Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

19 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 19655)
Ngày Về Nguồn - Tưởng Niệm Hành Trạng Của Chư Vị Thiền Sư, Tổ Đức - Bài Đọc Hai

NGÀY VỀ NGUỒN - TƯỞNG NIỆM HÀNH TRẠNG CỦA CHƯ VỊ THIỀN SƯ, TỔ ĐỨC

(Bài đọc hai)

{Xem bản PDF}

Nền văn học dân gian Việt Nam luôn ca tụng và nhắc nhở đàn con, cháu luôn tưởng nhớ và giữ gìn tinh thần Cội Nguồn Tổ Tiên Làng Nước. Dù sống dưới bất cứ hoàn cảnh nào, trong tình huống nào, giá trị đích thực của đạo đức lễ nghi, nhân nghĩa vẫn là cái tình Nhớ Nước, Thương Nòi, để phát huy và bảo tồn một nền văn hóa đặc thù, cao đẹp của dân tộc Việt nam. Nền văn hóa cao đẹp ấy, nhân bản ấy, chính là: “Uống nước nhớ nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Chim có Tổ người có Tông.”

Nền văn học của Phật Giáo Việt Nam luôn dạy đến hàng hậu học, tử tôn phải biết nhớ ơn và đền ơn đến chư bậc Lịch Đại Tổ Sư, Ân Sư, Tôn Sư… một thời đã khai sinh Giới Thân Huệ Mạng, đã nuôi lớn chúng ta trên con đường sơ phát tâm xuất gia để hoàn thành chí nguyện thượng cầu hạ hóa. Chí nguyện ấy, hình ảnh ấy, chư bậc Tổ đức đã dựng thành: “Phù xuất gia dã, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục. Thiệu long Thánh Chủng chấn nhiếp ma quân, dụng báo Tứ ân, bạt tế tam hữu.” Luận về người xuất gia, mỗi bước chân đi là mở ra một phương trời cao rộng, thoáng đạt, thân tâm không giống người thế tục , phàm tình, để nối nghiệp chư vị Long tượng Thạc đức nơi chốn thiền gia mà gieo trồng hạt giống Thánh quả. Từ giá trị cao quý của sự tu tậpchứng đắc Thánh quả ấy mà hàng phục được quân ma, để trên đền đáp bốn ơn, dưới cứu khổ ba đường. Trên là lời huấn thị, sách tấn của chư vị Tổ Đức vì lý tưởng tu họcphụng sự của chúng ta, hàng hậu học hôm nay, có lẽ nào chúng ta lại không nhớ và nghĩ. Nhớ là để không quên mình, và nghĩ để biết mình đang ở đâu, mà đền ơn đáp nghĩa như lời Tổ Đức đã dạy.

Từ tâm thức của hàng hậu duệ, của người, của hàng thế hệ lâu sau, tưởng niệm về những hành trạng, những công hạnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức là những tấm gương sáng chói được treo cao mà một thời chư Tổ đã dày công tu tập, để góp phần vào công việc hộ quốc an dân, xây dựng một đời sống thái hòa, an cư, lạc nghiệp.

ý nghĩa cao cả, kính quý của sự nhớ ơn và đền ơn ấy, trong chốn nhà Thiền, trong các Tòng Lâm, Tự Viện, cứ mỗi nửa tháng có lễ Thù Ân Chúc tán, tất cả Tăng chúng thảy đều lễ lạy, mong đền đáp ơn sâu trong muôn một. Chúng ta lắng lòng trầm tĩnh ý vị thuần hòa, yếu chỉ thiết tha của lời kệ thán:

“Đại viên mãn giác, ứng tích tây càn. Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới. Ngưỡng khấu hồng từ, phủ từ minh chứng…Lương thần, vân tập Tăng chúng, đăng lâm bảo điện, phúng diễn bí chương, xưng dương gia hiệu, sở tập hồng nhân, đoan vị chúc diên…

Phục nguyện: Kim luân vĩnh trấn, ngọc chúc thường điều. Bát huyền an hữu đạo chi trường. Tứ hải lạc vô vi chi hóa, ngưỡng lao đại chúng đồng niệm Kim Cang Vô Lượng Thọ, hộ quốc nhơn vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Tuệ giác viên mãn, lưu dấu phương Tây. Tâm trùm thái hư, lượng khắp pháp giới. Ngưỡng mong hồng ân từ bi chứng giám…”

Tăng chúng vân tập lên bửu điện, phúng tụng pháp vi diệu, xưng tán tôn danh, góp công đức lành, xin cùng dâng lên…Phật Pháp trường tồn, trí tuệ rạng soi, bốn biển vui niềm pháp vị. Ngưỡng mong đại chúng nhất tâm niệm Phật.

Đây là một tấm lòng, là tâm thành cầu nguyện cho hết thảy mỗi loài, được no đủ bình an, cho quê hương dân tộc, nhà nhà được hưởng thái bình, nơi nơi âu ca lạc nghiệp. Là cái chân thật, tánh đức vị tha. Là cái ân cái nghĩa, đâu chúng ta không nhớ, không đền? Ấy là chất liệu sống, là giá trị hiến dâng mà mỗi bước chân đi trên con đường hoằng hóa của chư Tổ đã in sâu trên dòng lịch sử. Dấu ấn ấy, hành trạng ấy được lưu lại muôn đời cho chúng ta phụng hành.

Từng chặng đường lịch sử hoằng hóa, từng công hạnh vị tha hiển lộ của chư vị Thiền Sư Tổ Đức chúng ta thấy Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) mang hành trạng tạo thành một trong những dòng Thiền của Phật Giáo Việt Nam. Và để từ đó được tiếp tục truyền thừa tâm ấn cho ngài Pháp Hiển…Một khi công viên quả mãn, hạnh nguyện lợi đạo ích đời đã hoàn tất thì Chư Tổ thâu thần thị tịch, chích lý Tây qui, nhưng đâu, những người còn lại mà không nhớ ơn và đền ơn. Vua Thái Tôn (1028-1054) đã làm bài kệ truy niệm tán dương công đức của Tổ:

“Sáng tự Nam lai quốc,

Văn quân cửu tập Thiền.

Ứng khai Chư Phật tín,

Viễn hợp nhất tâm nguyên.

Hạo hạo lăng già nguyệt,

Phân phân Bát Nhã liên,

Hà thời hạnh tương kiến

Tương dự thoại trùng huyền.”

Dịch:

“Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông chỉn học Thiền.

Nguồn tâm thông một mạch,

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng già ngời bóng nguyệt

Bát Nhã nức mùi sen,

Biết được bao giờ gặp

Cùng nhau kể đạo huyền.”

(Việt Nam Phật Giáo sử lược trg 77. T-T Mật Thể)

Hành trạng của Tổ đã cảm hóa được nhà vua, triều đình để rồi tự tay nhà vua làm kệ tán thán lưu lại hậu thế muôn đời. Đó chính là cái ân, cái đức đối với người sau.

Chúng ta thường nghe: “Nhứt tự vi sư, bán tự diệc vi sư.” Một chữ là thầy, mà nửa chữ cũng là thầy. Đó là cái ơn dạy bảo của thầy mà người học trò phải nhớ ghi, trân trọng.

Để thấy được hạnh nguyện của người xưa mà mình vuông tròn đạo lý. Pháp Sư Phụng Đình du hóa bên Trung Quốc, giảng kinh nơi cung nội của vua Đường, khi trở về lại An Nam – Việt Nam, thi hào Dương Cự Nguyên còn làm thơ tiễn biệt để nhớ ơn:

“Cố hương Nam Việt ngoại

Vạn lý bạch vân phong

Kinh luận từ thiên khứ

Hương hoa nhập hải phùng

Lộ đào thanh phạm triệt

Thần cát hóa thành trùng

Tâm đáo trường an mạch

Giao Châu hậu dạ chung.”

Dịch:

“Quê nhà trông cõi Việt

Mây bạc tít mù xa

Cửa trời vắng kinh kệ

Mặt bể nổi hương hoa

Sóng gợn cò in bóng

Thành xây hến mấy tòa

Trường an lòng quất quít

Giao Châu chuông đêm tà…”

(Sđd Tr. 89-90)

Con người có tình, có nghĩa, có thủy, có chung thì sự nhớ ơn và đền ơn là đức tính tự nhiên như hương hoa của mặt đất; như trái ngọt, lá xanh của núi rừng, như nắng ấm ban mai, gió lùa buổi tối. Không ai mời, cũng chẳng kẻ gọi mà phải cưu mang; cưu mang như một tấm lòng thành thiết, ân sủng.

Để thấy thêm ý vị đậm đà của lòng tưởng nhớ, của sự kính trọng tôn vinh chư vị Thiền Sư Tổ Đức mà chính bản thân mình một thời đã thọ ơn dù trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít, thân hay sơ, vẫn luôn là niềm quý kính, hình ảnh, ngôn từ mãi tồn đọng rạt rào nơi tâm thức.

Ngài Ngô Chân Lưu sống dưới triều của Đinh Tiên Hoàng, thật đức hiển lộ, giáo pháp tinh nghiêm đã làm cho nhà vua kính phục, và sắc phong ngôi vị Tăng Thống, rồi sau đó lại tôn phong là Khuôn Việt Thái Sư, làm thầy của vua, giúp đỡ sửa sang nước Việt. Về sau đến triều đại vua Lê Đại Hành càng được kính trọng hơn. Bao nhiêu việc trọng đại của triều đình, của nước của dân đều được thỉnh ý Ngài. Vào năm 986 Thiên Phúc thứ bảy, Tiền Lê, nhà Tống sai sứ giả là Lý Giác sang nước Nam, nhà vua thỉnh ý và cầu Ngài tiếp sứ Tầu Lý Giác. Trong cuộc tiếp xúc này, Khuôn Việt Thái Sư đã để lại trong lòng Lý Giác một sự kính phục sâu xa, một cảm tình nồng ấm qua bài thơ:

“Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du

Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu

Đông đô tái biệt tâm lưu luyến

Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tịnh kiến thiềm chu.”

Dịch:

“May gặp minh quân giúp việc làm

Một mình hai lượt sứ miền Nam

Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ

Muôn dặm non sông mắt chữa nhàm

Ngựa đạp may bay qua suối đá

Xe vòng núi chạy tới giòng lam

Ngoài trời lại có trời soi rạng

Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đàm.”

(Sđd. Tr. 110-111)

Người dân nước Tầu thời bấy giờ còn có lời ca ngợi chúc tụng quê hương nước Việt.

Chư vị Tổ Đức, Thiền Sư một thời đã đem công hạnh tu tập, thi thiết Đại Bi Tâm để tế độ, làm cho Tổ Ấn Trùng Quang, đèn nhà thiền rạng rỡ, cho hàng con cháu soi chung. Đó là cái ân, cái đức, đâu lẽ nào chẳng nhớ, chẳng nghĩ. Chư vị Thiền Sư Tổ Đức không phải chỉ một lòng phát huy tông môn pháp phái, đạo pháp trường lưu mà còn đem chí nguyện an bang tế thế, giúp vua làm nên nghiệp cả, để giữ vững giềng mối nước nhà, an bình xã tắc. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi Pháp Thuận Thiền Sư, Người đã hóa thân vào đời làm lão chèo đò để đưa sứ Tầu Lý Giác trên sông, lấy thơ văn làm phương tiệnhóa độ.

“Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.”

Dịch:

“Song song ngỗng một đôi

Ngửa mặt ngó ven trời

Lông trắng phơi giòng biếc

Sóng xanh chân hồng bơi.”

(Sđd. Tr. 114)

Hành trạng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vì hạnh nguyện dấn thân vào đời nên dưới bất cứ quốc độ, hình hài, phương tiện nào cũng thể hiện tầm tay đẩy bánh xe Bi Trí song vận, để phước huệ được trang nghiêm vận đức từ cho đạo đời nhuần thắm. Công ấy, đức ấy được ghi lại cho người sau, làm nét sử son lưu truyền muôn thuở, làm quy cũ, mô phạm để thăng hoa tài đức cứu người, giúp vật thoát vòng đao binh khói lửa, dựng xây nền Phật lý cơ đồ nghìn sau còn noi dấu. Có lần vua Lê Đại Hành hỏi về việc nước, Ngài trả lời bằng bài kệ:

“Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiênthái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh.”

Dịch:

“Ngôi nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

Trên điện không sanh sự

Đâu đó dứt đao binh.”

(Sđd Tr. 114)

Công hạnh tu chứng của chư vị Thiền Sư Tổ Đức đã hiển lộ qua hành trạng cứu đời, hộ đạo, tinh thần nhập thế của Bồ Tát Hạnh được thể hiện qua công cuộc hoằng hóa nơi đây.

Vạn Hạnh Thiền Sư đời nhà Lý, đã thực hiện tinh thần Vạn Hạnh Dung Thông. Ngài đem sở học của mình để giúp đời, thành tựu công trạng, vang danh chứng tích huy hoàng, người kính phục, nhưng những sự thành tựu ấy đứng trên mặt tu tập chứng đắc thì dưới cái nhìn của Ngài như giọt sương rơi đầu cành, không mê say, sở hữu. Đó chính là chỗ diệu dụng của bậc tu chứng: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, phương tiện muôn trung bất xã nhất pháp.” Nơi miền chơn đế, thật tánh, thật chứng, chẳng hề mảy may thọ dụng vì “nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” thì có gì để thọ, để giữ. Nhưng nếu là phương tiện tế độ thì Ngài chẳng bỏ một điều nào để ứng cơ lợi vật. Chúng ta thấy bài kệ truy tán của vua Lý Nhân Tôn sau khi Ngài thị tịch, đã nói lên công hạnh độ đời, chứng đạo của Ngài.

“Vạn Hạnh dung tam tế

Chơn phù cổ sấm ky

Hương quan danh cổ pháp

Trụ tích trấn vương kỳ.”

Dịch:

“Thiền sư học rộng bao la

Giữ mình hợp phép sấm ra ngoài lời

Quê hương cổ pháp danh ngời

Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô.”

(Sđd Tr. 121)

Cho đến bây giờ khi đọc lại dòng lịch sử của triều đại nhà Lý, ai trong chúng ta cũng đều nhớ đến công hạnh mở mang triều đại nhà Lý huy hoàng để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi cửu trùngcông đức của Ngài. Cái ơn ấy, cái đức ấy, ai ai cũng đều tưởng nhớ mà đi theo dấu chân còn in đậm trên dòng sử Phật Việt. Đối với thế gian pháp thì thi thố tài năng hộ quốc an dân, phụng sự sơn hà xã tắc để cho muôn dân được thịnh trị thái hòa. Còn xuất thế gian pháp thì thực chứng lý sự vô ngại, nhơn pháp câu khôngtrở về với bản lai diện mục của pháp giới tánh, an nhiên tự tại trong sự thịnh suy của cuộc đời, như bài kệ trước khi thị tịch:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Dịch:

“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.”

(Sđd Tr. 120)

Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận, từ thế hệ này đến thế hệ khác vô cùng. Đó là sức sống của đạo pháp đã trải qua mấy nghìn năm mà hình ảnh của chư vị Thiền Sư Tổ Đức vẫn sáng ngời trong tâm thức mỗi người chúng ta.

Hình ảnh chùa Một Cột, tiếng chuông Tháp Phổ Thiên như ăn sâu vào tâm khảm Phật Giáo Việt Nam bao đời thăng trầm dâu bể. Hay dầu mòn đường lên núi Yên Tử, tìm lại vết tích xa xưa một thời mà “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật” tọa thiền bên vách đá. Hình bóng Ngài trải dài trên quê hương nước Việt tứ Bắc chí Nam như một bài thiền ca miên man, vi vu, tuyệt diệu, hòa quyện với núi đồi, biển xanh man mát dệt thành dòng Thiền thuần vị của Phật Giáo Việt Nam.

Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 51)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 63)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 171)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 199)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 259)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 229)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 227)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 428)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 255)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 366)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 296)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 372)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 369)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 486)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 359)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 620)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 388)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 421)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 581)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 490)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 412)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 716)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 518)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 460)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 460)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 477)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 480)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 405)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 870)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 895)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 734)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1081)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 544)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 514)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 594)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 592)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 586)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 652)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant