Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo đức Phật giáo và kỹ thuật tạo sinh

Sunday, February 26, 201200:00(View: 13475)
Đạo đức Phật giáo và kỹ thuật tạo sinh
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ KỸ THUẬT TẠO SINH
Quán Như

Cả thế giới rung động khi công ty nghiên cứu sinh học American Advanced Technology (AAT) loan tin là họ clone (tạo sinh) một phôi bào (embryo) của người. Không những chỉ có giới thẩm quyền thuộc các tôn giáo độc thần lớn tiếng kết tội các khoa học gia muốn cướp quyền Thượng Đế, giới khoa học gia, các nhà lập pháp cũng như chánh quyền các nưóc Tây Phương vội vã lên tiếng chống đối. Thượng viện Anh đã triệu tập một phiên họp khẩn cấp để thông qua một đạo luật chống cloning, trong đó những người nào thi hành thí nghiệm cấy một phôi bào của người, khác hơn là phôi bào đã được kết hợp tự nhiên bởi một tinh trùng và một trứng, có thể bi kêu án 10 năm tù. Tổng Thống Bush tuyên bố là cloning phôi bào người là một việc làm trái đạo đức và thúc dục Thượng Viện thông qua dự luật cấm cloning người. Tuy nhiên Thượng Viện nói là họ không vội vã trong việc cấm cloning và sẽ điều tra xem kỹ thuật này có giúp ích gì trong việc chữa các chứng bịnh hiểm nghèo cho dân chúng không. Các phản ứng tại Âu Châu cũng tương tự. Pháp, Đức, Gia Nã Đại và Ý đều lên tiếng chống đối việc tạo con người trong phòng thí nghiệm.

Tuy nhiên các nhà khoa học di truyền nói là quần chúng phải phân biệt giữa hai kỹ thuật cloning. Kỹ thuật Cloning thứ nhất là tái tạo một cá thể con người (productive cloning) và một kỹ thuật khác là tạo những tế bào để thay thế các tế bào bi hư hại (theurapetic cloning) trong cơ thể. Các nhà khoa học nói là các tế bào này chỉ là mầm sống sơ khởi, chưa phải là một cá thể người, do đó không liên hệ đến các vấn đề đạo đức về hủy diệt sự sống. Các phôi bào do AAT cấy được chỉ mới sinh ra chừng 6 tế bào khác, tuy nhiên chúng có đầy đủ các yếu tố di truyền của người cung cấp tế bào. Vatican dĩ nhiên nghiêm khắc lên án thí nghiệm tái tạo người cũng như thí nghiệm tái tạo các tế bào phôi sinh (stem cell) để chữa bịnh. Các chánh phủ Tây Phương mặc dù lên án productive cloning nhưng vẫn cho phép theurapetic cloning các tế bào phôi sinh để áp dụng vào việc chữa bịnh.

Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu Advanced Cell Technology, Tiến sĩ Robert Lanza, nói là công trình này có những tiềm năng lớn lao trong việc chữa các chứng nan y và cấm đoán việc thử nghiệm này sẽ ngăn chặn những khám phá y học cần thiết để chữa trị những chứng bịnh hiểm nghèo, như ung thư, tiểu đường và các chứng run rẩy (Parkinson) ở các người già.

Các khoa học gia ở trung tâm ACT tiết lộ người hiến tế bào để thử nghiệm là Bác sĩ Judson Someville, hiện đang bị tê liệt và ngồi trên xe lăn vì một tai nạn xe đạp 11 năm trước đây. Bác Sĩ Someville đã hiến tặng các tế bào ở bắp chân phải để các nhà khoa học cấy một phôi bào vào. Các tế bào này khi sinh trưởng vẫn còn giữ toàn vẹn nhiễm thể của ông. Nếu các tế bào này sinh trưởng, chúng có thể được thay thế cho các tế bào hư hại và bác sĩ Someville có thể đi lại được bình thường. Bác sĩ Someville sắp sữa lập gia đình một lần nữa và có hai cô con gái. Ông nói nếu thí nghiệm thành công, ông hy vọng một ngày nào đó ông có thể đi dạo bình thường với 2 cô con gái. Bác sĩ Someville là một người sùng đạo Tin Lành và là một đảng viên đảng Cộng Hòa, một đảng trên nguyên tắc kịch liệt chống đối kỹ thuật cloning, cho dù chỉ là cloning chữa bịnh. Bác sĩ Someville nói là ông không ngần ngại gì khi tham gia vào chương trình này và ông không thấy có một sự xung đột gì với niềm tin tôn giáo của mình.

So với các tôn giáo độc thần Tây Phương, Phật Giáo với lý thuyết duyên khởi là một tôn giáo không bị những tiến bộ khoa học bỏ rơi và những khám phá mới càng chứng tỏ thị kiến của đức Phật về sự sống và về vũ trụ rất gần gũi với thị kiến khoa học. Lập trường của Phật Giáo, hay ít nhất là của một số Phật Tử, về khoa di truyền học như thế nào? Sau đây là bài viết của Christina Desser.

Một học giả Phật Giáo nổi tiếng ở Mỹ nói đùa: ‘Nếu cloning được Đức Phật thế giới này sẽ bỗng chốc biến thành tịnh độ’. Đây là một lời nói đùa, nhưng không phải là không phản ảnh lý tưởng của Phật Giáo; ai cũng có thể là Phật sẽ thành và giống như nhãn quan của Bồ Tát Thường Bất Khinh, ai cũng là một bồ tát hóa thân. Tuy nhiên lời nói bông đùa đó phản ảnh một chút lạc quan ngây thơ về những tiến bộ vượt bực của khoa sinh học di truyền cũng như những ảnh hưởng không ai lường trước được về những khám phá của khoa này.

Chúng ta đang bị mê hoặc bởi những lợi ích có thực hay tưởng tượng: một thế giới không còn bịnh tật, những khám phá làm vơi khổ đau của con người, đúng như lý tưởng của đạo Phật. Thực phẩm tăng thêm nhiều chất lượng, được sản xuất dồi dào và không lo còn có ai bị đói. Y tế sẽ được cải thiện và nếu chúng ta lựa chọn những gene tốt, cũng như lựa toàn hạt lúa giống tốt, khả năng trí thức của con người sẽ tăng tiến không giới hạn. Không phải thế giới chỉ có một vài thiên tài làm đảo lộn lịch sử, hoặc chỉ có một thiên tài độc nhất kiểu Phạm Công Thiện, mà thiên tài mọc đầy rẫy như cúc vạn thọ. Những ai nghĩ mình là thiên tài sẽ lấy làm kho chịu vì trong tương lai không còn ai giữ độc quyền tri thức. Đó là chưa kể chúng ta có thể khuynh đảo các gene gây bịnh già và biến giấc mộng trường sanh bất tử của Lão Trang thành sự thật. Nghĩa là con người có khả năng chấm dứt dòng tiến hóa từ hàng triệu năm nay và kết thúc với một chủng loại siêu việt! Những mơ ước của chúng ta vô tận. Từ thập niên trước những điều mơ ước chỉ là những giấc mộng con, không ai ngờ chỉ có hơn 10 năm, những giấc mộng này bỗng chốc thành sự thật. Đó là một viễn tượng của một hình ảnh nát bàn hay thế giới tịnh độ của Phật Giáo Đại Thừa có thật ở đây, bây giờ.

Chúng ta chào mừng các tiến bộ này với cả hai tay và hy vọng như chúng ta đón mừng những phát minh khoa học khác. Tuy nhiên những áp dụng vào canh nông, y tế và sinh sản con người sẽ làm đảo lộn tất cả mọi trật tự và khoa sinh học di truyền sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi khía cạnh của đời sống. Trong thời gian qua, việc cấy gene vào các chủng loại khác (transgenic) đã được áp dụng để biến đổi bắp, lúa mì, gạo và các mùa màng khác; việc chế tạo các vũ khí sinh học di truyền được tiến hành một cách thầm lặng nên không ai chú ý; chế biến năng lượng; sản xuất các dược liệu và các phương pháp điều trị y khoa. Khi phối hợp với kỹ thuật tái tạo (productive cloning) chúng ta có thể thay đổi các nhiễm thể di truyền của thế giới hữu tình. Mặc dù khoa sinh học di truyền bắt đầu viết lại pho lịch sử tiến hóa của nhân loại, phần lớn chúng ta cũng còn lờ mờ về các áp dụng này. Trong khi Phật Giáo Tây Phương còn chăm chú vào những vấn đề như phá thai, các liên hệ sinh lý thái quá, các bạo hành cơ thể, chủng tộc và phái tính, khoa sinh học di truyền trẻ trung đã có những tiến bộ nhanh chóng về canh nông và y tế và hậu quả của các áp dụng này chưa được giới Phật Tử để ý tới một cách đúng mức.

Quan điểm Phật Giáo về các vấn đề này ra sao? Khoa học di truyền có phải một đáp ứng nhân đạo cho những đau khổ của con người? Hay đó chỉ là một hình thái vô minh nguy hiểm phát sinh từ tham, sân và si để kích thích hành động con người?

 

Các cơ quan nghiên cứu không lồ trên mặt trận canh nông như Monsanto, Novarris, DuPont và các nhà khoa học đang biến đổi gene của hạt giống- cổ vỏ cho khoa di truyền, dựa trên những lý do nhân đạo. Các người này nói là khoa di truyền cần thiết vì nông phẩm sẽ được sản xuất dồi dào hơn và không còn ai bị đói ăn nữa. Khoa di truyền sẽ giúp làm giảm lượng thuốc xịt sâu rầy. Khoa di truyền giúp việc bào chế các dược phẩm mới cũng như các thuốc chủng ngừa cho dân nghèo. Tuy nhiên những hành động của họ của các công ty này chứng tỏ những lời tuyên bố đầy nhân đạo này không đúng sự thật. Việc cung cấp thức ăn cho người nghèo không thể nào đủ lời để cho các công ty lớn này theo đuổi công trình nghiên cứu về di truyền học. Hiện chỉ mới có một loại nông phẫm được chế biến để làm tăng dinh dưỡng có tên là Gạo Vàng (Golden Rice) do các nhà khoa học được tài trợ duy nhất bởi công ty này. Cho tới ngày hôm nay có người nghi ngờ về hiệu năng của vụ mùa có gene bị chế biến này.

Ngoài các vụ biến đổi gene của các nông phẩm, có những thú vật được chuyển gene (transgenic) như dê, bò, chuột và heo. Cớ quan kiểm soát thực phẩm và dược phẩm của Mỹ sắp sửa chấp thuận cho phép chương trình nuôi cá hồi (salmon) có gene được biến đổi để cá có khả năng lớn thật nhanh và do đó các công ty nuôi cá sản xuất được nhiều, và dĩ nhiên là có lời nhiều. Ở Trung Quốc một loại cá chép được đổi gene có lẽ đã được tung ra thị trường. Các nhà khoa học chuẩn bị thả vào thiên nhiên một loại bọ đã bị đổi gene. Loại bọ này khi làm tình với các con bọ cái khác sẽ sinh ra một loại trứng bị hư và do đó sẽ làm tiêu diệt các loại bọ trước đây đã tàn phá mùa mang bông vải. Tuy nhiên điều nguy hiểm là những con bọ đổi gene không thể nào thu hồi lại được. Trong khi những loại thảo mộc, bọ và cá có gene bị biến đổi sẽ thay đổi quá trình tiến hoá của môi sinh thiên nhiên, những con người được tạo sinh (cloned) và có gene biến đổi sẽ vĩnh viễn làm thay đổi quá trình tiến hóa của con người. Những điều mà mới đâychúng ta nghĩ chỉ là khoa học giả tưởng, bây giờ đã thành sự thực. Hơn 50 năm trước Hitler mơ ước tạo được một chủng loại Aryan toàn hảo và giấc mơ đó chỉ được điện ảnh hoá qua phim The Boys From Brazil do Gregory Peck đóng vai chánh, bây giờ có thể thực hiện một cách dễ dàng, nếu luật pháp cho phép! Trên thực tế giáo phái Raelians hy vọng có thể tạo sinh (cloning) một đứa con đã chết của hai tín đồ trong một phòng thí nghiệm bí mật. Một thí nghiệm tạo sinh khác do Tiến Sĩ Panayiotis Zaros của viện nghiên cứu Mỹ Andrology và Trung Tâm Kentucky Centre for Reproductive Medicine đã thực hiện. Tiến sĩ Zaros đã có những nổ lực tạo sinh người cho các cặp vợ chồng không có con cái. Nhà khoa học này hy vọng rằng việc tạo sinh người sẽ thành công trong vòng một năm.

Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử. Hoặc là họ không có con nối dõi.

Trên quan điểm đạo đức Phật Giáo, việc tạo sinh nẩy ra nhiều vấn đề rắc rối. Có phải chăng ý muốn cho người thân sống lại là một hình thái bám chặt vào cái thân như điện ảnhĐức Phật đã cảnh cáo? Có phải chăng việc tạo sinh chính mình là một hình thức chấp ngã đi ngược lại với nguyên tắc vô thường trong tất cả kinh điển Phật Giáo? Những cặp vợ chồng không có con cái muốn có người nối dõi qua hình thức tạo sinh cũng là một hình thức chấp ngã và kéo dài các vòng luân hồi vô tận!

Những cặp vợ chồng có khả năng có con cái muốn có con theo ý mình (design baby) sau khi đã gạn lọc những gene hạ đẳng và cấy vào những gene tốt và do đó sẽ tạo ra một chủng tộc thượng đẳng mà Hitler ngày xưa đã mong muốn? Những người chống đối việc chuyển gene để tạo ra design babies nói là trong tương lai gần, sẽ có hai ‘giống’ người khác nhau. Một giống tự nhiên ‘trời sinh sao thì cứ để vậy’ và một ‘giống’ người đã được chuyển gene thượng đẵng. Nhà sinh vật tế bào Lee Silver cho rằng nếu cloning và kỹ thuật chuyển gene được luật pháp bật đèn xanh, xã hội Mỹ trong tương lai sẽ có hai ‘giống’ người. Giống người được chuyển gene chiếm 10% trong xã hội Mỹ và họ sẽ nắm tất cả các địa vị đần não trong các lĩnh vực truyền thông, kinh tế và kiến thức (đại học), trong khi 90% còn lại sẽ làm những nghề hạ tiện. Tới một lúc nào đó hai giống người này không còn liên hệ với nhau nữa và những cuộc hôn nhân ‘dị giống’ sẽ không bao giờ xảy ra nữa, tương tự như tình trạng giữa người và vượn, hai bên sẽ không thể nào có những liên hệ sinh lý nữa. Lục đạo của Phật Giáo đã trở thành ‘thất đạo’, bảy nẽo luân hồi! Và tình trạng này cũng không khác gì xã hội đẳng cấp của Ấn Độ là bao. Thay vì dùng thần quyền để biện minh cho đẵng cấp như các giáo sĩ bà la môn, giống người thượng đẳng sẽ dùng gene toàn bích để biện minh tại sao họ là những người sinh ra để lãnh đạo, ăn trên ngồi trước. Khoa học giả tưởng? Viễn tượng một xã hội có hai ‘giống’ người khác biệt, một có gene toàn bích, một giống người tự nhiên, gần hơn mọi người nghĩ nhiều!

Tất cả những thí nghiệm tạo sinh (cloning) thường được thi hành bí mật trong các phòng thí nghiệm và hiện nay không ai biết là khả năng tạo sinh của các nhà khoa học đến mức nào rồi. Sẽ có những hậu quả không thể nào lường được cho con ngườicác chủng loại khác. Những công ty lớn đang nghiên cứu việc biến đổi gene không thèm để ý đến những hậu quả dến môi sinh của chúng ta. Trên thực tế không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra khi việc chuyển đổihỗn hợp các gene giữa những chủng loại khác nhau được thực hiện. Về sự chuyển gene giữa các cây cỏ khác nhau, Steve Jones, giáo sư khoa di truyềnđại học Luân Đôn tin rằng sự ô nhiễm gene sẽ không thể nào tránh được. Các gene đã được chuyển dổi trong thực vật sẽ lẫn lộn với các gene khác và có thể gây ra những hậu quả cực kỳ nguy hại. Nếu như côn trùng có gene làm tuyệt giống tràn lan, thình lình tất cả các côn trùng đều biến mất. Không có côn trùng thì môi sinh không thể tồn tại, không có thụ phấn, không kết hoa hay quả. Nếu môi sinh trong tình trạng mất thăng bằng thì thế giớinhân loại sống còn nữa không? Cái này có thì cái kia có. Các này không còn thì cái kia không còn, Chưa bao giờ thuyết duyên khởi của Phật Giáo trở nên minh bạchdễ hiểu như thế!

Khi nghiên cứu về những vấn đề này Phật Tử sẽ suy nghĩ như thế nào? Michel Houellebecq tác giả quyển tiểu thuyết giả tưởng Elementary Particles (Vi Trần?) cho rằng Phật Giáo có thể đồng ý với cloning, hay ít ra là cũng không phản đối. Một trong những nhân vật trong truyện phát biểu:

Rồi đây con người như chúng ta biết hiện nay sẽ biến mất, nhường chỗ cho một chủng loại mới trung lập về phái tính, không đàn ông mà cũng không phải là đàn bà, vượt lên trên cá nhân, phân biệt cá thể và tiến hoá. Không cần nói là những tôn giáo chủ trương mặc khải phản đối quyết liệt những kỹ thuật này. Chỉ có Phật Giáo là tuy có im lặngnghi ngờ, tuy nhiên tất cả những lời dạy của Đức Phật đều dựa trên trên đệ nhất đế, Khổ đế, và phần lớn đề cập đến sinh lão bịnh tử, và nếu Đức Phật quán niệm về những vấn đề này, Ngài không nhất thiết phản bác kỹ thuật cloning.

 

Tôi (tác giả) nghĩ là quan điểm của Houllebecq không đại diện cho chánh kiến, tuy nhiên có dịp nào những tu sĩhọc giả Phật Giáo có dịp thảo luận về vấn đề này, có nhiều ý kiến thích thú mới sẽ nẩy sinh và có để đưa chúng ta sang một bước ngoặc bất ngờ. Trong một thế giới mà con người có khả năng (hay nghĩ mình có khả năng) kiểm soát quá trình tiến hoá của chính chủng loại của mình và môi sinh quanh mình, quan niệm về nghiệp của Phật Giáo có thay đổi không? Chúng ta có quyền gì thay đổi quá trình tiến hoá của các thế hệ tương lai? Kỹ thuật tạo sinh -sinh sản mà không cần có liên hệ sinh lý - có giúp chúng ta tránh khỏi bị ràng buộc những ham muốn về sinh lý? Kỹ thuật tạo sinh có củng cố quan niệm chấp ngã và ái ngã nhiều hơn hay là phân hóa ngã của chúng ta thành những cái ngã con con (mini-me’s) và làm cho chúng ta mau giải thoát hơn? Hay là những kỹ thuật tân tiến này khiến chúng ta càng ôm chặt cái ngã ‘duy ngã độc tôn vô thượng’ của mình và muốn kéo dài tuổi già đau khổ của mình mà Đức Phật đã tiên kiến? Quá trình thành trụ hoại diệt có còn đúng không và duyên khởi sẽ đóng vai trò nào?

Kỹ thuật thay đổi, biến hoá và đùa bỡn với đời sống hiện nay trong khoa học di truyền là những khám pháý nghĩa trọng đại trong lịch sử nhân loại, cũng giống như lúc con người khám phá ra lửa và tách nhỏ các hạt nhân nguyên tử. Phải có một nền đạo đức mới để hướng dẫn những quyết định về chánh trị và kinh tế để cùng đi tới với khoa học tạo sinh, bởi vì chúng ta không thể ngăn cản những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật và thái độ cấm đoán của Vatican chỉ phản ảnh cho một thái độ tiêu cựcvô bổ. Nghiên cứu những vấn đề này có thể làm sáng tỏ hơn về vai trò của đạo đức Phật Giáo cũng như có thể góp phần một phần nào vào việc thiết lập những nguyên tắc đạo đức mới cho toàn thể nhân loại. Nếu Phật Tử, nhất là những người xuất gia, chỉ loay hoay với những mối lo âu hình thức lặt vặt như tạo phước điền, tụng kinh Pháp Hoa mấy thời, niệm Phật giải thoát, chỉ tự biến mình thành những ông thấy cúng, thầy tụng, hoàn toàn biệt lập với đời sống và biến đạo Phật thành những giáo phái kiểu vô thượng sư chuyên đi lừa bịp các tín dồ nhẹ dạ. Có thể trích ra một thiền ngữ thích hợp cho hình thức tu này là, mài ngói nghìn kiếp, ngói vẫn còn là ngói, chẳng bao giờ ngói trở thành gương.

Quán Như
(viết theo Christina Desser, Tricycle số Kỷ Niệm Mười Năm, Mùa Thu 2001.)
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 92)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 133)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 125)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 212)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 168)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 267)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 216)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 283)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 553)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 467)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 431)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 444)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 392)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 353)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 448)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 662)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 480)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 465)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 623)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 719)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 556)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 634)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 808)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 794)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 840)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 694)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1024)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 842)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 803)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 781)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 893)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 799)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1232)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 836)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 859)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 956)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1130)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 962)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 857)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 930)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 899)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 997)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1143)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1228)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 898)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1000)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1099)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1362)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1064)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1154)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1368)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1220)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1199)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1378)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1521)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1847)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1661)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1564)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM