ngừa và chữa bệnh ưu trầm, thậm chí, theo các cuộc nghiên cứu y học, pháp niệm thân trong Tứ Niệm Xứ còn giúp giảm hoặc chữa các cơn đau của cơ thể, trong khi tăng trí nhớ và giúp giữ trí tuệ minh mẫn.

Dưới mắt khoa học Âu-Mỹ, Thiền là một phương thuốc chữa vô số bệnh, vậy mà nhiều chùa không sử dụng tới phương tiện này. Bạn chỉ cần vào trang Google.com, gõ nhóm chữ “mindfulness meditation health benefits” sẽ ra nhiều trang có ghi những cuộc nghiên cứu về lợi ích Thiền tập đối với sức khỏe, không chỉ ngăn và chữa nhiều bệnh mà còn giữ tuổi trẻ và chống lão hóa.

Một điểm có thể thấy rằng, trong khi thế hệ trẻ không đủ khả năng đọc tiếng Việt, hoặc chỉ có thể đọc lơ mơ, chúng ta lại không tập trung hướng dẫn giáo pháp bằng song ngữ cho các em. Trong khi chúng ta xây những ngôi chùa xây tốn nhiều triệu đôla, có khi chúng ta lại quên xây con người. Nếu vừa xây được chùa lớn, vừa đào tạo được Phật Tử giỏi thì sẽ rất tốt. Còn nếu không, thì nên ưu tiên xây con người hơn.

Thực sự, phương tiện để dạy giáo pháp bằng song ngữ không tốn kém bao nhiêu. Chỉ cần các anh chị huynh trưởng Gia Đình Phật Tử chú tâm vào điểm này: tìm mua một máy in laser printer, mỗi tuần lên các trang web Phật Giáo, in một trang hay nửa trang giáo lý căn bản Anh ngữ ra để phát cho các em trong đơn vị. Ít nhất, mỗi tuần, các em cũng có một trang giáo lý để về đọc, bằng ngôn ngữ mà các em quen thuộc. Khi các em hiểu được, và khi thấm nhuần được một chút pháp hỷ thiền duyệt, sẽ không có sức mạnh nào chiêu dụ các em đi lệch đường nổi.

Như thế, tốn bao nhiêu? Máy Laser Printer HP 1102W chỉ tốn 85 đôla, một ống mực toner chỉ 20 đôla, và một ream giấy 500 tờ chỉ 4 đôla thôi. Xài cả mấy năm, mới cần mua thêm mực và giấy mới. Quá rẻ, mà thiết thực dạy cho các em biết thực sự Đạo Phật là gì.

Thêm nữa, trong khi tiếp cận với xã hội, người không có thực tu, thực học sẽ không ứng phó nổi trong nhiều tình huống. Thí dụ, thuận theo lời mời từ người hôn phối hay từ người bạn tình khác tôn giáo, bạn phải tham dự một khóa Tĩnh Tâm của Công Giáo, hay dự một khóa Bồi Linh của Tin Lành. Sau một khóa như thế, bạn thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản, và bạn nghĩ rằng tôn giáo nào cũng tốt, và không phân biệt được sự khác nhau giữa Phật Pháp và các giáo lý đạo khác.

Nếu bạn có thực tu, thực học, bạn sẽ phân biệt dễ dàng, sẽ không nhầm lẫn như thế. Thí dụ, các đạo khác đều dùng pháp cầu nguyện để tự kỷ ám thị, nhưng Phật Pháp trong tận cùng là trở về Tánh Không nơi lòng mình; các đạo khác dùng niệm ám thị để ngộ nhận có một tự ngã nhỏ bé sẽ hội nhập cùng Nhan Thánh Đại Ngã, trong khi Phật Giáo nhận rõ bản tánh các niệm là vô niệm để rồi sẽ thấy thực tướng các pháp là Vô Ngã.

Do vậy, các đạo khác dùng âm thanh sắc tướng để tìm bình an, như hát những bài thánh ca tuyệt vời, như trang phục nhiều màu sắc trong các buổi lễ, như đốt hương thơm để người tham dự ngây ngất, thậm chí nam nữ trong khi cầu nguyện hay đi bộ còn nắm tay nhau để tạo cảm giác chia sẻ của một xã hội cộng thông hay hiệp thông. Hãy suy nghĩ rằng, nếu dùng sắc tướng để tạo cảm giác an lành khỏe khoắn, bạn có thể đi bơi liên tục một tuần lễ, bạn sẽ có nhiều lợi ích về cả thân tâm hơn là tự thôi miên mình trong không khí đầy sắc tướng như thế.

Phật Pháp không dùng tới sắc tướng âm thanh để thôi miên hay ám thị, sau khi tụng kinh để nghe giáo nghĩalặng lẽ ngồi thiền để tâm mình không có nơi nào an trụ, để thấy sắc thanh hương vị xúc pháp đều là không, đều không có gì để phải vướng mắc, và thấy không có gì cần phải nắm tay nhau cầu nguyện để cộng thông hay hiệp thông.

Tương tự, bạn cần có đủ giáo nghĩa để trả lời khi có ai hỏi về khái niệm Trời, Đấng Sáng Thế, Thượng Đế trong nhà Phật. Nếu không thực tu, thực học, chúng ta sẽ bị một số thông tin dỏm qua email, qua Internet lừa gạt. Hiện nay có rất nhiều câu nói trên Internet được cho là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thực ra chỉ là gán ghép, ngụy tạo.

Chúng ta có thể thấy một số người tung những thông tin truyền đạo trên Internet bằng cách vặn vẹo cả lịch sử. Họ nói rằng nhà khoa học Albert Einstein tin vào Thượng Đế Sáng Tạo, nhưng thực sự Einstein không hề tin như thế, ông chỉ tự nhận là một agnostic (bất khả tri); họ còn nói rằng một linh mục dòng Jesuit đã đưa ông Einstein từ lập trường vô thần trở thành người tin Chúa, nhưng đó chỉ là bịa đặt. Xin đọc: Albert Einstein's religious views (Quan Điểm Tôn Giáo của Albert Einstein -- http://en.wikipedia.org/wiki/Albert_Einstein%27s_religious_views)

Hay như gần đây, nhiều email trên các diễn đàn tiếng Việt, có kể chuyện tỉ phú Bill Gates, một nhà từ thiện vĩ đại, “Năm 2002 sau 10 giờ đàm đạo, Bill Gates đã ngẩng đầu lên trời, cảm tạ Thượng Đế đã sinh Bill lại còn sinh thêm Warren Buffett...” (hết trích)

Có thực Bill Gates tin vào Thượng Đế? Đó là thông tin dỏm. Bill Gates cũng như Einstein, là người tin vào thuyết bất khả tri, thậm chí Bill Gates từng được đưa vào danh sách các nhà atheist (vô thần, xem http://www.celebatheists.com/wiki/Main_Page) vì ông có lúc nói rõ là không tin vào giáo lý độc thần sáng thế. (Xem cột bên phải và chú thích 2 và 3: http://en.wikipedia.org/wiki/Bill_Gates)

Tương tự, Warren Buffett cũng không tin Thượng Đế, và nằm trong danh sách chủ nghĩa bất khả tri. (Xem cột bên phải và chú thích 3: http://en.wikipedia.org/wiki/Warren_Buffett).

Nếu không đủ tiếng Anh, nếu không đọc nhiều, chúng ta sẽ nhầm lẫn rằng Albert Einstein, Bill Gates, Warren Buffett là các con chiên nhiệt thành. Người ta đưa thông tin dỏm là muốn làm chúng ta tin nhầm như thế.

Như thế, các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều cần phải học, phải rèn luyện.

Thực tu, thực học cũng sẽ giúp chúng ta ứng phó trong các trường hợp cần sự bình tĩnh. Thí dụ, một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử cần suy nghĩ, nên giúp thế nào cho các em sắp dự kỳ thi SAT, các kỳ thi final cuối năm? Không có gì hay hơn là trong các buổi sinh hoạt hàng tuần, hãy dạy các em ngồi Thiền 10 phút, hay 15 phút. Không cần yêu cầu các em ngồi kiết già hay bán già, vì 2 tư thế này dễ làm đau chân và có thể làm nản lòng nhiều em. Hãy ngồi theo thế Miến Điện (Burmese posture), nghĩa là chỉ xếp chân xuôi vào nhau. Bạn vào Google sẽ dễ dàng thấy thế ngồi này. Hãy tập hoặc để tâm theo hơi thở, hoặc theo dõi hơi thở phồng xộp nơi bụng, hoặc theo dõi cảm giác hơi thở ở chóp mũi... là những cách đơn giản nhất, nhưng cực kỳ hiệu nghiệm. Hoặc là hình dung mình như đã chết rồi, một pháp niệm tử. Hoặc là niệm câu Phật hiệu chậm rãi và lắng nghe rõ ràng, minh bạch từng chữ. Nếu giữ được đi đứng nằm ngồi trong một pháp tu, học nhân sẽ cảm nghiệm được pháp hỷ thiền duyệt chỉ trong vài ngày. Có người chỉ ngồi thở 10 phút đã thấy toàn thân an lạc rồi.

Tu học là chìa khóa của hoằng pháp. Tất cả mọi chuyện khác đều phải tới sau. Tu học cũng là bắt đầu đặt chân vào con đường giải thoát. Không bước đi, thì sẽ không bao giờ đến.

Tu học chính là hoằng pháp, là mời gọi mọi người cùng bước vào con đường giải thoát vậy.

Chúng đệ tử của Phật gồm hai thành phần chính yếu là người xuất gia và người cư sĩ Phật tử. Không riêng gì người xuất gia, người cư sĩ Phật tử cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống tu họchộ trì Chánh pháp. Một thời đại Phật pháp hưng thịnh thì số lượng người cư sĩ Phật tử phát triển đông đảo. Một quốc gia được gọi là quốc giáo thì dân số theo đạo Phật quyết định tiêu chuẩn đó.

Đạo Phậtcon đường tu học theo hệ thống mở, đối tượng đạo Phậtcon người. Mọi người có quyền trở thành một người Phật tử theo tinh thần tự nguyện trở về nương tựa Chánh pháp và thăng hoa đời sống của mình. Vị cư sĩ là người quy y Tam bảo, thành tựu về giới, thành tựu chánh tín, thực hành bố thíphước tuệ song tu, chứng quả giải thoát, thì đó là người cư sĩ gương mẫu trong đạo Phật.

Vì muốn nhận thứcvai tròmục đích của người cư sĩ, vị cư sĩ tên là Mahànàma, đã mạnh dạn hỏi trực tiếp đến Đức Phật về vấn đề liên quan người cư sĩ như sau: “Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ giới? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ tín? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ lòng bố thí? Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ?" Phật dạy:

“Ai quy y Phật, này Mahànàma, quy y Pháp, quy y chúng Tăng. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ.

Này Mahànàma, người cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ giới.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩlòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ tín.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩ trú ở gia đình, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia sẻ vật bố thí. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ bố thí.

Ở đây, này Mahànàma, người cư sĩtrí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt (các pháp), trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp), cho đến chân chánh đoạn tận khổ đau. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là người cư sĩ đầy đủ trí tuệ.”1

Quy y Tam bảo là khởi đầu cho lộ trình tu họctiếp nhận khả năng chuyển hóa vận mạng của cả đời người. Vì khi quy y Tam bảo, người cư sĩ có nhiều cơ hội thực hành phương pháp tu dưỡnghiệu quả. Từ đó, họ cảm nhận sự an lạclợi ích lớn trong đời sống bản thân. Nương tựa Phật, Pháp và Tăng là thừa hưởng sức mạnh đạo đức của đại chúng và vận dụng được kinh nghiệm quý báu trong việc tu học. Người cư sĩ đã quy y Tam bảo thực sự là con của Phật, là thành viên trong căn nhà Phật pháp. Do vậy mà một người khi quy y thường có cái tên mới, gọi là Pháp danh. Lâu nay sống ở nhà, tên mình do cha mẹ đặt. Nay trở về với đạo, vị thầy hướng dẫn đặt pháp danh. Pháp danh cũng là tên gọi kể từ khi sinh ra trong giáo pháp của Phật, làm mới đời sống của mình bằng cách thực tập theo lời Phật dạy.

Thành tựu về giới: Người cư sĩ phải thành tựu về giới, tức thực hành Ngũ giới nghiêm túc. Ai không như pháp thọ trì giới thì chướng ngại kết quả tu học. Thọ giới, giữ giớiđắc giớidiễn tiến quá trình tu học tích cực. Giới là khuôn vàng thước ngọc để chúng ta rèn luyện đạo đức cá nhân, gia đình, và xã hội. Ai giữ giới trong sạch thì có đời sống lành mạnhtrí tuệ sáng suốt, mạng chung tâm không sợ hãi, sanh vào cõi lành. Thành tựu giới để thành tựu định và tuệ giải thoát.

Thành tựu chánh tín: một yếu tố quan trọng trong phụng sự Tam bảo của người cư sĩ Phật tửniềm tin. Niềm tin là sự tịnh tín với Phật, Pháp và Tăng. Niềm tin phát khởi thì có sự tu học tinh tấn. Phật tử luôn tư duy ân đức của Tam bảokhởi tâm gìn giữ căn nhà Phật pháp. Vì lý do nào đó mà có người làm tổn hại đến Tam bảo, người cư sĩ tịnh tín cảm nhận được sự đau xót giống như trăm ngàn mũi kim đâm vào thân mình. Đó là nỗi đau của người biết tôn trọng chân lýlợi ích đời sống tha nhân. Phát huy đạo Phật cần có những người Phật tử tịnh tín như vậy. Phật dạy: “Ví như, này các Tỳ kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, các thiện nam tửlòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cho nam và nữ cư sĩ”2. Người cư sĩ Phật tử phải khẳng định mình là chỗ nương tựa cho những đệ tử Phật hành đạo, ví như cây bàng cho các loài chim nương tựa và sinh sống. Đạo Phật từ bao đời nay tồn tại và phát triển tốt đẹp trong xã hội là nhờ lòng tịnh tín của người cư sĩ Phật tử.

Thực hành bố thí: Bố thí có nghĩa là cho ra bằng tình thương, bằng trí tuệ. Bố thí không chỉ dựa trên giá trị vật chất mà còn nhiều giá trị khác. Tục ngữ có câu: “Cách cho hơn đem của cho”. Người cho với tấm lòng vui vẻ, dù của cải (vật bố thí) ít nhưng người thọ nhận cảm thấy an lạc. Kinh Phật dạy: Bố thí có ba phương diện, đó là: Tài thí, Pháp thíVô úy thí.

Tài thí là dùng tiền tài, phẩm vật bố thí, như cúng dường Tam bảo, cúng dường cha mẹ, giúp đỡ người nghèo khótham gia làm từ thiện. Khi cúng dường hay bố thí, quan trọng với tâm rộng mở, không bị trói buộc. Không dùng tiền của bố thí mà sanh lòng tự cao, ỷ lại hay khoe khoang theo thói hư danh. Dù tài vật nhiều hay ít nhưng cho ra với tâm giải thoát. Phật dạy: “Nhưng ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”. Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiêncõi trời Phạm Chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếnguy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui lại trạng thái này”3. Bố thí để trang nghiêm tâm, dù người nghèo hay giàu, bố thí với tấm lòng vô ngã vị tha thì có phước báo to lớn.

Bố thí pháp là học giáo lý từ bi trí tuệ của Phật để chia sẻ cho mọi người biết vận dụng tu học và sống có ý nghĩa. Đạo Phật là đạo chung cho người đã đến tu học, chung cho người đang đến tu học, chung cho những ai sẽ đến tu học. Đức Phậtchúng sanhnhân loạitruyền bá giáo lý giải thoát. Do vậy, dù tu sĩ hay cư sĩ đều có trách nhiệm chung về việc hoằng dương Phật pháp. Người cư sĩ Phật tử tùy duyên bố thí pháp, như cúng dường ấn tống kinh sách, báo chí Phật giáo để mong mọi người hiểu rõ giáo lý của Phật thì đó là một cách bố thí pháp.

Vô úy thí là giúp người vượt qua sợ hãi. Người con Phật, luôn kiên trì nhẫn nại truyền bá Chánh pháp vào dòng đời khổ đau thì cần có đức vô úy. Chúng ta đang thực hành chân lý tự dogiải thoát trên đời, những người đau khổ cần sự giúp đỡ thì chúng ta sẵn lòng. Chúng ta dùng lời ái ngữ an ủi mọi người lúc tai ương hoạn nạn, giúp người vượt qua sự khó khăn và bế tắc trong đời sống bằng tình thương và sự hiểu biết.

Đức Phật thường khuyên các đệ tử cư sĩ không những nỗ lực tu các thiện pháp mà còn khích lệ tu tuệ giải thoát. Pháp thực hành cụ thểthiền quán trên mọi hiện tượng để thấu đạt lý sanh diệt. Sanh diệtý nghĩa của giáo lý duyên khởi, pháp mà Đức Phật đã thực hànhchứng đắc quả vị giải thoát. Phật dạy rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là thấy Ta (Phật)”4. Quán các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt thì tâm chấp thủphiền não sẽ đoạn trừ. Từ đó tâm ly dục, ly bất thiện pháp xuất hiện, an trú vào trạng thái thanh tịnh của bậc Thánh. Mọi hành động tu tập đều chỉ đạo bằng trí tuệ, làm phước thiện với tâm không chấp thủ đều là yếu tố đưa đến chứng ngộ quả vị giải thoát.

Phẩm hạnh của cư sĩ Phật tử được Đức Phật thuyết trong các bản kinh thuộc hệ Nikàya này rất chi tiếtdễ hiểu. Từ khởi đầu quy y, tu tập Năm giới, giữ lòng tịnh tín với Tam bảo, thực hành bố thíthành tựu trí tuệ chứng ngộ Thánh quả liên quan trong sự tu học của người cư sĩ mà nhiều kinh điển khác thường nhắc đến. Chúng ta thấy bổn phận và trách nhiệm to lớn của người cư sĩ trong việc tu họctruyền bá Chánh pháp trong đời sống nhân gian. Thiết nghĩ rằng, nếu mọi người đều đón nhận và thực hành đúng theo tôn chỉ của Phật dạy thì đạo Phật sẽ phát triển vô cùng mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại, và cũng đem đến hạnh phúc an lạc cho tất cả mọi người

 

(1) Kinh Tương ưng V.55.37, bản dịch của HT.Thích Minh Châu.

(2) ĐTKVN, Tăng chi bộ II, chương 5, phẩm Sumana, phần Sự lợi ích của lòng tin, VNCPHVN, ấn hành 1996, tr.369.

(3) ĐTKVN, Tăng chi bộ III, chương 7, phẩm Tế đàn, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.355.

(4) Tiểu bộ kinh I, tr.48, bản dịch của HT. Minh Châu, ÐTKVN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 485)
Pháp thoại: Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng nhân lễ Phật đản PL.2567 tại chùa Phước Duyên – Huế
(Xem: 704)
Tôi từng nghe trong Kinh Du Hành của Trường A-hàm Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ-kheo rằng, “Hãy tự nương tựa mình, nương tựa nơi Pháp, chớ nương tựa nơi khác.”
(Xem: 935)
Kính bạch chư tôn trưởng lão Hoà Thượng Chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni Kính thưa quý cư sĩ Thức giả, quý cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, quý đồng hương Phật tử cùng toàn thể quý vị nhân viên nhà hàng Brodard.
(Xem: 867)
Sinh hoạt trong lãnh vực truyền thông tại Quận Cam bao lâu nay, tôi chưa bao giờ tham dự một buổi ra mắt kinh sách Phật Giáo mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam như buổi ra mắt bộ Thanh Văn Tạng của Đại Tạng Kinh Việt Nam tại Nhà Hàng Brodard Chateau, Thành phố Garden Grove, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào chiều Chủ Nhật, ngày 19 tháng 3 năm 2023.
(Xem: 1149)
Trong pháp hội này, đầu tiên, hãy cho phép tôi được nói đôi lời về giáo chỉ tu Phật (được cho là) làm động cơ phát triển tâm thức; trước khi ta bàn luận đến bản chất tâm hay tôn giáo:
(Xem: 1208)
Đề tài thảo luận của chúng ta hôm nay là “Đạo Phật với Thanh niên”. Tiêu đề như thế thường gây ấn tượng rằng có nhiều hình thái đạo Phật khác nhau; và mỗi hình thái cho từng lứa tuổi, hay tùy theo thành phần xã hội khác nhau.
(Xem: 1097)
Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong Tam tạng giáo điển Phật giáo ngoài những điểm chung, kinh còn có những điểm độc đáo và đặc biệt riêng, nên khiến kinh không phải chỉ là Pháp mà còn là Diệu pháp.
(Xem: 3045)
Thừa tiếp sứ mệnh phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam còn dang dở của Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng được Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương của Viện Tăng Thống GHPGVNTN thành lập vào tháng 10 năm 1973
(Xem: 10919)
Thông Báo và Ghi danh Khoá Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 10 Tại Philadelphia từ ngày 23 đến 26 tháng 7 năm 2020
(Xem: 14540)
Được tổ chức tại Khách sạn DOUBLE TREE BY HILTON NEWARK 39900 BALENTINE DRIVE, NEWARK, CA 94560 Từ Thứ Năm đến Thứ Hai, ngày 25 - 29 tháng 7 năm 2019
(Xem: 7669)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 31 - 2019 được tổ chức tại thành phố Dinant tại Bỉ Quốc
(Xem: 4663)
Trường Hạ An Cư Năm 2019 tại Chùa Phật ĐàNhư Lai Thiền Tự, San Diego, California, Hoa Kỳ
(Xem: 8208)
Chương Trình Hoằng Pháp Của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ 2019 do HT Thích Như Điển hướng dẫn từ ngày 01 đến 31/06/2019
(Xem: 3008)
Thư Cung Thỉnh Đại Lễ Hiệp Kỵ Tổ Sư Về Nguồn kỳ 12, Mừng Chu Niên 30 Năm (1990-2020) Tu Viện Quảng Đức từ ngày 15 đến 18/10/2020
(Xem: 3152)
Lịch Hoằng Pháp Của Thầy Thích Hạnh Tuệ Năm 2019 (Updated ngày 6/3/2019) Kính mời Đại chúng tại các địa phương đến tham dự.
(Xem: 19898)
ĐĐ Thích Hạnh Tuệ tổ chức Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ và Nepal từ ngày 02 đến 17 tháng 11 năm 2019
(Xem: 7003)
Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu Kỳ 18 của Giáo Hội PGVNTNHN tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 12 năm 2018
(Xem: 20558)
ĐĐ Thích Hạnh Tuệ tổ chức Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ và Nepal từ ngày 04 đến 18 tháng 11 năm 2018
(Xem: 6554)
Đại Lễ Về Nguồn Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 11 được khai diễn tại chùa Khánh Anh thuộc thành phố Evry, thủ đô Paris. Thời gian từ thứ sáu, ngày 28/09/2018 đến thứ hai, ngày 01/10/2018.
(Xem: 2667)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 8 năm 2018 tại Khách sạn Ala Moana Holtel, Honolulu, Hawaii
(Xem: 15459)
Từ Thứ Năm đến Thứ Tư, ngày 11-17 tháng 9 năm 2018, tại: ALA MOANA HOTEL - 410 Atkinson Drive, Honolulu, Hawaii 96814
(Xem: 12532)
Từ ngày 29/3/2018 đến ngày 22/5/2018 do HT Phương Trượng Chùa Viên Giác Đức Quốc hướng dẫn
(Xem: 2619)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 30 năm 2018 sẽ được khai diễn tại địa điểm: Gesamtschule an der Erft - Aurinstrasse 59 - 41466 Neuss - Đức quốc
(Xem: 4156)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 16/03/2018)
(Xem: 5410)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 30 - 2018 được tổ chức thời gian từ 23/07/2018 đến ngày 01/08/2018
(Xem: 9831)
Khóa tu học Phật Pháp Âu châu Kỳ thứ 29 tại Pháp - Thời gian từ ngày 20. 07. 2017 đến 29.07.2017.
(Xem: 11311)
Niềm tin của mỗi người con Phật là ai cũng muốn học hỏi Phật pháp để thiết lập cho mình một niềm tin kiên định...
(Xem: 17169)
Được tổ chức tại Holiday Inn Chicago North Shore, Thời gian: Từ Thứ Năm đến Chủ Nhật, 20-23 tháng 7 năm 2017
(Xem: 8513)
Chùa Thiên Trúc tổ chức Khoá Tu Học Phật Pháp vào ngày 14, 15, 16/7/2017 tại Trường Trung Học Yerba Buena, San Jose
(Xem: 4880)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 08/07/2017)
(Xem: 4132)
Khóa tu được tổ chức từ ngày 20 đến 30/7/2017 tại Tu Viện Kim Sơn, Tp. Morgan Hill, California
(Xem: 10501)
Pháp Hội được tổ chức từ ngày 19 đến 21/5/2017 tại San Jose, miền Bắc California
(Xem: 3312)
Của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ từ ngày 16.3.2017 đến ngày 30.4.2017 (Ấn Độ, Népal, Thái Lan, Lào, Đại HànNhật Bản)
(Xem: 19943)
Chương Trình Tu HọcHành HươngẤn Độ, Thái Lan, Lào, Đại Hàn, Nhật Bản trong thời gian 46 ngày từ ngày 16.3.2017 đến ngày 30.4.2017
(Xem: 3342)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 17/03/2017)
(Xem: 4246)
Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu Kỳ 17, từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 12 năm 2017
(Xem: 6044)
Khóa Tu Học Mùa Thu Lần Thứ IV từ Thứ Sáu 14 Đến Chủ Nhật 16 tháng 10, 2016 tại Chùa Phật Ân Minnesota
(Xem: 6437)
Kính mời Quý đại chúng tại các địa phương đến tham dự các chương trình tu học... (updated ngày 6/9/2016)
(Xem: 9657)
Do HT Thích Tánh Thiệt làm trưởng Ban Tổ Chức từ ngày 25/07 - 03/08/2016
(Xem: 6226)
Khóa Tu Học Phật Pháp vào dịp Lễ Hội Quán Thế Âm từ ngày 20 đến 23 tháng 10/2016
(Xem: 29156)
Từ ngày 21 đến 24/7/2016 Tại Hilton Orange County, Costa Mesa - 3050 Bristol St. Costa Mesa, CA 92626
(Xem: 12204)
Khóa Tu Học Phật Pháp Mùa Hè Lần II-2016 Tại San Jose, California do Chùa Thiên Trúc tổ chức
(Xem: 9573)
Được tổ chức tại: Tu Viện Phổ Đà Sơn, Canada - Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 10 năm 2016
(Xem: 14222)
Được tổ chức tại: Niệm Phật Đường Fremont, California, Hoa Kỳ - từ ngày 10 đến 12/6/2016
(Xem: 5043)
Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ lần thứ 6 sẽ được tổ chức ngay tại Little Saigon, từ ngày 21/7 đến 24/7/2016.
(Xem: 17249)
Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ tại Hoa Kỳ Từ ngày 22.3.2016 đến ngày 16.5.2016
(Xem: 18818)
Kính cung thỉnh Quý Ngài thân lâm đến chùa Khánh Anh để cùng kiết giới cũng như an cư kiết đông từ ngày 04 đến 10/01/2016.
(Xem: 11597)
Thời gian: Từ thứ Ba ngày 29 tháng 12 năm 2015, đến thứ Bảy ngày 02/01/2016
(Xem: 11029)
Trưởng đoàn: HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác Đức quốc, cùng Chư Tôn Đức ở Hoa Kỳ và các nước Âu Châu
(Xem: 13376)
Hàng người dài bất tận, im lặng, chăm chú nhìn vào ngọn nến cầm trên tay và theo dõi từng bước chân, đi tới, đi tới mãi…, dưới bầu trời đêm vắng lặng...
(Xem: 12797)
Từ ngày 29/5 đến 02/6/2014 được tổ chức tại Town and Country Resort Hotel; Do HT Thích Nguyên Siêu làm trưởng Ban Tổ Chức.
(Xem: 27805)
Khóa Tu Học Bắc Mỹ Lần V sẽ được tổ chức tại Town and Country Resort Hotel San Diego, CA 92108 từ Thứ Năm ngày 06/08 đến Thứ Hai ngày 10/08/2015.
(Xem: 11380)
Thiền học bằng Anh ngữ miễn phí mỗi Chủ Nhật, bắt đầu từ ngày Chủ Nhật 26/7/2015 lúc 9:30AM đến 12:00PM
(Xem: 21365)
Giáo Hội chúng ta mượn trường học để tổ chức khóa tu kỳ nầy trong thời gian từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 30 tháng 7 năm 2015 tại địa phương Neuss.
(Xem: 8018)
Do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan tổ chức PL.2559 - DL. 2015
(Xem: 19583)
Khóa tu học được tổ chức Từ 9:00 AM, Thứ Sáu, ngày 17 đến 6:00 PM, Chủ Nhật, ngày 19 tháng 07/2015
(Xem: 15690)
Được tổ chức tại San Diego, CA, ngày 6 đến ngày 10 tháng 8 năm 2015
(Xem: 8841)
Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu Kỳ thứ 27 tại Neuss (Đức quốc) từ ngày 20 - 30.07.2015
(Xem: 18037)
Đại Lễ Phật Đản năm nay vào hai ngày thứ bảy 16.5 và chủ nhật 17.5.2015
(Xem: 14338)
Từ ngày 10/04/2015 đến ngày 03/05/2015 tại các tiểu bang Oklahoma, Philadelphia, Florida và Toronto Canada
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant