Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn dấu ấn của Phật Pháp

29 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12195)
Bốn dấu ấn của Phật Pháp

BỐN DẤU ẤN CỦA PHẬT PHÁP 
Trích trong quyển sách: CHUYỂN HÓA TÂM (Phát khởi Tâm Từ Bi) 

Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 
Nguyên tác: TRANSFORMING THE MIND (Teachings on Generating Compassion) 
Anh ngữ: Geshe Thupten Jinpa - Dịch sang Việt ngữ: Chân Huyền 

...Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người. Muốn trả lời câu hỏi vì sao thế? Có lẽ ta chỉ cần nói "Nó vậy đó!" 

chúng ta ai nấy đều có ước nguyện tự nhiên đó, dù chúng ta đều tìm cầu hạnh phúc, nhưng cũng thật sự tự nhiên, chúng ta ai cũng phải gặp đi gặp lại những cảnh đau khổ đủ mọi loại. Vì sao như thế? Vì sao khi thật lòng mong được sung sướng, chúng ta lại cứ bị phiền não

Theo quan điểm của Phật giáo, nguyên nhân chỉ vì chúng ta có một số quan niệm căn bản sai lầm về cách nhận thức sự việc liên quan tới chúng tathế giới bên ngoài. Nhìn tận gốc, đạo Phật cho là ta có bốn loại nhận thức sai lạc hay là bốn tà kiến

Trước hết, chúng ta nhìn mọi sự vật là vĩnh cửu, thường hằng bất biến, trong khi thực sự chúng thay đổi liên tục và chỉ tồn tại một thời gian. Tà kiến thứ hai: chúng ta coi mọi sự kiện - sự thật là nguồn gốc của khổ não - như những nguyên nhân mang lại hoan lạc, hạnh phúc

Thứ ba: chúng ta coi những thứ bất tịnh như các thứ thanh sạch, đáng ao ước. Thứ tư: chúng ta có khuynh hướng coi mọi thứ đều hiện hữu trong khi thật sự không có sự vật nào có tánh cách riêng của nó. 

Những tà kiến căn bản trên khiến ta nhìn mình và thế giới liên hệ tới mình một cách sai lạc, đưa ta tới những rối ren đau khổ. Trên động cơ căn bản này, đạo Phật đưa ra bốn thứ dấu ấn (Tứ pháp ấn) như những tiền đề, nguyên tắc chính trong tất cả các tông phái Phật giáo. Ðó là: 

- Mọi sự vật (pháp) do nhân duyên tạo thành đều thay đổi luôn luôn (Vô thường). 
- Những gì bất tịnh đều "bất thỏa đắc" (Khổ). 
- Không có sự việc nào có tánh cách riêng biệt (Không). 
- Niết bàn là nơi thật sự có an lạc (Niết bàn tịch tĩnh). 

1.- Vạn pháp đều vô thường: Ðây là pháp ấn thứ nhất, căn bản của đạo Phật: mọi sự đều vô thường thay đổi hoài hoài. Mọi sự hay vạn pháp đây là tất cả những gì do nhân duyên mà được tạo nên, chúng luôn luôn thay đổi như chất lỏng tuôn chảy thành dòng liên tục

Trong cái nhìn phiến diện sơ qua về vô thường, chúng ta đều nhận thấy được mọi sự vật thay đổi và chấm dứt ra sao? Nhưng Phật pháp đi xa hơn, cho rằng dưới tầng lớp của những thay đổi ta nhìn thấy, còn có một tầng lớp thay đổi thâm sâu vi tế hơn không lộ ra ngoài. 

Nếu chúng ta nhận diện được những thay đổi trong một quảng thời gian dài, thì ta cũng có thể tìm hiểu tới những thay đổi trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất mà ta có thể tưởng tượng ra. Dù chỉ trong một phút giây, diễn biến đổi thay vẫn luôn luôn hiện diện

Mọi sự vật đều có chút gì thay đổi dù chỉ nhìn từ trong một đơn vị thời gian cực ngắn (sát na). Do đó chúng ta có thể lý luận rằng vạn pháp do nhân duyên tạo thành đều có bản chất vô thường. Nghĩa là mọi sự vật đều phù du chóng tàn. 

Khi bạn hiểu được quan điểm căn bản này thì bạn sẽ nhìn thấy hạnh phúc mà ta ao ước cũng như đau khổ ta muốn tránh, đều cũng là những chuyện do nhân duyên đưa đẩy. Chúng không từ đâu tới, chỉ do các nhân duyên khởi lên. 

Dù cho bạn phải kinh qua một chuyện đau khổ, lớn lao tới đâu chăng nữa, nó cũng là do các nhân duyên - và như vậy, nó sẽ qua đi. Hạnh phúc hay đau khổ đều có tính chất đổi thay luôn luôn. Hạnh phúcđau khổ bình đẳng với nhau vì có cùng bản chất vô thường

2.- Mọi sự bất tịnh đều bất thỏa: Pháp ấn thứ hai đề cập tới sự khác biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, cho rằng bản chất của những hiện tượng bất tịnh là gây ra sự không hài lòng (bất thỏa hay bất thỏa đắc). Ðiều này có thể hiểu ngầm là những gì không do các nhân duyên bất tịnh thì có thể mang lại sự hài lòng, thỏa mãn

Khi nói về những gì bất tịnh ở đây, ta muốn nêu lên những sự cố khởi lên do những nhân duyên bất thiện, những cảm nghĩ tiêu cực, phiền não. Nó bị gọi là bất tịnh vì bị nhuốm những chất ô nhiễm của tâm. Do đó, căn bản của chúng là không đem lại sự thỏa lòng, bản chất của chúng là khổ đau (Duhkha). 

Dấu ấn thứ hai không chỉ nói tới những cảm giác mà ai cũng công nhậnđau đớn hay phiền não. Dĩ nhiên, chúng ta đều ao ước muốn thoát khổ, nhưng tùy vào sự tỉnh thức của mỗi người, chúng ta hiểu về cái khổ một cách khác nhau. 

Ðạo Phật nói tới loại khổ trong pháp ấn thứ hai này, là có ý đề cập tới những loại khổ ở tầng lớp rất vi tế. Những ai đã hiểu Phật pháp đều biết trong đạo Phậtba loại khổ: Khổ khổ, Hoại khổHành khổ. Chúng ta đề cập tới loại khổ cuối này ở trong pháp ấn thứ hai. 

Như tôi đã trình bày, pháp ấn thứ hai có ngụ ý, nếu chúng ta không bị ô nhiễm trong tâm thì chúng ta sẽ có hạnh phúc lâu dài và nguyên sơ mà ta hằng ao ước. Câu hỏi là vì sao các vọng tâm ô nhiễm đưa chúng ta vào những kinh nghiệm khổ đau? Và chúng ta có thể nào vượt thắng được các loại cảm nghĩ tiêu cực bất thiện đó chăng? 

Những thứ tâm ô nhiễm hay các cảm nghĩ tiêu cực bao gồm tất cả các loại suy tư, cảm xúcbản chất phiền não. Từ ngữ Tây Tạng Nyon-mong có nghĩa là những gì làm cho ta đau khổ từ bên trong chúng ta, chúng gây ra phiền nãođau khổ

Tôi muốn nói tới gốc rễ của tất cả nỗi khổ đau nơi chúng ta, ở tầng lớp vi tế, đó chính là các năng lượng bất thiện của những cảm nghĩ tiêu cực nằm sâu trong tâm ta. 

Ðiều này có nghĩa là những gốc rễ của khổ đau có sẵn ở bên trong chúng ta, các gốc rễ hạnh phúc cũng vậy. Do đó, ta biết rằng tùy theo tâm mình có kỷ luật nhiều hay ít, ta sẽ có được hạnh phúc hay đau khổ. Tâm có kỷ luật, tâm được chuyển hóa thì đưa tới an vui - trong khi tâm vô kỷ luật, bị các phiền não dẫn dắt, đưa ta tới khổ não

Bây giờ chúng ta có thể phối hợp những quán tưởng của ta về hai dấu ấn đầu tiên. Thứ nhất, mọi sự đều vô thường: ta hiểu mọi sự vật đều do nhân duyên hiện khởi, không chỉ tùy thuộc vào các thứ khác để sinh tồn, mà chính tự nó cũng luôn luôn chịu theo quy luật biến chuyển, không thể tự đứng vững. Hơn nữa, sự biến chuyển không đòi hỏi một phân tố thứ ba nào làm động cơ. Chính những nhân duyên tạo ra sự vật đó cũng là những nhân duyên làm cho nó ngừng lại. 

Nếu chúng ta phối hợp "cái thấy" này với cái thấy trong pháp ấn thứ hai, ta sẽ hiểu rằng tất cả những gì hiện khởi do kết quả của các nhân duyên bất tịnh - là những vọng tâm ô nhiễm - thì chúng đều có căn bản không mang tới hạnh phúc, vì chúng bị các tâm không trong sạch chỉ đạo

Suy nghĩ như thế, ta sẽ nhận biết được rằng, chúng ta đã để cho mình bị các cảm nghĩ bất thiện kiểm soát, và hơn nữa, ta đã để cho các cảm nghĩ đó bị những năng lực tiêu cực trong tâm kềm chế. Ta cũng sẽ bắt đầu hiểu được rằng, nếu ta cứ tiếp tục để tình trạng như thế, nó sẽ dẫn ta tới khổ đau. Theo đó, các cảm nghĩ bất thiện trong ta thật sự là những năng lượngtính cách phá hoại

Những gì làm hại ta hay mang lại tai ương đều được gọi là kẻ thù. Kẻ thù đích thực của ta thật ra nằm trong chính ta! Vậy mới là khó khăn. Nếu kẻ thù ở bên ngoài, ta có thể chạy trốn hay ẩn náo. Ðôi khi ta có thể đánh lừa hắn nữa. Nhưng kẻ thù ngay trong ta, thật khó mà biết phải làm sao. 

Câu hỏi nồng cốt cho người tu tập theo con đường tâm linh là ta có thể thắng được kẻ nội thù đó chăng? Ðây là sự thử thách quan trọng nhất của chúng ta

Có vài triết gia thời cổ cho rằng, tánh ô nhiễm là một bản thể của Thức, không thể tách rời nó ra được, nếu thức còn thì những bất tịnh còn hiện diện. Nói như thế ngụ ý là ta không thể thắng được nó. 

Nếu thật sự như vậy, tôi thà làm một người theo chủ nghĩa hưởng lạc. Tôi chẳng cần cố gắng tu tập làm gì, sẽ đi tìm khuây khỏa trong rượu hay trong các thứ khác, bỏ qua luôn các ý tưởng về tu luyện tâm linh. Và tôi cũng chẳng cần để ý tới những thắc mắc triết học đó. Có lẽ, đó là cách tốt nhất để có hạnh phúc chăng? 

Nếu các bạn so sánh con người với con vật, bạn sẽ thấy đôi khi loài người chúng ta bị kẹt vào những tưởng tượng, suy tư nên chúng ta tự tạo ra những rối ren phiền phức, trong khi lũ vật không có những sinh hoạt tinh thần thì chúng lại hài lòng, bình thản và thoải mái. Chúng ăn khi được nuôi và ngủ khi nghỉ ngơi. Trong một khía cạnh nào đó, loài vật tỏ ra hài lòng hơn chúng ta nhiều. Vấn đề này đưa ta tới pháp ấn thứ ba. 

3.- Mọi sự vật đều không có tự tánh: Pháp ấn thứ ba: mọi pháp đều trống rỗng không có tự tánh. Ta không nên hiểu dấu ấn này là chủ thuyết hư vô. Bạn không nên nghĩ rằng đạo Phật dạy những điều nếu đem phân tích tới cùng thì mọi sự đều không hiện hữu. Không phải vậy. 

Khi nói về an lạc, phiền não, về các phương pháp tốt nhất để thêm vui bớt khổ, chắc chắn chúng tôi không bao giờ cho là mọi sự đều không hiện hữu. Pháp ấn thứ ba có nghĩa là có một sự khác biệt căn bản giữa nhận thức của ta về mọi sự vật so với bản chất thực của chúng. Mọi chuyện không hiện hữu như chúng ta tưởng về nó - không hiện hữu độc lậprõ ràng như ta nghĩ. 

Ðể có thể xét coi những cảm nghĩ tiêu cực như giận, ghét v.v... có thật sự nằm trong bản chất của tâm ta không, chúng ta phải quán sát chính mình và những kinh nghiệm mình đã trải qua

Sự giận ghét có hiện diện thường xuyên trong tâm ta không? Ðôi khi ta giận, có lúc ta ghét, rồi các cảm nghĩ này cũng biến đi. Không phải có tâm thức là có các cảm xúc bất thiện này. Có khi giận ghét khởi lên, nhưng cũng có lúc các đối lực của nó: lòng từ bi, thương yêu cũng khởi lên. 

Ðạo Phật cho rằng tâm thức căn bản của chúng ta như bị các đám mây bao phủ, khi các cảm nghỉ khởi lên. Chúng tôi cũng cho rằng hai cảm xúc trái ngược như yêu và ghét không thể cùng một lúc hiện diện trong tâm của một con người. Những cảm nghĩ khác nhau hiện ra trong tâm ta tùy lúc, do đó không thể có chuyện các cảm xúc tiêu cực lúc nào cũng hiện diện, bám chặt vào bản tâm chân thật của mình. 

Vì vậy, ta ví các cảm nghĩ thiện hay bất thiện chỉ như những đám mây che khuất tâm chân thật: bản tâm chúng ta thanh tịnh, trung tính; có thể bị các vọng tâm thiện hay bất thiện ảnh hưởng. Vậy thời chúng ta có hy vọng

Trong căn bản lý luận này, vấn đề quan trọng là ta có thể nào loại bỏ được những cảm nghĩ bất thiện đó hay không? 

Trên kia, chúng ta đã thấy rằng mọi sự vật đều thay đổi trong vô thường - có nghĩa là chúng ta có thể vượt thắng được những cảm xúcý nghĩ bất thiện. Trong bình diện phổ quát và căn bản hơn, chúng ta muốn biết những ô nhiễm trong tâm thức có thể hoàn toàn bị loại trừ hay chăng? Tất cả các trường phái Phật giáo đều cho là có thể. Trong nhiều kinh luận của đạo Phật, chúng ta thấy có rất nhiều bài giảng cặn kẽ về bản chất của các loại tâm bất thiện, về tiềm năng phá hoại và các nhân duyên tạo ra chúng v.v... Căn bản của những bài giảng này là tìm cách diệt tận gốc rễ các năng lực tiêu cực đó. 

Dĩ nhiên chúng ta có thể nói chuyện Phật pháp trong bối cảnh giới luật như: không được giết hại, nói dối v.v... hoặc phải làm những điều lành. Nhưng các giới luật này chỉ có ý nghĩa đại cương vì các hướng dẫn đạo lý như vậy không phải là những gì đặc biệt chỉ đạo Phật mới có. 

"Khả năng có thể làm bặt hết các năng lực bất thiện trong ta mới là sự hành trì đặc sắc của đạo Phật. Ðó là Niết bàn tịch tĩnh, là sự giải thoát toàn diện, sự ngừng bặt của tất cả những phiền não trong tâm. Ta có thể nói Niết bàný niệm căn bản của Phật pháp". 

Ðối với một Phật tử, tất cả những phép tu tập phải được hiểu là để đạt tới tinh thần tự do tuyệt đối, không còn bị tâm ô nhiễm làm vướng bận. Ðiều này cũng áp dụng vào Giới, vì giữ giới nghiêm mật cũng là để tiến tới mục tiêu giải thoát

Mục tiêu tối hậu của người Phật tử là nhổ tận gốc những cảm nghĩ bất thiện trong tâm, nguồn gốc của những hành động xấu ác. Sự cố gắng của người Phật tử thể hiện qua tác phong đạo đức trong lối sống của họ, chứng tỏ họ có thật sự muốn chuyển đổi những gốc rễ tiêu cực đó hay không? Những nỗ lực đầu tiên của các nỗ lực đó là các hành động (thân nghiệp) và lời nói (khẩu nghiệp) của họ. 

Khi phân tích tánh chất của các cảm xúcý nghĩ tiêu cực, ta nhận ra nền tảng phía dưới của chúng luôn luôn là những vọng tâm - những tưởng tượng do tâm phóng chiếu ra dù có đối tượng hay không. 

Chẳng hạn khi có một vật ta cho là hấp dẫn, ta sẽ cảm nhận những điểm đáng yêu của nó, và qua trí tưởng tượng, làm cho vật đó trở nên hấp dẫn nhiều hơn. Ta sẽ có khuynh hướng dễ dãi với nó, muốn gần cận rồi trở nên ngày càng vướng mắc vào đối tượng ấy. 

Tương tự như vậy, khi ta gặp phải những việc ta không ưa, ta thường phủ lên nó các tính cách không giống với bản chất của nó. Ðây là các phản ứng ta thường có đối với mọi sự vật: hoặc ta bị lôi cuốn, hoặc muốn lánh xa

Hai khuynh hướng này khiến chúng ta có những phản ứng tâm lý đối với mọi sự vật. Ðộng cơ nằm dưới những phản ứng này của ta là sự dính mắc quá nhiều vào đối tượng. Dính mắc có thể là sự ham muốn hoặc chối bỏ. Do đó ta bị khổ đau. 

Trong các tông phái Phật giáo, người ta có những hiểu biết khác nhau về bản chất của khổ, nguyên nhân tạo ra khổ, tùy vào quan niệm của tông phái đó đối với bản chất thực tại. Có lẽ Pháp Tướng tông (Duy Thức hay Duy Biểu), có cái hiểu sâu xa hơn về khổ. 

Ðại sư Long Thọ (Nagarjuna) nói rằng Niết bàn phải được hiểu là sự tự do thoát khỏi các khổ thọ trong tâm và các hành nghiệp do khổ tạo ra. Ta đau khổ vì những hành động gây nghiệp chướng, và những nghiệp dĩ này là do các cảm nghĩ bất thiện trong ta thúc đẩy

Những cảm xúctư tưởng bất thiện tự chúng đều là sản phẩm của các phóng chiếu và tưởng tượng, có gốc rễ từ các nhận thức sai lầm về thực tại. Nhận thức sai lầm đây chính là quan niệm cho rằng mọi sự vật đều có thật, hiện hữu độc lập và có tự tánh riêng. 

Theo ngài Long Thọ, hiểu biết về Không (Emptiness) thật sự giúp ta loại bỏ được vô minh căn bản, quan niệm sai lầm của ta về thế giới. Ðiều này liên quan trực tiếp tới pháp ấn thứ ba: mọi vật đều trống rỗng và không tự mình tồn tại được. 

Pháp ấn này cho ta biết, dù bình thường ta tin rằng mọi sự vật đều có thật và thường hằng, có thể hiện hữu độc lập, nhưng thực sự chúng không có các đặc tính như vậy. Quan niệm cho rằng mọi sự vật đều hiện hữutồn tại một cách độc lập là một nhận thức sai lạc

Chỉ có sự giác ngộ về tánh Không mới giúp ta loại bỏ được sự sai lầm này. Tuệ giác về Không giúp ta có thể loại bỏ được những cảm nghĩ tiêu cực, vốn có gốc rễ từ những nhận thức sai lạc đó. 

Hơn nữa, ta cũng sẽ hiểu ra là giữa các cảm nghĩ bất thiệntuệ giác về Không, có sự đối nghịch trực tiếp với nhau. Tuệ giác bắt nguồn và được hỗ trợ từ những kinh nghiệm và lý giải vững chắcgiá trị, trong khi cảm nghĩ tiêu cực thì không. Nhìn vào toàn thể các chuyện đã nêu trên, ta sẽ thấy rằng nếu ta có tuệ giác về tánh Không, ta sẽ loại trừ được các đau khổ trong tâm thần

4.- Niết Bànan bình thật sự: Pháp ấn thứ tư xác định rằng bản chất của tâm là thanh tịnh, sáng láng. Những ý niệm sai lầm, những cảm nghĩ tiêu cực không có sẵn trong bản chất của tâm. Biết rằng các phiền não khổ đau có gốc rễ từ những nhận thức sai lầm, ta biết có một thứ đối trị được chúng: đó là tuệ giác về tính rỗng không của mọi sự vật, hay nhận thức đúng về thực tại

Do đó, tánh trống rỗng nghĩa là không có sự hiện hữu tự tại, đôi khi được gọi là "Niết Bàn tự nhiên". Vì bản chất của các hiện tượng là trống rỗng nên Niết Bàn - tức là thực sự thoát khỏi đau khổ - là điều ta có thể đạt tới. 

Ðiều này giải thíchsao kinh điển Phật giáo nói tới bốn loại Niết Bàn: Tự tánh Niết bàn, nói về tánh trống rỗng; Hữu dư Niết bàn, kể tới sự tiếp tục hiện hữu vật chất của cá nhân; Vô dư Niết bàn và sau cùng là Vô trụ xứ Niết bàn. Vì có Tự tánh Niết bàn nên mới có ba loại sau. 

Ý nghĩa chính xác của Vô dư Niết bànHữu dư Niết bàn được giải thích khác nhau trong các tông phái Phật giáo. Một số trường phái định nghĩa Hữu dư gồm các uẩn tạo thành cá nhân, một số khác lại hiểu Hữu dư chỉ là những nhận thức nhị nguyên còn sót lại. Cái Dư của ngũ uẩn chỉ các thành phần vật chất ta có, do kết quả của các nghiệp trong quá khứ. Tuy nhiên chúng ta không cần đi sâu vào chuyện này. 

Ðiều căn bảntừ pháp ấn thứ ba, chúng ta hiểu được rằng bản chất của mọi sự vật chúng không thể hiện hữu độc lập. Trong khi đó ta thường có quan niệm sai lầm là chúng có tự tánh riêng biệt. 

Nhận thức vô minh này là gốc rễ của bao nhiêu rối renphiền não trong ta. Tuệ giác về tánh Không của vạn pháp cho ta lực đối trị với các nhận thức sai lầm, do đó thoát được khổ đau. Niết bànhoàn toàn rũ bỏ được các cảm nghĩ tiêu cực và các nhận thức sai lạc ấy. 

Niết bàn là sự tự do, không còn khổ, cũng không còn các nguyên nhân gây khổ. Hiểu Niết bàn như vậy, ta bắt đầu hiểu được hạnh phúc chân thật nghĩa là gì. Ta có thể nhìn ra được khả năng được tự do hoàn toàn, không còn khổ đau. 

Vậy chúng ta có thể kết luận như sau: Tuệ giác về tánh trống rỗng (tánh Không) có khả năng giúp ta loại trừ hết những cảm xúctư tưởng bất thiện, cũng như các nhận thức sai lầm, nền tảng của chúng. Trong tuệ giác về Không, mọi chất ô nhiễm đó bị quét sạch và được tịnh hóa. Vậy thì, điểm chính yếu là người Phật tử phải hiểu về Niết bàn, căn cứ trên tuệ giác về Tánh Không.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 129)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 190)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 280)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 192)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 231)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 257)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 288)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 366)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 600)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 459)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 477)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 568)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 820)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 851)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 836)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 708)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 711)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 832)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 935)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 607)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 822)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 706)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 812)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 844)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 817)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 862)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 950)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1649)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1064)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1209)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1275)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1543)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2023)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1516)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1274)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant