Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A. Tư tưởng của kinh A Di Đà

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 15028)
A. Tư tưởng của kinh A Di Đà
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


I. ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI là một Đức Phật lịch sử

Sử có nghĩa là sự biên chép, ghi lại những việc đã xảy ra trong một thời đại. Đây gọi là lịch sử hay quốc sử. Lịch sử nghĩa là trải qua một thời gian có một nhân vật như thế ra đời và nếu là Vua thì vị đó trị vì trong khoảng thời gian nào đó; nên gọi là sử nhà Nguyên, sử nhà Minh v.v... Lịch sử đa phần là những chuyện có thật và những việc xảy ra từng ngày, từng giờ, năm, tháng do các vị sử gia biên lại theo từng triều đại như thế.

Tuy vậy sử cũng có nhiều loại như: Huyền sử, giả sử, chánh sử, ngụy sử và lịch sử.

Huyền sử là những bài viết thêu dệt về một thời cổ đại xa xưa, nhằm tôn vinh Ông bà, Tổ tiên của một dân tộc. Huyền nghĩa là đen. Điều ấy có nghĩa là việc ghi chép vẫn còn mù mờ, chưa rõ ràng; nhưng đời xưa không có chữ viết; nên người đời nay muốn viết lại sử đời xưa cũng phải dựa theo những mẩu chuyện thần thoại được kể đi kể lại nhiều lần và ở một lúc nào đó đã trở thành huyền sử.

Giả sử nghĩa là các sử gia biên chép lại những việc không có thật; chỉ là những câu chuyện cổ tích có tính cách hoang đường; nhưng dân tộc ấy có thể chấp nhận được và người ta nghe đi nghe lại nhiều lần, cảm thấy quen thuộc; nên đôi khi giả sử cũng có thể biến thành chánh sử hay lịch sử cũng là chuyện đã xảy ra trong lịch sử thế giới nhiều lần.

Chánh sử là những gì mà sử gia ghi lại những việc đúng đắn của một triều đại; có ngày tháng và dữ kiện v.v… nhưng chính sử nầy cũng chỉ có thể đúng với triều đại đó, chứ không hoàn toàn đúng với những triều đại trước hoặc sau đó. Nếu những sử gia đương thời, viết sai những gì chế độ quân chủ hay chế độ độc tài mong muốn thì sử gia ấy khó tồn tại. Do vậy, chánh sử cũng chỉ có tính cách thời gian, chứ không là miên viễn.

Riêng lịch sử thì có thể đáng tin hơn là ngụy sử. Vì ngụy sử chỉ tô son trét phấn vào mỗi nhân vật huyền thoại để đánh bóng cho nhân vật đó, mà lịch sử đời sau thì không muốn ghi lại những nhân vật của ngụy sử nầy. Đã là ngụy thì không chân mà chẳng lịch. Vì sự hiện hữu của nhân vật ấy và thời đại ấy so với sự kiện lịch sử của một dân tộc nó không phù hợp.

Như vậy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một nhân vật lịch sử, chứ không là một huyền thoại. Vì Ngài có cha là vua Tịnh Phạn, có mẹ là Hoàng hậu Ma Ya. Sinh ra 7 ngày thì mẹ mất, được dì là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi nấng Ngài đến lúc trưởng thành. Ngài đã lập gia đình với Công chúa Da Du Đà La con vua Thiện Giác và hạ sanh một người con, đặt tên là La Hầu La. Đến năm 19 tuổi (theo thuyết của Đại Thừa) và năm 29 tuổi (theo thuyết của Tiểu Thừa) Ngài đã rời khỏi cung thành Ca Tỳ La Vệ, băng rừng vượt suối đi vào dãy núi Hy Mã Lạp Sơn để xuất gia học đạo.

Cho đến năm nay (2011) tất cả các nước theo Phật Giáo trên thế giới và kể cả Liên Hiệp Quốc cũng đều gọi là năm của Phật lịch 2555. Nghĩa là từ khi nhập Niết Bàn của Đức Phật cho đến nay là 2.555 năm.Nếu tính năm sinh của Ngài thì phải cộng thêm 80 năm nữa. Nghĩa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đản sanh tại Ấn Độ cách đây 2.635 năm (2.555 + 80 = 2.635 năm). Nếu trừ đi 2.011 năm thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra trước Tây lịch là 624 năm; nghĩa là thế kỷ thứ 7 trước khi lịch Tây phương thành hình. Thế nhưng những nhà sử học ngày nay vẫn còn nghi vấnĐức Phật sinh ra không phải ở thế kỷ thứ 7 trước Tây lịch mà là thế kỷ thứ 6 và có nhiều người còn cho rằng ngài sinh ra tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch.

Vì sao có những sự việc nầy? Vì lịch của Ấn Độ không rõ ràng bằng lịch âm dương của Trung Hoa. Do vậy những sử gia về sau nầy có quyền nghi ngờ về những dữ kiện lịch sử ấy. Tuy nhiêu dẫu cho niên đại sinh ra, xuất gia và sự thành đạo của Đức Phật có chưa được thống nhất, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn là một Đức Phật lịch sử, không phải là một nhân vật tượng trưng hay một Đức Phật siêu việt, không có lịch sử hiện hữu trong thế gian nầy như Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Dược Sư v.v…

Trong 49 năm thuyết pháp (theo Đại Thừa) hay 45 năm (theo Tiểu Thừa) kể từ sau khi thành đạo, Đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa khắp nơi tại Ấn Độ và sau nầy các nhà nghiên cứu Đại Thừa chia ra làm 12 loại kinh điểnĐức Phật đã thuyết giảng gồm những loại như sau:

Một là Khế Kinh (tiếng Phạn là Sùtra; Hán dịch là Tu Đa La) cũng còn gọi là Trường hàng. Tức là thể văn xuôi, trực tiếp ghi lại những lời giảng dạy của Đức Phật.

Hai là Ứng Tụng (tiếng Phạn là Geya; Hán dịch âm là Kỳ Dạ) cũng gọi là Trùng tụng. Tức là phần kệ tụng giải thích lại cho rõ những giáo thuyết mà khế kinh đã nói ra.

Ba là Ký biệt (tiếng Phạn là Vyàkarana; Hán dịch âm là Hòa già la na) cũng gọi là Thọ Ký. Vốn là thể loại giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho những lời ấn chứng trước của Phật về các việc làm trong vị lai của các đệ tử.

Bốn là Phúng tụng (tiếng Phạn là Gàtha; Hán dịch âm là Già Đà), cũng gọi là Cô Khởi. Tức là thể loại tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật, chứ không lặp lại ý nghĩa trong phần văn Trường Hàng đã nói trước đó như vai trò của Trùng Tụng.

Năm là Tự thuyết (tiếng Phạn là Udanà; Hán dịch âm là Ưu Đà Na). Nghĩa là Đức Phật không đợi người khác thưa hỏi, mà Ngài tự khai thị chỉ bày.

Sáu là Nhân Duyên (tiếng Phạn là Nidàna; Hán dịch âm là Ni Đà Na). Ghi chép nhân duyên (nguyên do) thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tựa của các kinh.

Bảy là Thí Dụ (tiếng Phạn là Avadàna; Hán dịch âm là A Ba Đà Na). Dùng thí dụ để nói pháp nghĩa.

Tám là Bản Sự (tiếng Phạn là Itivrttaka; Hán dịch âm là Y Đế Viết Đa Già). Thể loại ghi chép về hành trạng của Phật và các đệ tử ở đời quá khứ, ngoài bản sinh đàm. Hoặc những kinh mở đầu bằng câu “Phật nói như vậy” cũng thuộc thể loại nầy.

Chín là Bản Sanh (tiếng Phạn là Jàtaka; Hán dịch âm là Xà Đà Già). Thể loại ghi chép hạnh đại biĐức Phật tu hành trong các đời quá khứ.

Mười là Phương Quảng (tiếng Phạn là Vaipulya; Hán dịch âm là Tỳ Phật lược). Các kinh giảng nói giáo nghĩa sâu xa rộng lớn.

Mười một là Hy Pháp (tiếng Phạn là Adbhutadharma; Hán dịch âm là A Phù Đà Đạt Ma) cũng gọi là Vị Tằng Hữu Pháp. Tức thể loại hình ghi chép những việc hiếm có của Phật và các đệ tử.

Mười hai là Luận Nghị (tiếng Phạn là Upadesa; Hán dịch âm là Ưu Ba Đề Xá). Thể loại kinh ghi chép việc Đức Phật nghị luận về thể tính các pháp, phân biệt rõ ràng ý nghĩa.

Mười hai thể loại trên đây, Đại Thừa, Tiểu Thừa đều có. Nhưng có chỗ cho rằng Phương Quảng là các kinh mà chỉ Đại Thừa mới có; lại có thuyết chủ trương ngoài ký biệt, tự thuyết và Phương Quảng ra, 9 thể loại còn lại đều thuộc kinh Tiểu Thừa. Hoặc có thuyết cho rằng ngoài Nhân Duyên, Thí Dụ và Nghị Luận ra, 9 thể loại kia đều thuộc kinh Đại Thừa. Hoặc có thuyết cho rằng 9 thể loại trừ Thí Dụ, Bản Sanh và Nghị Luận, là 9 bộ kinh; hoặc trừ Tự Thuyết, Thí Dụ và Nghị Luận là 9 bộ kinh (Trích Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch trang 5.506).

Kể từ khi Đức Phật thuyết pháp cho đến năm 85 trước Tây lịch, Ba Tạng kinh Luật Luận bằng tiếng Pali mới hình thành bằng chữ viết đã trả qua hơn 500 năm như thế bằng cách khẩu truyền qua 4 kỳ Đại Kết tập bởi các vị A La Hán. Dĩ nhiênchúng ta có quyền tin tưởng trọn vẹn nơi chư vị Thánh Giả nầy; nhưng vấn đề tư tưởngbộ phái đã phân chia rõ ràng sau thời kỳ kết tập thứ 2 dưới triều vua A Dục (trước Tây lịch) tại thành Tỳ Xá Ly. Kỳ kết tập lần đầu tại động Thất Diệp sau khi Đức Phật nhập diệt 100 ngày do Ngài Ca Diếp chủ tọa. Kỳ kết tập nầy chỉ tuyên đọc lại kinh, luật và những gì Đức Phật đã dạy. Thời kỳ kết tập thứ hai sau 100 năm tại thành Hoa Thị (Patna ngày nay) đã có sự phân biệt trong giáo đoàn Tỳ Kheo về vấn đề giới luật và kỳ kết tập lần thứ 3 thì đã phân chiatính cách bộ phái của Thượng Tọa BộĐại chúng bộ. Đến kỳ kết tập lần thứ 4 trước Tây lịch gần 100 năm là thời kỳ phân chia tư tưởng Đại Thừa, Tiểu Thừa một cách rõ ràng nhất.

Các nhà nghiên cứu Phật Giáo bộ phái hay Nguyên ThủyTiểu Thừa thì cho rằng Phật Giáo Đại Thừa đã đi quá xa tư tưởng Nguyên Thủy thời Đức Phật dạy.; nhưng các vị Đại Luận Sư nổi tiếng của Tiểu Thừa như Ngài Vô Trước, Thế Thân, Mã MinhLong Thọ của Ấn Độ vẫn căn cứ vào tư tưởng và những lời dạy của Đức Phật trong các kinh điển Tiểu Thừa để xiển dương Đại Thừa, như vậy cũng không thể gọi là sai. Vì lẽ tư tưởng cần phải phát triển và khế hợp với từng thời đại cũng như hoàn cảnh của đất nước mà Phật Giáo du nhập vào đó. Ví dụ như những nước phương Bắc Á Châu hay Âu Mỹ ngày nay thì thích hợp với tinh thần Đại Thừa duy tân, cởi mở, sửa đổi nhiều hơn là tư tưởng của Tiểu Thừa. Trong khi đó các nước Phật Giáo Nam Á Châu thì khế hợp với tinh thần Nam Tông hơn là Bắc Tông. Do vậy chúng ta không thể nói là cái nào đúng, cái nào sai, mà ở đây chỉ nói về tinh thần khế hợp cũng như phát triển giáo lý ấy mà thôi.

Vậy ở đây xin xác nhận lại một lần nữa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử chứ không phải là Đức Phật tượng trưnggiáo lý của Ngài đã thuyết giảnggiáo lý chơn thật, bao gồm cả Đại ThừaTiểu Thừa như 12 bộ kinh tiêu biểu bên trên đã trình bày.

Như vậy Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ thuộc về loại không hỏi mà nói. Những kinh nầy chính do kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra và chúng ta, qua trí tuệ cũng như sự chứng thật của Ngài, tin rằng lời Phật không bao giờ hư dối, nên phát huy pháp môn Tịnh Độ cũng là cách để làm rõ nét về lời dạy của Đức Phật qua một phương pháp tu trong nhiều pháp tu khác để được thoát ly sanh tử luân hồi.


A. Tư tưởng của Kinh A DI ĐÀ

Trong 49 mùa an cư kiết hạ (theo Đại Thừa) và 45 mùa (theo Tiểu Thừa) thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã an cư tại nước Xá Vệ, nơi vườn cây của Trưởng Giả Cấp Cô ĐộcThái Tử Kỳ Đà đã hơn 25 mùa như thế. Mỗi năm 3 tháng và Kinh A Di Đà Đức Phật đã nói tại đây cho Ngài Xá Lợi Phất nghe trực tiếp. Kinh nầy được gọi là Kinh Tiểu Phẩm A Di Đà và kinh nầy vẫn còn chữ Phạn cũng như chữ Hán.

Đây là bản kinh có sau kinh Vô Lượng Thọ cũng như Quán Vô Lượng Thọ; nhưng xin nêu danh kinh nầy lên đầu, vì kinh nầy các nước Phật Giáo theo Tông Tịnh Độ đều trì tụng hằng ngày tại chùa hay tại tư gia như ở Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam, Nhật Bản v.v… Đây là một kinh ngắn, dễ đọc tụng và thâm hiểu nghĩa lý cho mọi tầng lớp của những người tin theo pháp môn nầy.

Mở đầu kinh văn được cho biết là: “Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, Tịnh Xá Kỳ Hoàn, trong khu vườn của Thái Tử Kỳ ĐàCấp Cô Độc. Ngài cùng với số đông một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo câu hội lại một chỗ. Chư Tỳ Kheo nầy đều là những vị Đại A La Hán, được nhiều người biết đến…”.

Tôi ở đây là Ngài A Nan. Ngài A Nan làm Thị giả cho Đức Phật trong 25 năm sau cùng, trước khi Phật thị tịch Niết Bàn. Ở đây muốn xác định là ai nghe cùng với ai và tại nơi chốn nào đã rõ ràng; nhưng đứng về phương diện thời gian thì kinh văn chỉ cho biết rằng: Một thời Đức Phật… một thời ấy chính là lúc Đức Phật còn tại thế và là lúc mà Đức Phật đang an cư tại xứ Xá Vệ. Ngày xưa đối với lịch sử của Ấn Độ không nói rõ như lịch Trung Hoa hay lịch Âu Mỹ. Các nhà nghiên cứu cũng có thể tìm hiểu tất cả những bộ kinh và ghi chú vào đó những niên đại, mà chắc rằng trong phạm vi kinh điển của Tiểu Thừa thì không có ghi những bộ kinh “vô vấn tự thuyết” như thế nầy. Ở đây không muốn phân biệt Nam, Bắc – Đại, Tiểu; nhưng nêu ra như vậy để thấy rằng cái nào chấp nhận được thì chấp nhận. Ai không chấp nhận thì quyền của người đó. Vì người xưa đã không nêu rõ ràng, thì người đời nay chỉ nên y theo pháp môn truyền thừa để tu học, không nên y theo lối lập luận nhị nguyên để bị kẹt vào chỗ đối xử, tính toán v.v…

Đức Phật đầu tiên giải thích về cõi Cực Lạc cho chúng đệ tử biết. Cực Lạc chỉ có một mà Tịnh Độ thì có nhiều. Tiếng Phạn gọi Cực Lạc là Sukkhavati; còn Tịnh Độ là cõi Thanh Tịnh, ngược lại với uế độ là nơi mà chúng sanh còn đang sinh sống tu học. Tịnh Độ theo các nhà nghiên cứu thì có 4 loại. Đó là:

Thường tịch quang Tịnh Độ

Thật báo trang nghiêm Tịnh Độ

Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ

Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ

Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Vì sao vậy? Vì chúng sanh đang ở trong cõi Ta Bà, ngũ trược ác thế nầy đầy phiền não, khổ đau; cho nên Đức Phật giới thiệu cho chúng sanh ở đây một cõi giới khác, chỉ thuần có vui và không bị khổ sanh tử chi phối để biết mà thác sanh về đó.

Tiếp đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu phong cảnh của thế giới Cực Lạc. Tất cả toàn bằng bốn hay bảy chất báu. Nào là đất cát, cây cối, ao hồ, hoa sen v.v… tất cả đều đẹp đẽ khác xa với thế giới Ta Bà nơi chúng ta đang sinh sống. Đức Phật xác định với Ngài Xá Lợi Phất rằng: Đó là do những công đứcthành tựu được để trang nghiêm thế giới Cực Lạc như vậy. Nào là thiên nhạc, mưa hoa; nào là chim chóc khác lạ. Những chim nầy biết nói pháp, khiến cho người nghe đều nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng. Đức Phật cũng tự giải thích cho Ngài Xá Lợi Phất nghe rằng: Những con chim ấy đều do Đức Phật A Di Đà hóa hiện ra cả. Ngay cả gió ở cõi nầy cũng làm cho cây cối tại đó vang lên những thứ nhạc nhiệm mầu, khiến cho người nghe tự nhiên nhớ nghĩ đến ba ngôi báu.

Bây giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giải thích cho Ngài Xá Lợi Phấtchúng hội đang ngồi nghe Ngài giảng pháp vì sao gọi Đức Phật nầy là A Di Đà ? – Do vì ánh sáng của Ngài không có hạn lượng và tuổi thọ của Ngài dài, lâu đến vô số lượng, vô biên A Tăng kỳ kiếp; nên gọi là A Di Đà và vị Phật ấy đã thành Phật, cho đến nay là 10 đại kiếp rồi (mỗi kiếp như vậy tương đương với một ngày ở cõi trời Đại Phạm; hoặc 1.000 thời (Phạn: Yuga); tức là 243.000.000 năm ở nhân gian). Đây là con số thời gian không thể tính đếm được theo chủ trương của Ấn Độ giáo. Ngài có vô số đệ tử toàn là những bậc A La Hán.

Những chúng sanh nào sanh về đây rồi đều không bị thối chuyển và toàn là những vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ. Khi nghe được như vậy, nên phát tâm sanh về đây. Vì sao vậy? – Vì để gần gũi với các bậc Thánh ở đấy.

Rõ ràng là cõi ấy không còn luân hồi sanh tử và sanh, già, bệnh, chết như cõi của chúng ta nữa. Ở cõi người nếu không biết tu còn phải bị trầm luân trong sanh tử và vào ra các cõi khổ đau như: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay khá hơn như chư thiên hay Thiên Thần; nhưng tất cả đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực của mỗi người.

Đức Phật Thích Ca cũng nhấn mạnh rằng: Chẳng phải dùng một nhân duyên, phước đức, căn lành nhỏ ít mà được sanh về nước ấy. Nếu người nào khi nghe danh hiệu của Đức Phật A Di Đà rồi, liền trong 1 cho đến 7 ngày phải một lòng chẳng loạn động trì niệm danh hiệu cho đến lúc sắp lâm chung thì Đức A Di Đà và các vị Thánh Chúng sẽ hiện ra trước mặt người ấy và nếu kẻ mất ấy lòng chẳng điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Tư tưởng nầy không phải là tư tưởng cứu rỗi như những Tôn giáo hữu thần khác, mà đây là do bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời nguyện khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo ở thời Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Việc trì niệm danh hiệu nhứt tâm chỉ là cái nhân và nhờ đó, qua tha lực của Ngài cũng như công đức của người sắp lâm chung mà được sanh về ở thế giới Cực Lạc tùy theo từng nơi chốn và phẩm vị khác nhau. Đây chính là do phước đức nhơn duyên vậy.

Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng những lời như thế rồi, liền bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Nếu có chúng sanh nào nghe được lời nói nầy, thì nên phát nguyện sanh về cõi ấy. Đây là một công đức thật là khó nghĩ bàn.

Sau đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho Ngài Xá Lợi Phấthội chúng về các cõi Phật ở phía Đông của Ngài A Súc Bê; phía Nam của Ngài Nhật Nguyệt Đăng; phía Tây của Phật Vô Lượng Thọ; phía Bắc của Phật Diệm Kiên; phía dưới có Phật Sư Tử; phía trên có Phật Phạm Âmhằng hà sa số các vị Phật khác nữa và vị Phật nào cũng ở cõi nước của mình và đưa tướng lưỡi rộng dài che khắp toàn cõi đại thiên để nói lên lời thành thật rằng: Hỡi các chúng sanh! Nên tin công đức chẳng thể nghĩ bàn của lời khen ngợi về bản kinh mà tất cả chư Phật đều cùng hộ niệm.

Như vậy có nhiều cõi Tịnh Độ khác nhau; mỗi cõi như vậy có một vị Phật đang giáo hóa chúng sanhthuyết pháp tại đó. Cõi Tịnh Độ ấy toàn là ánh sáng, không chen lẫn những màu sắc khác, không có ngày đêm, không có sự khổ khôngnam nữ giao hội với nhau, không có sanh tử luân hồi; nên cõi ấy cũng còn gọi là cõi thanh tịnh của Đức Tỳ Lô Giá Na Phật nữa. Những cõi ấy là y báochánh báo đều trang nghiêm; cho nên gọi là báo độ chơn thật. Ngoài ra cũng còn có những cõi Tịnh Độ do chư Phật vì Phương Tiệnhiện ra. Riêng chỉ có cõi Tây Phương Cực Lạccõi Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ thật dễ để tái sanh; cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu cho chúng sanhcõi Ta Bà nầy nên thác sanh về đó.

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán xưng dương những vị Phật ở các cõi khác như thế, thì các vị Phật nầy cũng nói rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm việc khó làm. Vì chúng sanh trong cõi Ta Bà ở đời năm trược nầy, sau khi chứng đạo đã vì chúng sanh mà nói ra pháp môn nầy thật là khó tin tưởng và chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã xác nhận điều nầy lại một lần nữa như vậy.

Vì sao thế? – Vì lẽ chúng sanh trong đời ác năm trược không dùng trí tuệ để tin sâu, nguyện thiết mà dùng sự ngu si, độn căn để phán đoán việc làm của chư Phật. Do vậy nói ra giáo pháp như thế là điều rất khó.

Sau khi Đức Phật nói kinh Tiểu Phẩm A Di Đà nầy xong rồi thì Ngài Xá Lợi Phất và các vị Tỳ Kheo và tất cả thế gian, Trời, người, A Tu La nghe lời Phật dạy, mọi người đều vui mừng tin nhận lời Phật, làm lễ rồi lui ra.

Đức Phật A Di Đà (theo kinh Vô Lượng Thọ, trang 63) cho biết Ngài có tất cả 12 danh hiệu. Đó là:

1.- Vô Lượng Quang

2.- Vô Biên Quang

3.- Vô Ngại Quang

4.- Vô Đối Quang

5.- Diệm Vương Quang

6.- Thanh Tịnh Quang

7.- Hoan Hỷ Quang

8.- Trí Tuệ Quang

9.- Nan Tư Quang

10.- Bất Đoạn Quang

11.- Vô Xưng Quang

12.- Siêu Nhật Nguyệt Quang.

Chữ Amitabha có nghĩa là Vô Lượng Quang. Nghĩa là Đức Phậthào quang vô lượng. Chữ Amitayus có nghĩa là Vô Lượng Thọ. Đức Phật ấy có tuổi thọ không lường được. Chữ hào quang hay ánh sáng ấy đi kèm với tên của Ngài ở phía trước trong 12 danh hiệu trên nhằm nhấn mạnh cho chúng sanh biết rõ về cuộc đời và bổn nguyện của Ngài.

Ánh sáng ấy như thế nào? – Dĩ nhiên không phải là ánh sáng bình thường của mặt trời, mặt trăngthế gian nầy. Ánh sáng ấy vô lượng, có thể chiếu tỏa khắp mười phương vô biên thế giới; chiếu suốt qua tất cả chúng sanh nào có nhân duyên để được Ngài và chư vị Thánh Chúng đón nhận về cõi Cực Lạc của Ngài.

Một cây trồng trong bóng tối, khi lớn lên cây ấy vươn ra phía có ánh sáng mặt trời để tiếp nhận ánh sáng bình thường ấy, tạo nên diệp lục tố, nuôi sống cho thân cây. Đây là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên. Cây cỏ tự tìm đến ánh sáng ấy. Trong khi đó một chúng sanhcõi Ta Bà nầy khởi lên tâm niệm nhớ đến Đức Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài thì tự động với tha lực của Đức Phật A Di Đà sẽ chiếu rọi, bao bọc, cứu vớt chúng sanh ấy về với cõi của Ngài. Sự sanh về đó là do tha lựcbổn nguyện lực của Ngài mà thành tựu. Lực ấy to lớn như chiếc thuyền chở tảng đá lớn qua bên kia sông. Đến được bờ rồi thì tảng đá vẫn là tảng đá, hòn sỏi vẫn là hòn sỏi; chứ tảng đá không thể biến thành hòn sỏi và hòn sỏi không biến thành hạt cát được; nếu chúng sanh ấy không tự tu niệm. Đức Phật không tha thứ tội lỗi cho chúng sanh, chỉ dùng lòng từ bi và trí tuệ để hướng dẫn cho chúng sanh mà thôi. Do vậy tinh thầntư tưởng của kinh A Di Đà hay của Đức Phật A Di Đà khác với những Tôn giáo hữu thần khác nằm ở điểm căn bản nầy.

Tư tưởng cứu độ ấy vượt qua khỏi tâm nguyện bình thường của chúng sanh; nhưng không có nghĩa là tha thứ cho chúng sanh. Tư tưởng ấy khiến cho chúng sanh bước lên thêm một nấc thang cao hơn nữa để nhập vào quả vị Thánh, qua sự dìu dắt, chỉ bảo của Đức Phật A Di Đà và các vị Thánh Chúng Quan Thế ÂmĐại Thế Chí tại đó. Nếu một hạt cát (ví dụ cho tội nhẹ) mà bỏ vào sông biển, thì cát ấy vẫn chìm sâu vào đáy sông, đáy biển; nhưng nếu hạt cát ấy hay lớn hơn như hòn đá (ví dụ cho ngũ nghịch trọng tội) mà được chở trên chiếc thuyền lớn thì đá kia sẽ nổi. Đây là tư tưởng cứu độ, là lời thệ nguyện, là bổn nguyện lực của Đức Phật A Di Đà vậy.

Ở vào thời điểm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi mà khoa học chưa phát triển cách đây hơn 2.500 năm về trước, nhân loại đa phần còn ăn lông, ở lỗ; sống đời sống du mục rày đây mai đó, cơm không có ăn, phải săn thú rừng để xẻ thịt, phải lấy đá làm lửa v.v… mà nói đến cảnh giới nầy hay cảnh giới kia, quả là một điều quá xa vời, khó tưởng tượng nổi và ngay cả thời nay, nhiều người trí thức, có thành tựu bằng cấp Đại Học, nhưng vẫn khó tin như thường, mặc dầu khoa học đã chứng minh cho thấy rằng: Ngoài hành tinh chúng ta đang ở, còn vô số hành tinh khác nữa; nơi ấy có sự sống của nhiều chúng sanh. Khoa học ngày nay đã đặt chân lên cung trăng và các vì sao khác, nhưng khoa học vẫn chưa tìm ra được điểm khởi đầu và điểm cuối cùng của vũ trụ nầy; nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ trong những lời dạy rằng: “Vũ trụ và con người có từ vô thủykết cuộc bằng vô chung”. Nghĩa là không có cái ban đầu và chẳng có cái cuối cùng. Tất cả đều do nhân duyên sanh và tất cả đều do nhân duyên diệt. Cái nầy sanh thì cái kia diệt. Cái nầy tồn tại thì choáng chỗ của cái kia và cái kia phải tự động di dời đi chỗ khác. Đây chính là pháp nhân duyên sanh của Đạo Phật vậy.

Có nhiều người đòi thấy được mới tin, còn chưa thấy thì không tin; nhưng niềm tin của Tôn giáo là để tin, chứ không phải để thấy được hay chứng minh như toán học. Chúng ta tin rằng có một thế giới Cực Lạc như vậy qua kinh A Di Đà là do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu. Chúng ta tin rằng có một cảnh giới như thế. Vì Đức Phật nói toàn là những lời chơn thật; chưa bao giờ các Ngài dối trá với chúng sanh làm gì. Điều ấy liệu có lợi gì trong phương pháp độ sanh của các Ngài chăng?

Có những vật chúng ta không thấy như không khí mà chúng ta vẫn tin rằng: Nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết. Không ai chối cãi điều nầy. Không khí sờ sờ trước mắt, trong hơi thở, trong từng thớ thịt, làn da của chúng ta nhưng ai có thấy được bao giờ đâu, mà đòi thấy mới tin. Một ví dụ khác để chứng minh cho việc không thấy mà vẫn tin như thường. Đó là sự hiện hữu của chúng ta ngày hôm nay trong cõi đời nầy. Có ai trong chúng ta thấy được mặt mũi của ông Tằng, ông Tổ thuộc tộc họ của mình đâu, mà ai trong chúng ta cũng phải tin chắc một điều là: Nếu không có họ thì làm sao có chúng ta ngày hôm nay được!

Chỉ hai ví dụ điển hình ấy để chứng minh cho những người muốn thấy rồi mới tin. Đa phần những người tin thì không cần thấy. Ví dụ như chúng ta tin rằng: Ăn cơm lâu ngày thì cơm sẽ nuôi thân thể nầy lớn. Có khi nào ngồi vào bàn ăn chúng ta hỏi rằng: Cơm là gì chăng? Thế mà chúng ta đã lớn lên, rồi già đi và chết chóc. Nếu không có cơm thì ai nuôi sống thân nầy? Những việc chứng minh được, tiếp xúc được, sờ mó được, mà chúng ta vẫn không tin thì làm sao dễ tin được ở một cảnh giới xa xôi cách đây hằng trăm, hằng ngàn thế giới ? Chỉ có trí tuệ của chư Phật mới cảm nhận được việc nầy rồi đem giới thiệu cho chúng ta. Còn với trí tuệ giới hạn bởi những con số và sự tính toán của loài người thì làm sao có thể hiểu được.

Đến thế kỷ thứ 20, có nhà Bác học Albert Einstein người Đức gốc Do Thái sinh ra tại Neu Ulm thuộc miền Nam nước Đức. Ông ta sau Đệ nhị thế chiến (1945) đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn và ông được lãnh giải thưởng Nobel thế giới về Vật Lý và Toán Học. Ông ta là cha đẻ của thuyết tương đốimới đây Liên Hiệp Quốc bình chọn ông ta là người của thế kỷ thứ 20, đại diện cho 6 tỷ người khác đang hiện diện trên quả địa cầu nầy. Ông ta đã phát biểu nhiều điều; nhưng có một điều rất quan trọng đối với Phật Tử chúng ta là:

Phật Giáo không cần phải chứng minh những lời dạy của Đức Phật hợp với khoa học. Vì tất cả những lời dạy của Đức Phật đã vượt ra khỏi và lên trên cả khoa học nữa”.

Đây là một tư tưởng của siêu nhân được chứng minh qua vai trò, chỗ đứng của ông trong xã hội loài người. Vậy thì tư tưởng của kinh A Di Đà do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra cách đây hơn 2.500 năm về trước tại nước Xá Vệ cho Ngài Xá Lợi Phấtchúng hội nghe, không có điều gì để cho chúng ta nghi vấn nữa, mà nên tin những lời dạy của Đức Phậtđứng đắn và có thật.

Từ trước đến nay chúng ta đã thấy về nội dung của kinh cũng như mục đích của Đức Phật đã giới thiệu, chúng ta vững tin vào pháp môn Tịnh Độ để được vãng sanh khi lâm chung qua lời giới thiệu của Đức Bổn Sư. Chúng ta hoan hỷ đón nhận pháp môn nầy là một pháp môn thù thắng, bất khả tư nghì. Chính Đức Phật Thích Ca cũng đã xác nhận điều nầy vào cuối bản kinh văn A Di Đà.

Ai tin tưởng và nguyện sanh về thì người ấy sẽ được vãng sanh, lợi lạc cho đời saumãi mãi ở những kiếp về sau nữa. Ai không tin mà còn nghi ngờ thì đó là quyền của người ấy, chúng ta không có quyền ép buộc và điều nầy cho thấy rằng: Những người ấy thiếu nhơn duyên với Tịnh Độ mà thôi. Ngay cả đối với Đức Phật Thích CaĐức Phật A Di Đà cũng chỉ có thể độ được cho những người hữu duyên; còn những người thiếu nhân duyên với chư Phật và nhất là nhân duyên Tịnh Độ thì các Ngài cũng chẳng có cách gì hơn. Hy vọng rằng chúng ta không phải là những người thiếu phước như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 150)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 197)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 222)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 286)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 197)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 249)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 317)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 280)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 378)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 474)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 575)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 842)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 733)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 940)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 716)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 711)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1668)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1279)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1099)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant