Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần III: Kết quả

17 Tháng Tám 201200:00(Xem: 13564)
Phần III: Kết quả
MINH SÁT TU TẬP

Tác giả: Achaan Naeb Mahàniranonda

Thiền viện Boonkanjanaram

Dịch giả: Pháp Thông


PHẦN III:

KẾT QU

"Khi bậc Thánh cắt đứt vòng tái sanh luân hồi, đoạn tận mọi tham ái, dòng ái dục khô cạn, không còn chảy nữa; bánh xe bị cắt đứt, không còn lăn được nữa - đó là sự đoạn tận khổ, là Niết bàn." (Khuddaka Nikāya)

VI. TÓM TẮT 12 X

(Các Căn và Đối Tượng Quán Phù Hợp)

 

Căn

LÝ THUYẾT

THỰC HÀNH

Sắc

Danh

Chọn Danh hay Sắc

Lý do

1. Mắt

Hình dáng là sắc Biết hình dáng là Danh "Danh thấy" (1)

Chúng ta nghĩ "Ta thấy", đó là tà kiến. "Danh thấy" (thực tánh), đấy là chánh kiến

Ba Danh (2)quán "Danh thấy"

2. Tai

Âm thanh là sắc Biết âm thanh là danh "Danh nghe"

Chúng ta nghĩ "Ta nghe", đó là tà kiến. "Danh nghe" (thực tánh), đấy là chánh kiến

Ba Danh quán "Danh nghe"

3. Mũi

Mùi là sắc Biết mùi là danh Mùi là sắc (rùpa) Chúng ta nghĩ "Ta ngửi", đó là tà kiến. Biết "mùi là sắc", đấy là chánh kiến Ba danh quán mùi là sắc

4. Lưỡi

Vị là sắc Biết vị là danh Vị là sắc (rùpa) Chúng ta nghĩ "Ta nếm", đó là tà kiến. Biết "vị là sắc", đấy là chánh kiến Ba danh quán vị là sắc

5. Thân

Lạnh, nóng, cứng, mềm. Thân xúc là sắc Biết cảm giác xúc chạm là danh Những cảm giác xúc chạm là sắc Chúng ta nghĩ "Ta nóng, ta lạnh", đó là tà kiến. Biết "sắc nóng, sắc lạnh", đấy là chánh kiến Ba danh quán các cảm xúc ở thân

6. Tâm

Các oai nghi chính và phụ là sắc Biết các oại nghi ấy là danh; nghĩ đến việc thay đổi oai nghi là danh; phóng tâm là danh; thương ghét là danh; biết đau là danh Các oại nghi là sắc, các trạng thái tâm là danh Chúng ta nghĩ "ta ngồi, ta đứng,..." là tà kiến, phải biết là "sắc ngồi, sắc đứng,...". Chúng ta nghĩ "ta thương, ta ghét,..." là tà kiến, phải biết là "thương là danh, ghét là danh,..". Đấy là chánh kiến. Ba danh quán các oai nghi và các trạng thái tâm.

 

Chú thích:

(1) a) Ðối với mắt và tai, đối tượng minh sát hay đối tượng quán chỉ là danh thấy hay danh nghe; các căn khác như mũi, lưỡi, thân thì đối tượng có thể là sắc hoặc danh -tùytheo phiền não khởi lên mạnh nhất ở đâu, chẳng hạn khi phiền não (tà kiến) chấp đó là "ta ngửi", "ta nếm", "ta xúc chạm" thì diệt bằng cách quán đó là "danh ngửi", "danh nếm", ... Còn ngược lại thì chỉ quán đó là hương trần, vị trần, xúc trần, tức là biết mùi ấy là sắc; vị ấy là sắc; nóng lạnh ấy là sắc... Ðối với căn thứ sáu thì sử dụng cả hai danh và sắc.
b)Thấy là niệm (sati), biết danh đang thấy là tỉnh giác (sampajañña)

(2) a) "ba danh" hay yogavacara: tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác
b) Nghe là chánh niệm. Biết danh đang nghe la tỉnh giác.


VII. MƯỜI SÁU TUỆ MINH SÁT

1) Nāmarūpaparicchedañāṇa - Tuệ Phân Biệt Danh - Sắc

Ðây là tuệ, nhờ đó, hành giả nhận ra thực tánh pháp trong sát-na hiện tại (sabhāva dhamma). Sabhāva là thực tánh của Danh (nāma) và Sắc (rūpa). Tuệ này làm thay đổi tà kiến cho rằng nāma - rūpa là "ta". Trí tuệ ở giai đoạn này chưa đủ để cho hành giả nắm bắt sát-na hiện tại, bởi vì tà kiến (phiền não) cho rằng Danh - Sắc là "ta" hay "của ta" đã quá thâm sâu. Người muốn đạt được Tuệ phân biệt Danh - Sắc nầy phải tuân thủ tuyệt đối pháp hành Tứ Niệm Xứ như đã được Ðức Phật trình bày trong Kinh Mahāsatipaṭṭhāna (Ðại Niệm Xứ).

Hành giả muốn thành công trong con đường thiền quán cần phải nắm bắt Danh - Sắc trong sát-na hiện tại thường xuyên, với càng nhiều trí tuệ thẩm nghiệm (cinta paññā) càng tốt, cho đến khi chánh niệm tỉnh giác trở thành trí tuệ mạnh mẽ. Lúc ấy, chánh kiến (sammā - diṭṭhi) sẽ nảy sinh. Trường hợp, khi chánh kiến phát sanh, hành giả sẽ biết, trong sát-na hiện tại, danh nào, sắc nào đang được quán (sắc ngồi, danh nghe,...), và hành giả cũng sẽ nhận ra rằng chính Danh (là cái) biết được đó là sắc ngồi, v.v... Hơn nữa, hành giả cũng sẽ biết rằng, vạn pháp trong thế gian này đều không ngoài Danh và Sắc - không đàn ông, không đàn bà, không tự ngã hay linh hồn gì cả. Khi tà kiến về tự ngã đã bị diệt trừ, hành giả sẽ cảm thấy vô cùng sợ hãi bởi vì từ trước đến nay, chưa bao giờ hành giảcảm giác rằng không có "ta" hay "của ta" cả.

Nhờ tuệ minh sát (vipassanā paññā) cực mạnh nhổ bật gốc những phiền não (tà kiến) ra khỏi cảm giác của mình, giờ đây hành giả có thể nhận ra thực tánh của Danh và Sắc.

Khi đến tuệ này, hành giả sẽ tự mình biết lấy. Cũng giống như việc nếm đường, không cần ai nói cho ta biết vị của đường là như thế nào.

Trong Anguttara - Nikāya (Tăng Chi Kinh), Ðức Phật nói Pháp (Dhamma) này là: "Paccattaṃ veditabbo viññuhi" - bậc trí tự mình trực nghiệm. Dhamma (Pháp) không cần một vị thầy phải giải thích cho ta biết rằng ta đã đạt đến mức độ tuệ nào, mà hành giả sẽ tự biết do trực nghiệm cá nhân của mình. Cũng có khi một số hành giả sẽ nghĩ rằng mình đã đạt đến một tuệ nào đó, nhưng không thực sự chắc chắn lắm. Nếu hành giả không chắc chắn thì hành giả có thể vẫn chưa đạt được tuệ ấy.

Tuệ này được gọi là Diṭṭhivisuddhi - Kiến tịnh, bởi vì vào sát-na chứng ngộ sẽ không có phiền não. Tuy nhiên, chánh kiến này vẫn chưa nhận rõ tam tướng (vô thường, khổ, vô ngã), cần phải thực hành thêm để đạt đến đó.

Trí tuệ thứ nhất này trở thành nơi "nương nhờ" (quy y) của hành giả, bởi vì nhờ đó, hành giả nhận ra thực tánh pháp. Hành giả biết điều này bằng sự trực nhận Danh - Sắc, cũng như người nếm vị đường vậy.

Từ đây về sau, vị ấy biết, "ta không ngồi mà là sắc ngồi", "ta không thấy mà là danh thấy", v.v... Hơn nữa, vị ấy còn biết tất cả các chúng sanh mà vị ấy thấy chỉ là Danh và Sắc. Như vậy, kể từ tuệ thứ nhất này, Danh và Sắc trở thành "Thầy" của hành giả.

2) Paccayapariggahañāṇa - Tuệ Nắm Bắt Duyên Khởi

Khi hành giả chứng tuệ thứ nhất, nếu vẫn quán Danh - Sắc trong sát-na hiện tại, hành giả sẽ nhận ra rằng, có rất nhiều Danh và Sắc, song việc quán vẫn không nhầm lẫn hai thứ với nhau. Chẳng hạn, khi sắc ngồi có sự đau nhức và hành giả biết được cái đau ấy, hành giả biết sắc ngồi đang khổ, mà không thấy cái khổ ấy như danh thọ (nāma - vedana). Nhưng bây giờ, hành giả thấy rằng sắc khổ và danh thọ (nāma - vedanā) biết rằng sắc khổ. Bởi thế, ở giai đoạn tuệ này, hành giả thấy được cả danh và sắc cùng hiện hữu do nhân và chúng làm duyên cho nhau. Muốn cho danh hoạt động, phải có sắc ý căn, căn môn và đối tượng (pháp trần).

Ngược lại, sắc tuỳ thuộc vào danh để hoạt động - như đi đứng, di chuyển, v.v... Khi hành giả nhận ra Danh - Sắc trong sát-na hiện tại do nhân duyên mà có, và chúng tuỳ thuộc lẫn nhau như vậy, hành giả biết rằng, danh sắc ấy không phải do Thượng đế hay một quyền năng siêu nhiên nào tạo ra.

Danh và sắc trong hiện tại thực sự được tạo ra từ những nhân quá khứ như vô minh (avijjā), tham ái (tanhā), thủ (upadāna), nghiệp (kamma). Và trong hiện tại, chúng cần thức ăn để tiếp tục sống. Khi hành giả, bằng trí tuệ, nhận ra sự thực này trong hiện tại, hành giả sẽ nhận ra nó cũng là vậy trong quá khứ, và chắc chắn sẽ là vậy trong tương lai. Tuệ tri ta được sanh ra theo cách này trong hiện tại (tức được tạo ra từ những nhân vừa kể), lúc này hành giả không còn hoài nghi gì về điều mình đã được tạo ra theo cách này trong quá khứ, và rồi chắc chắn sẽ được tạo ra theo cách này trong tương lai.

Trong Thất Tịnh (Bảy bước thanh tịnh), Tuệ thứ hai này được gọi là Kankhāvitaraṇa visuddhi - Ðoạn nghi thanh tịnh, hay Thoát ly hoài nghi thanh tịnh. Ở Tuệ này, hành giả cảm thấy thoải mái, bởi vì chắc chắn hành giả sẽ được tái sanh vào thiện thú (sugati) sau khi chết. Người chứng được Tuệ này được gọi là Tiểu Nhập Lưu (Culla Sotapanna).

3) Sammasanañaṇa - Tuệ Thẩm Sát Tam Tướng

Ở Tuệ trước, Tuệ nắm bắt duyên khởi, hành giả chỉ nhận ra nhân (sanh) của Danh và Sắc, chứ chưa thấy sự diệt của nó, bởi vì sự nối tiếp quá nhanh của Danh - Sắc. Vào giai đoạn này, Tuệ của hành giả vẫn còn yếu.

Nếu hành giả tiếp tục tiến hành để thấy danh sắc thường xuyên trong sát-na hiện tại, chẳng bao lâu, hành giả sẽ thấy sự diệt của Danh - Sắc. Tuy nhiên, trí tuệ này vẫn chưa đủ mạnh để thấy sự tách bạch của tính tương tục (santati). Chẳng hạn, khi đang ngồi, và chuyển sang đứng, hành giả sẽ thấy sự diệt ở oai nghi cũ (ngồi). Song khi hành giả đang ngồi trong sát-na hiện tại, hành giả không thấy được sự sanh và diệt của nó bởi vì trí tuệ vẫn chưa đủ mạnh. Tuy nhiên, hành giả vẫn có thể nhận ra ba đặc tính (tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã) trong Danh và Sắc. Ðây vẫn chưa phải là sát-na hiện tại thực sự mà chỉ phát sanh ở tuệ thứ tư.

Visuḍḍhi Magga (Thanh Tịnh Ðạo) gọi giai đoạn này là Tīraṇapariññaø - Thẩm Ðạt Tri.

Còn trong Thất Tịnh thì định danh tuệ này là Maggāmaggañāṇadassanavisuḍḍhi - Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh. Như vậy, tuệ này đã đưa hành giả vào con đường chân chánh, nghĩa là, đến được tuệ kế tiếp.

4) Udayabbayañāṇa - Sanh Diệt Tuệ

Ðây là trí tuệ nhận ra sự sanh và diệt của Danh - Sắc, và tính tương tục - santati (ảo tưởng về một sự liên tục của thân tâm) - giờ đây được thấy như là những trạng thái của Danh và Sắc, chúng thực sự tách biệt trong sát-na hiện tại của sự minh sát (vipassanā). Ở giai đoạn Tuệ này, hành giả thấy Danh và Sắc sanh diệt cùng một lần. Thực ra, theo Ðức Phật, Danh sanh và diệt nhanh hơn Sắc gấp 17 lần, nhưng sự quán sát của hành giả không đủ nhanh để thấy được điều này. Hành giả thấy cả hai (nāmarūpa) sanh và diệt cùng nhau. Tuệ này cho phép hành giả thấy rõ tam tướng trong Danh - Sắc, và nó có thể tẩy trừ phiền não ngủ ngầm trong tâm (nāma), đó là ái (taṇhā), ngã mạn (ảo tưởng về tự ngã), kiến (diṭṭhi), và các điên đảo tưởng (vipallāsa).

Sanh Diệt Tuệ còn cho hành giả biết là mình có đang theo đúng đạo lộ hay không. Nếu đạo lộ chân chánh, nó sẽ dẫn đến Niết bàn. Trí hiểu biết về chánh đạo này gọi là tuệ minh sát. Nếu đạo lộ không đúng thì đó là những phiền não của tuệ - có mười tuỳ phiền não loại này, từ Pāli gọi là Vipassanūpakkilesa (Tùy phiền não trong thiền minh sát - xem chi tiết ở những đoạn sau).

Nếu các tuỳ phiền não có mặt, điều đó có nghĩa sự thanh tịnh của hành giả không đủ để phát hiện ra chúng, bởi vì phiền não (kilesa) rất sâu kín và trí tuệ yếu thì khó có thể khám phá ra nó. Phiền não phát sanh ở đây là do có quá nhiều định, chính định này kéo hành giả ra khỏi tuệ minh sát, làm cho hành giả lầm chấp vào những hiện tượng khác mà cứ ngỡ đó là Niết bàn. Các hiện tượng này bao gồm hào quang sáng chói, hỷ lạc và sự an tịnh cực mạnh. Hành giả nào đã từng hành thiền định trong quá khứ và đã phát triển được định này sẽ thấy rằng, nếu định tâm xảy ra thường xuyên, nó sẽ là một chướng ngại lớn cho tuệ minh sát. Tín (saddhā) và tinh tấn quá nhiều cũng có thể là một chướng ngại. Mười tùy phiền não này có thể rất quyến rũ, vì vậyhành giả thường bị kéo vào trong các cảnh ấy và nghĩ rằng đó là Niết bàn, thậm chí còn không tin lời của vị thiền sư khi họ giải thích. Nếu hành giả không thể thoát khỏi các tuỳ phiền não này, hành giả không thể tiếp tục đi lên những tầng Tuệ cao hơn được .

Ðạo tri kiến tịnh (Paṭipadāñāṇadas-sanavisuḍḍhi) hay Thanh tịnh tri kiến liên quan đến đạo lộ chân chánh. Ðạo tri kiến tịnh này nảy sanh trong Tuệ thứ tư, nếu như pháp hành đúng. Sở dĩ tuệ này được gọi là Ðạo tri kiến tịnh vì đó là con đường đúng đắn không lẫn phiền não, tham áisi mê. Cả ba đặc tánh hay Tam tướng đều được thấy rõ trong tuệ sanh diệt này, vì thế nó rất là quan trọng. Trí tuệ càng mạnh thì phiền não càng bị trừ diệt nhiều hơn. Khi việc quán sát Sắc trở nên rõ ràng, hành giả cũng sẽ tự thấy Danh.

Các tuỳ phiền não trong minh sát (vipassa-nūpakkilesa), như đã đề cập ở trước, có mười:

Hào quang (obhāsa). Khi hành giả thấy ánh sáng phát ra quanh mình, hành giả có thể nghĩ rằng mình đã đạt đến Niết bàn, do đó cảm thấy thoả mãn với cảm giác này, làm cho ái phát sanh. Ðây là tà kiến, chính tự ngã của hành giả đã nghĩ như vậy.

Trí tuệ (ñāṇa). Một số hành giả phát sanh trí tuệ nhạy bén thấu rõ pháp học và nghĩ mãi đến nó. Sự kiện này sẽ kéo hành giả ra khỏi sát-na hiện tại.

Hỷ (pīti). Do hành giả có quá nhiều định (samàdhi) nên cảm giác hỷ lạc phát sanh, và đây là một loại phiền não. Khi hành thiền minh sát, hành giả không thể có hỷ, bởi vì việc quán tam tướng không dẫn đến thọ hỷ.

An tịnh (passaddhi). Có lúc, một trạng thái rất an lạc sẽ phát sanh, trạng thái này cũng phát xuất từ việc có quá nhiều định. Tam tướng không thể được chứng ngộ với an tịnh, và dĩ nhiên trí tuệ cũng không thể phát triển từ trạng thái ấy.

Lạc (sukha). Thọ lạc cũng là do có quá nhiều định. Khi lạc sanh, hành giả không thể thấy khổ (dukkha).

Quyết tín (adhimokkha - saddhā). Ðức tin kiên quyết này khiến hành giả nghĩ rằng mình đã thấy Niết bàn, và thường không tin ngay cả vị thiền sư là thầy của mình, khi vị này giải thích (ngược lại với những gì hành giả nghĩ là đúng). Sự kiện này phát sanh do có quá nhiều đức tin và ít trí tuệ (thông thường thì tín và tuệ phải được quân bình).

Tinh cần (paggaha). Tinh tấn thái quá có thể làm cho hành giả mệt mỏi, tâm không trong sáng và dễ bị phóng tâm. Thường thường, tinh tấn và định phải được quân bình. Quá nhiều tinh tấn dẫn đến phóng tâm; trong khi định thái quá thì khiến hành giả ngưng hành (quán).

Niệm (upaṭṭhāna). Niệm thái quá có thể đưa đến định thái quáhành giả sẽ thấy các ấn chứng (nimitta, các tướng xuất hiện trước mắt hành giả). Khi đó, đối tượng Danh - Sắc sẽ mất, tức là hành giả không còn trong sát-na hiện tại, do đó không thể tiếp tục quán sát được nữa.

Xả (upekkhā). Có khi xả phát sanh và hành giả tưởng lầm mình không còn phiền não nữa - nghĩa là các phiền não đã bị Niết bàn tẩy trừ - mà thực ra, phiền não vẫn còn nguyên; tham, sân, si chỉ tạm thời vắng mặt. Ở giai đoạn này, hành giả không thể tiếp tục việc thực hành của mình được cho đến khi nhận ra các tuỳ phiền não này.

Dục cầu (nikanti). Hành giả cảm thấy vui thích với các tuỳ phiền não trên và thoả mãn khi duy trì được nó. Do đó, hành giả không thể tiếp tục việc thực hành của mình.

Vipassanūpakkilesaphiền não của thiền minh sát, chúng nảy sanh vì định thái quá. Những tuỳ phiền não này cho hành giả quan kiến sai lầm rằng mình đã đạt đến trạng thái không còn phiền não hay đạt đến Niết bàn. Chính do cảm giác này mà hành giả nghĩ "Ta" đã đạt đến Niết bàn, và dĩ nhiên cảm giác ấy là bất tịnh, bởi vì nó được nảy sinh từ sự thực hành với một cái "Ta" ở trong tâm. (Ðây không phải là vipassanā, bởi vì vipassanā không thực hành với một cái "Ta").

Cảm giác này rất tốt đối với thiền chỉ, nhưng không có lợi cho thiền minh sát (vipassanā). Thiền chỉ đòi hỏi phải có định tâm mạnh, bởi vì thiền chỉ cần phát triển các ấn chứng (nimitta), nhưng thiền minh sát lại không.

Các tuỳ phiền não này sẽ không phát sanh ở ba loại hành giả:

- Hành giả nào không hành Vipassanā đúng cách. Trong trường hợp này, các phiền não cũng khởi lên nhưng không gọi là những phiền não của thiền tuệ hay tuỳ phiền não được .

- Hành giả nào tinh tấn yếu. Do yếu tinh tấn, định sẽ không phát sanh.

- Hành giả đã là bậc Thánh (Ariya) và biết đạo lộ chân chánh.

Khi hành giả loại trừ được các tuỳ phiền não, không mấy chốc, hành giả sẽ thấy sự sanh và diệt của Danh và Sắc thật rõ ràng. Trong Thất Tịnh thì Tuệ thứ tư này cho đến Tuệ thứ mười một (Anuloma: Thuận Thứ Tuệ) được gọi là Paṭipadāñāṇadassanavisuḍḍhi - Ðạo Tri Kiến Tịnh.

5) Bhangañāṇa - Hoại Diệt Tuệ

Tuệ nầy là tuệ chỉ thấy khía cạnh diệt của Danh và Sắc. Hành giả thấy sự phân tán của năm uẩn cả bên trong (tâm) lẫn bên ngoài (đối tượng). Chẳng hạn, hành giả thấy sắc ngồi diệt và cũng thấy luôn danh biết sắc ngồi diệt nữa.

Hiện tượng này, điều mà hành giả chưa từng thấy trước đây, tạo ra một cảm giác kinh hoàngsợ hãi nơi hành giả. Tuệ này đủ mạnh để nhổ bật gốc si mê (moha) với tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Cảm giác về sự diệt mạnh đến nỗi hành giả chỉ tập trung vào đó mà không chú ý đến khía cạnh sanh (của Danh và Sắc). Tuệ thấy sự hoại diệt của Danh - Sắc này có một ảnh hưởng đáng sợ trên hành giả bởi vì hành giả nhận ra rằng, các pháp trên thế gian này là không có thực thể, chúng có đó rồi lại không.

Khi đạt được Hoại Diệt Tuệ này, hành giả sẽ tiêu diệt được điên đảo tưởng (vipallāsa) - tưởng rằng thân và tâm này là thường (nicca - vipallāsa). Khi đắc Tuệ này, hành giả cũng sẽ cảm nhận được rằng đâu là pháp hành đúng, và không muốn hành những pháp hành bất chánh khác nữa.

Tuệ này là bước đầu tiên của sự trừ diệt phiền não (tức mở đầu của giai đoạn Pahānapariññā - Trừ Ðạt Tri - từ Tuệ thứ 5 cho đến Tuệ 14 (Ðạo Tuệ, Maggañāṇa). Các phiền nãohành giả đã từng đa mang qua bao cuộc du hành trong vòng sanh tử luân hồi (samsāra vatta) giờ đây bắt đầu bị bứng gốc.

Tuệ này đem lại 8 lợi ích:

- Hành giả nhận ra rằng không có lạc thực sự trong bất kỳ một sanh hữu tương lai nào.

- Trong kiếp hiện tại này, hành giả cũng không thấy có lạc, bởi vì hành giả đã nhận ra tính khổ não của cuộc đời.

- Hành giả phát triển một ước muốn mãnh liệt - muốn đoạn tận khổ.

- Nếu là một tu sĩ, Tuệ này sẽ dẫn hành giả đến chỗ ước muốn có một cuộc sống tri túc với những vật dụng giản đơn.

- Nó cũng làm cho vị tu sĩ có một nguyện vọng tha thiết: sống tuân thủ giới luật.

- Hành giả đã đạt đến Tuệ này thì không thể nào phá giới.

- Ðối với những nhu cầu của cuộc sống, hành giả dễ chấp nhận với những gì đã có, nếu có bị khiêu khích cũng không dễ nóng giận, biết kham nhẫn độ lượng với những phiền não của người khác.

- Không cảm thấy phiền muộn bởi những náo động bên ngoài, chẳng hạn như tiếng ồn, v.v...

6) Bhayatupaṭṭhānañāṇa - Kinh Úy Tuệ

Ở Tuệ này, trí tuệ nhận ra rằng Danh - Sắc quả thật là nguy hại. Ở Tuệ trước, hành giả đã nhận ra khía cạnh tan hoại của nó, cảm giác được tính không thực thể của Danh - Sắc, chúng sanh và diệt quá nhanh. Chính điều này khiến hành giả kinh hoàngsợ hãi.

Hành giả không phải chỉ thấy không có lạc ở danh sắc hiện tại mà ngay cả tái sanh vào bất kỳ một sanh hữu nào trong tương lai cũng là điều đáng sợ, như nó đã từng trong quá khứ vậy. Tuệ thứ sáu này khiến cho tham ái dừng lại, song chưa hoàn toàn tẩy trừ nó. Kinh Úy Tuệ được xem là đối trị của ái (tanhā), mặc dù vậy, nó cũng như xức thuốc lên chỗ ngứa. Khi thuốc tan, thì da ngứa trở lại.

7) Ādīnavānupassanāñāṇa - Quá Hoạn Tuệ

Khi hành giả đã chứng Tuệ thứ sáu (Kinh Úy Tuệ), việc hành thiền tiếp tục sẽ tự động dẫn đến Tuệ thứ bảy này - tuệ thấy Danh - Sắc như cội nguồn của hiểm họa và nguy hại. Từ Tuệ thứ nhất đến Tuệ thứ bảy này, mỗi tuệ làm duyên cho tuệ kế tiếp, và mỗi lần như vậy, tuệ giác lại càng mạnh hơn. Hành giả tuệ tri danh sắc như là mối hiểm họa, và cảm thấy rằng tốt hơn hết là không có Danh - Sắc.

Năm nguy hại mà hành giả nhận ra là:

1. Danh - Sắc trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) hiện ra như thể chúng nằm trong hầm lửa.

2. Tuệ tri rằng Danh - Sắc dù trong sanh hữu nào cũng bị bao vây bởi 11 ngọn lửa. Ðó là: sanh, già, chết, sầu, bi,... (xem lại 11 loại khổ). Hành giả cảm thấy rằng Danh - Sắc quả thật nguy hiểm, tai họa và là cội nguồn của khổ đau.

3. Tuệ tri nhân sanh Danh - Sắc là vô minh (avijja), và vô minh ấy chính là mối nguy hại vì nó dẫn đến sanh, lão, bệnh, tử.

4. Tuệ tri rằng Danh - Sắc đang lão suy và tan rã trong từng sát-na, và đây là sự nguy hại.

5. Tuệ tri rằng phải sanh lại trong vòng luân hồi là điều nguy hại, là mối hiểm nguy, bởi vì Danh - Sắc là cội nguồn của đau khổ, dù sanh hữu nào cũng vậy, nó chỉ có thể dẫn đến đau khổ thêm nữa mà thôi.

Khi năm điều nguy hại này đã được nhận ra thì những lợi ích từ sự kiện này cũng được nhận ra. Hành giả thấy rằng:

- Không còn tái sanh là lạc, và rằng ở đâu không có Danh - Sắc thì ở đó là nơi đáng mong cầu.

- Nếu không còn tái sanh trong bất kỳ sanh hữu nào, chắc chắn sẽ an lạc, và chính điều này dẫn đến Niết bàn.

- Nếu không còn nhân sanh (samudaya) Danh - Sắc, chắc chắn sẽ có sự giải thoát khỏi khổ.

- Nơi nào không có Danh - Sắc biến hoại, nơi đó là nơi an lạc (Niết bàn).

- Không còn phải chịu tái sanh trong vòng luân hồiphúc lạc và cội nguồn của hạnh phúc.

Ở Tuệ này, hành giả nhận ra rằng Danh - Sắc hay ngũ uẩn là thực tánh (sabhāva) của Pháp, và thực tánh ấy chính là trạng thái gây ra nguy hại. Tuệ này có một năng lực rất mạnh ngăn được tham ái, không cho tạo ra điên đảo tưởng ở trong tâm.

Trí tuệ ở Tuệ này là đối trị của tham ái, nó làm cho tham ái khó bề hoạt động. Nói chung, tham ái lúc này không có chỗ trú ngụ trong các cảm thọ vì toàn thế gian (năm uẩn) lúc này được thấy như mối hiểm họa, nguy hại và không có lạc.

Ở giai đoạn này, hành giả không còn thấy niệm (sati) là thiện, mà đơn thuần chỉ là một điều gì đó mang dấu ấn của tam tướng. Tuy nhiên, niệm vẫn cứ tiếp tục làm nhiệm vụ của nó. Ngay cả trí tuệ (paññā) lúc này cũng được thấy mà không còn cảm giác ưa hay ghét trong đó. Sở dĩsự kiện này bởi tham áità kiến không còn để có thể khiến hành giả phải ưa thích niệm và tuệ vậy.

Tâm nào sắp đạt đến Niết bàn cũng cần phải tiếp tục thực hành cho đến khi đạt được cảm giác này (tức cảm giác tham áikẻ thù). Lúc ấy, tâm sẽ tách ra khỏi vòng luân hồiđi vào đạo lộ Niết bàn.

Ngược lại, nếu hành giả nghĩ rằng Danh - Sắc là tịnh, là thường, là lạc, lúc ấy tâm không thể tách ra khỏi vòng luân hồi, không thể tiếp tục để đạt đến Niết bàn đoạn tận khổ đau. Tâm phải nhận ra khổ (dukkha), và tuệ chứng tri khổ này sẽ đưa hành giả đến Niết bàn. Niết bàn không thể chứng ngộ bằng tâm định (samādhi), bởi vì định làm phát sanh điên đảo tưởng cho rằng năm uẩn là lạc (sukhavipallāsa)hành giả không thể nhận ra sự thực rằng Danh - Sắc là hiểm họa.

8) Nibbidānupassanāñāṇa - Yếm Ly Tuệ

Qua mỗi cấp độ Tuệ, trí tuệ càng trở nên mạnh mẽ hơn. Ðến Tuệ thứ tám này, một cảm giác yếm ly hay nhàm chán khởi lên đối với Danh - Sắc (năm uẩn), do kết quả của Tuệ trước (Quá Hoạn Tuệ). Trong sự nhàm chán này, không có tâm sân, mà chỉ có trí tuệ. Từ đó dẫn hành giả đến ước vọng không muốn tái sanh lại nữa, dù trong bất kỳ sanh hữu nào, ngay cả ở địa vị cao cả nhất như vua chúa hay đại phú gia cũng vậy. Cũng giống như một người đứng trước hai con đường: hắc lộ là con đường đưa đến tái sanh trong vòng luân hồi và bạch lộ là con đường giải thoát của Niết bàn. Do có sự yếm ly đối với Danh - Sắc nên hành giả không thấy có lạc trong hắc lộ, và bạch lộ dẫn đến Niết bàn lôi cuốn hơn. Tuệ Yếm Ly này xuất phát từ việc thoát ly khỏi tham ái. Nếu sự thoát ly tham ái được hoàn tất, nó được gọi là Virāga (ly tham). Từ ly tham, dẫn đến giải thoát (vimutti). Giải thoát dẫn đến Niết bàn.

Hành giả đạt đến Yếm Ly Tuệ ít nhất cũng chứng tri một trong ba đặc tánh của Tam Tướng. Nếu trong sự yếm ly ấy cảm thấy có sân (dosa) thì đó không phải là Nibbidā -ñāṇa (Yếm Ly Tuệ), bởi vì loại yếm ly này không thể thấy ba đặc tánh vậy.

Người thực hành vipassanā mong tầm cầu sự giải thoát khỏi luân hồi, nếu đạt đến Tuệ này, mọi phiền não, dù có mạnh đến đâu, cũng sẽ được làm cho muội lược và thoát ly. Từ Tuệ này, lộ trình tâm (vithī-citta) bắt đầu dẫn vào con đường Niết bàn.

Cảm giác nhàm chán ở Tuệ này được cô đọng trong bài kệ Pháp Cú sau:

"Nhất thiết hành vô thường,
tuệ quán chiếu thời
Ðắc yếm ly ư khổ
Thử nãi thanh tịnh đạo"

"Tất cả hành vô thường,
Với tuệ, quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán,
Chính con đường thanh tịnh".

Chú thích:

(1) Vithī-citta (lộ trình tâm hay đường đi của tâm) đưa đến đaonj diệt (nirodha) là: nibbidà (yếm li), viràga (ly tham) và tadanganirodha (nhất thời đoạn diệt bằng sự tahy thế các đối nghịch pháp). Một ví dụ về tadanganirodha này là ở Tuệ thứ nhất, tà kiến về tự ngã dược thay thế bằng chánh kiến.

9) Muñcitukamyatāñāṇa - Dục Thoát Tuệ

Sau khi đã nhận ra sự nguy hiểm và tai hoạ của Danh - Sắc ở Tuệ thứ bảy, và yếm ly ở Tuệ thứ tám, giờ đây hành giả ước muốn mãnh liệt - giải thoát khỏi Danh - Sắc (Dục Thoát Tuệ). Cũng như người bị nhốt trong tù, lúc nào cũng mong thoát khỏi chỗ đó vậy.

Các Tuệ thứ sáu, thứ bảy và thứ tám có liên quan với nhau, mỗi cấp độ mỗi mạnh hơn trước. Kinh Uý Tuệ (6) dẫn đến Quá Hoạn Tuệ (7), Quá Hoạn Tuệ dẫn đến Yếm Ly Tuệ (8). Từ Tuệ thứ chín (Dục Thoát Tuệ) này sẽ dẫn lối vào Niết bàn. Chính ước muốn giải thoát đó thúc đẩy hành giả tinh tấn hơn nữa trong pháp hành để chứng ngộ Niết bàn.

10) Paṭisankhānupassanāñāṇa - Giản Trạch Tuệ

Trong các Tuệ trước, sự kinh sợ, nguy hại và yếm ly dẫn đến ước muốn giải thoát khỏi Danh - Sắc (Tuệ thứ chín). Ở Tuệ này, được thúc đẩy bởi ước muốn thoát khỏi Danh - Sắc, hành giả (được dùng cho dễ hiểu chứ giờ đây chỉ có trí tuệ - paññā - làm nhiệm vụ, không có đàn ông, đàn bà hay người gì cả) cố gắng tìm cách thoát ly, nhưng vẫn chưa biết phải làm thế nào. Khi vừa nhận ra tam tướng trong Danh - Sắc thì cảm giác thoát ly khỏi nó khởi lên mạnh mẽ hơn.

Nguyên nhân làm phát sanh ước muốn giải thoát là từ Tuệ thứ bảy, thứ tám và thứ chín. Cả ba Tuệ hợp lại tạo ra một tuệ giác rất mạnh và trong sáng. Chính trí tuệ này ước muốn đoạn trừ phiền nãocố gắng tìm phương cách giải thoát: con đường đi đến chỗ đoạn tận vòng luân hồi (samsāravata) - mà dường như cái vòng này là bất tận. Ở Tuệ này, hành giả thấy tam tướng thường xuyên hơn ở các Tuệ trước. Khi đã thấy rằng Danh - Sắc là vô thường, khổ, vô ngã, ước muốn đoạn tận khổ sẽ khởi lên mạnh mẽ hơn.

(Ðức Phật nói rằng chỉ có tuệ tri Tam Tướng mới có thể thoát khổ. Người hành thiền khi chưa thấy được Tam Tướng thì không thể nào thoát khỏi luân hồi. Chỉ một con đường độc nhất đưa đến Niết bàn - phải thấy Danh - Sắc như Vô Thường - Khổ - Vô Ngã).

11) Sankhārupekkhāñāṇa - Xả Hành Tuệ

Trí tuệ này khiến tâm thản nhiên đối với Danh - Sắc (sankhàra hay thân hành và ý hành) phát triển, không còn chấp thủ hay luyến ái đối với Danh - Sắc mà từ lâu chúng ta vẫn nghĩ nó như là "ta", "của ta", "tự ngã của ta" nữa. Tuy nhiên, sự thản nhiên (xả) này được kết hợp với tâm yếm ly.

Hành Xả Tuệ, được phát triển từ Tuệ trước, có năng lực rất mạnh và chính nó thấy rõ được rằng Năm Uẩn (Sankhāra)vô ngã - không phải đàn ông, đàn bà, người hay thú gì cả - và cũng thấy rằng sự sống đang rút ngắn lại, không sớm thì muộn con người cũng phải chết, hoàn toàn không có lạc trong Danh - Sắc.

Khi tâm với trí tuệ nhận ra Danh - Sắc là Không (Suññata), nó không còn quan tâm đến Danh - Sắc nữa, mà chỉ thấy thế gian là rỗng không. Bởi lẽ đó mới gọi là tâm có xả - không ghét cũng không ưa đối với Danh và Sắc, mà thản nhiên với sự yếm ly. Giờ đây tâm muốn đạt đến Niết bàn, nó không màng đến Danh và Sắc nữa.

Tuệ ở cấp độ này là trí tuệ minh sát (vipassanā) cao nhất trong hiệp thế. Nó sẽ đưa hành giả đến Tâm Ðạo (Magga Citta) và Tâm Quả (Phala Citta), hành giả sẽ trở thành một vị Thánh (Ariyapuggala). Ðó là trí tuệ cực mạnh và có thể loại trừ phần lớn các phiền não bởi vì nó thấy Tam Tướng rất rõ. Tuệ này sẽ dẫn đến ước muốn (chanda) chứng đắc Niết bàn.

Tuệ thứ chín (Dục Thoát Tuệ), Tuệ thứ mười (Giản Trạch Tuệ) và Tuệ thứ mười một (Xả Hành Tuệ) có liên quan với nhau, nhưng tuệ giác ở giai đoạn này vẫn mạnh hơn.

Tâm có xả với bất kỳ một trong ba đặc tánh nào cũng vậy, được gọi là tâm giải thoát. Nếu tâm được giải thoát và hướng đến Niết bàn bằng Vô thường tuỳ quán (Aniccānupassanā), thì được gọi là Vô Tướng Niết bàn (Animitta-nibbāna).

Nếu tâm được giải thoát và hướng đến Niết bàn bằng Khổ tuỳ quán (Dukkhanupassanā), thì được gọi là Vô Nguyện Niết bàn (Appaṇihita-nibbāna)

Nếu tâm được giải thoát và hướng đến Niết bàn bằng Vô ngã tuỳ quán (Anattānupassanā), thì được gọi là Không Tánh Niết bàn (Suññata-nibbāna).

12) Anulomañāṇa - Thuận Thứ Tuệ

Tuệ này giúp hành giả chứng ngộ Tứ Thánh Ðế vì đó là một loại trí tuệ viên mãn. Trí tuệ này phát xuất từ cấp độ tuệ trước, nhưng tín, tấn, niệm và tuệ mạnh hơn - bởi vì nó đã chứng ngộ Khổ Ðế (Dukkhasacca) và Tập Ðế (Samudayasacca). Nếu nói dưới dạng 37 Pháp Trợ Giác Ngộ (Bodhipakkhiyadhamma), thì Tuệ này viên mãn ở mức Thất Giác Chi (Bojjhanga) bởi vì nó giúp chứng ngộ Tứ Thánh Ðế.

Có ba bậc tuệ trong Ðạo Phật (xem hình 3-1).

Trí Ðạt Tri (Ñātapariññā) gồm các Tuệ thứ nhất và thứ hai.
Thẩm Ðạt Tri (Tīraṇapariññā) gồm các Tuệ thứ ba và thứ tư.
Trừ Ðạt Tri (Pahānapariñña) gồm các Tuệ từ thứ năm đến Tuệ thứ mười bốn.

Vipassanā-dhūra (phận sự của minh sát) bắt đầu từ Tuệ thứ nhất và loại trừ phiền não từng bước một, cho đến Tuệ thứ mười hai (Anuloma). Tuệ ở giai đoạn này vẫn còn là tuệ thế gian (lokiya), nó có những phận sự hiệp thế. Ở Tuệ Thuận Thứ (Anulomañāṇa), hai Thánh đế Khổ và Tập đã được chứng ngộ, dùng Tam Tướng như đối tượng. Như vậy Danh - Sắc được sử dụng làm đối tượng quán chiếu cho đến Tuệ thứ mười hai này là chấm dứt, và cũng còn gọi là Vipassanāñāṇa (Minh sát tuệ).

Anulomañāṇa (Thuận Thứ Tuệ) là trí tuệ có phận sự đưa một trong tam tướng sang Maggavīthicitta (Thánh Ðạo lộ trình tâm). Sự kiện này xảy ra chỉ trong ba sát-na tâm (cittakhaṇa). Thuận Thứ Tuệ phát xuất từ Xả Hành Tuệ (Tuệ thứ 11) và nó hỗ trợ hay trợ duyên (paccaya) cho Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhūñāṇa) thứ mười ba.

Tiến trình chuyển từ Anulomañāṇa sang Gotrabhūñāṇa này diễn ra như sau:

minhsattutap-dohinh185

Cũng giống như người đu trên một sợi dây vượt qua dòng suối. Việc nắm sợi dây là giai đoạn Parikamma - chuẩn bị. Giai đoạn này chuẩn bị cho hành giả nhập vào Thánh đạo tâm (Maggacitta). Kế tiếp, sợi dây đưa hành giả ra giữa dòng hay Upacāra - Cận Thánh đạo tâm; và Thuận Thứ Tuệ - Anulomañāṇa - sẽ đưa hành giả chạm bờ bên kia. Khi hành giả buông xuống bờ kia, tâm liền ở trong Chuyển Tộc Tuệ - Gotrabhūñāṇa. Lúc này, tâm lấy Niết bàn làm đối tượng.

Anulomañāṇa là Tuệ cuối cùng nằm trong lãnh vực hiệp thế - nghĩa là nó còn lấy Danh - Sắc làm đối tượng. Từ Tuệ này trở đi, Niết bàn trở thành đối tượng.

Cách thức mô tả ở trên, trong đó tâm hiệp thế chuyển thành siêu thế, được gọi là quy luật vận hành của pháp (dhammaniyāma).

13) Gotrabhūñāṇa - Tuệ Chuyển Tộc

Ðây là trí tuệ nảy sanh trong Thánh đạo lộ trình tâm (Maggavīthicitta), nghĩa là lộ trình tâm chuyển sang đạo tuệ (maggañāṇa), tức Tuệ thứ mười bốn. Tuệ này không giống với các Tuệ khác ở chỗ trong khi đối tượng của nó là Niết bàn nhưng tâm vẫn còn là tâm hiệp thế. Mặc dù Danh - Sắc đã được buông bỏ, nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn là tâm siêu thế (lokuttaracitta). Ở tuệ trước, cả tâm lẫn đối tượng đều thuộc về hiệp thế.

Trí tuệ của tâm trong Tuệ này sẽ chuyển hoá hành giả từ phàm sang Thánh. Nó là tâm đầu tiên trong vòng luân hồiNiết bàn là đối tượng. Mặc dù Niết bàn là đối tượng, song Tuệ này vẫn không thể thủ tiêu hoàn toàn mọi phiền não (samuccheda).

Thiền sư Achaan Naeb nói rằng Tuệ này cũng giống như một công nhân mới vào nghề, chưa hoàn toàn quen thuộc với công việc của mình, và đó là lý do tại sao Tuệ này lại không thể thủ tiêu hoàn toàn mọi phiền não vậy.

14) Magga-ñāṇa - Ðạo Tuệ

Ðây là trí tuệ phát sanh trong tâm thường được gọi là Maggacitta - Tâm đạo. Maggacitta phát xuất, hay tiếp nhận duyên trợ tạo của nó từ Chuyển Tộc Tuệ (Tuệ 13). Tuệ này lấy Niết bàn làm đối tượng, giống như Tuệ thứ mười ba, song nó hoàn toàn diệt trừ được những phiền não nào nằm trong phận sự của nó và cả tâm lẫn đối tượng đều thuộc siêu thế.

Phiền não ở Tuệ này hoàn toàn bị thủ tiêu bởi năng lực của tâm đạo. Ðây là tâm đầu tiên trong bốn Thánh Ðạo Tâm dẫn đến Nhập Lưu Ðạo (Sotapanna). Dù Maggacitta làm phận sự diệt phiền não chỉ trong một sát-na tâm (cittakhaṇa), song nó giảm sự tái sanh trong tương lai chỉ còn tối đa là bảy kiếp nữa mà thôi.

Tuệ này còn được gọi là Sammādiṭṭhi (chánh kiến) trong Bát Thánh Ðạo và chánh kiến ở đây tức là chánh tri Tứ Thánh Ðế. Trí tuệ trong đạo tuệ này có thể so sánh với tia chớp trong một cơn bão có sấm sét, bởi nó rất mạnh, rất sáng và rất bất ngờ.

Khi Tâm Ðạo phát sanh lần thứ nhất, nó được gọi là Sotàpattimagga (Nhập Lưu Thánh Ðạo). Ba lần phát sanh sau cho ba Ðạo cao hơn (xem chú thích*) Vị hành giả, lần đầu tiên, trở thành bậc Thánh nhân (Ariyapuggala), không còn phải tái sanh vào bốn ác đạo (apāya) nữa.

Tuệ này nằm trong tâm thiện siêu thế (lokuttara-kusala). Có bốn tuệ thuộc thiện siêu thế là:

Sotāpattimaggañāṇa: Nhập Lưu Thánh Ðạo Tuệ.
Sakadāgāmimaggañāṇa
: Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ.
Anāgāmimaggañāṇa:
Bất Lai Thánh Ðạo Tuệ.
Arahattamaggañāṇa
: Alahán Thánh Ðạo Tuệ.

15) Phalañāṇa - Quả Tuệ

Trong Thất Tịnh, Tuệ này là Nñāṇadassana-visudïdïhi, tức Tri Kiến Thanh Tịnh. Khi Tâm Ðạo phát sanh trong Tuệ trước (Ðạo Tuệ) và có Niết bàn là đối tượng, nó hủy diệt hoàn toàn các phiền não, liền đó, ở Tuệ này, tâm quả (phalacitta) khởi lên, hành giả cảm giác một sự an lạc sâu lắng. Kết quả này là quy luật vận hành của pháp (dhammaniyāma), nghĩa là tâm quả luôn luôn sanh tiếp sau tâm đạo vậy. Khi tâm quả phát sanh, có khi xảy ra trong ba sát-na tâm, có khi chỉ có hai. Hành giả thuộc hạng lợi căn (có trí tuệ nhạy bén), với ba sát-na tâm, bỏ qua sát-na Parikamma (Chuẩn bị) và bắt đầu với Upacāra (Cận thánh đạo tâm), tiếp đến Anuloma (Thuận thứ), Gotrabhū (Chuyển tộc), Magga (Ðạo), và Phala (Quả) ba lần, thay vì hai.

Phalacitta là Tâm Quả siêu thế, Lokuttara-vipāka. Nó là kết quả từ tâm đạo, tâm quả sanh lên, rồi diệt - không có phận sự gì cả. Sau khi nó diệt, Niết bàn không còn là đối tượng nữa. Trong Quả Tuệ (Phalañāṇa), hành giả trở thành bậc Thánh lần thứ nhì (lần đầu là ở Ðạo Tuệ - thứ 14). Lúc này, hành giả được gọi là Người-Sơ-Quả (Sotapatti-phala-puggala), và chắc chắn sẽ giải thoát hoàn toàn trong không hơn bảy kiếp tái sanh nữa.

Tuệ Quả này hoàn tất giai đoạn Sở Tác Trí (Katañāṇa) trong ba Giai Ðoạn Tuệ.

(Ba Giai Ðoạn Tuệ hay Trí (ñāṇa) là: Sự Thật Trí (Saccañāṇa), Sở Dụng Trí (Kiccañāṇa)Sở Tác Trí (Katañāṇa).)

16) Paccavekkhanañāṇa – Phản Khán Tuệ

Ở Tuệ này, hành giả tác ý lại năm pháp mà hành giả đã chứng ngộ trong Tuệ trước.

Maggañāṇa – Ðạo Tuệ thứ 14.
Phalañāṇa
– Quả Tuệ thứ 15.
Nibbāna
Niết bàn.
Các phiền não (kilesa) đã đoạn trừ.
Các phiền não còn tồn tại.

Phản Khán Tuệ này phát xuất từ Quả Tuệ thứ 15, và nó trở về trạng thái hiệp thế. Bởi lẽ Niết bàn không còn là đối tượng nên hành giả trở lại tâm hiệp thế (lokiyacitta).

Bậc chứng đắc Tuệ này nếu còn nằm trong ba cấp độ đầu của sự chứng đắc, tức Tu đà hoàn, Tư đà hàmA na hàm, được gọi là bậc Hữu học (Sekkhapuggala). Nếu là bậc Alahán, ở Tuệ này vị ấy chỉ tác ý đến bốn trong năm pháp trên mà thôi, vì bậc Alahán không còn phiền não nữa. Tuy nhiên, không phải các bậc Hữu học đã đạt đến giai đoạn Tuệ này đều phải tác ý đến tất cả năm pháp kể trên. Một số vị, do tuệ mạnh, chỉ tác ý ba pháp đầu mà không cần phải phản khán lại các phiền não.

Tuệ ở Phản Khán Tuệ này khác với tuệ ở Ðạo và Quả - nơi đây Niết bàn là đối tượng của sát-na hiện tại, trong khi ở Tuệ Phản Khán này, hành giả chỉ đơn thuần quán chiếu lại, chứ không còn trong sát-na hiện tại nữa. Như vậy, Ðạo – Quả Tuệ có thể được so sánh với việc nếm muối, còn phản khán tuệ thì như ngẫm nghĩ lại xem vị muối ấy là như thế nào. Chính vì thế mà Tuệ này không phải là Lokuttaracitta (Tâm siêu thế), mà là Lokiyacitta (Tâm hiệp thế). Mặc dù đó là Tuệ hiệp thế, Thất Tịnh vẫn xếp nó vào Tri Kiến Thanh Tịnh (Nñāṇadassanavisuḍḍhi), và cũng được xếp dưới phân hạng tuệ siêu thế. Sở dĩ như vậy là vì Tuệ này phát xuất từ Ðạo Tuệ và Quả Tuệ vậy.

GHI CHÚ:

1) Ở tầng thực chứng đầu tiên, Tuệ thứ 13 được gọi là Chuyển Tộc Tuệ - Gotrabhūñāṇa – bởi lẽ lúc này hành giả chuyển hoá từ phàm nhân (puthujjana) sang Thánh nhân (Ariyapuggala). Nhưng ở các tầng thực chứng tiếp theo (Tư đà hàm,…), Tuệ ấy được gọi là Vodānañāṇa – Tịnh Hoá Tuệ, bởi vì trong trường hợp này, người chứng đã là bậc Thánh. Tuy nhiên, Thánh Ðạo lộ trình tâm vẫn giống nhau cho mỗi lần chứng đắc.

2) Từ Tuệ thứ nhất đến Tuệ thứ 12 là tuệ hiệp thế; Tuệ thứ 13 là Tuệ chuyển tiếp: một phần là hiệp thế, một phần là siêu thế; Tuệ thứ 14 và Tuệ thứ 15 là siêu thế thực sự, trong khi Tuệ thứ 16 trở về lại hiệp thế.

3) Có 10 kiết sử (saṃyojana) trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi:

Thân kiếnSakkāyadiṭṭhi.
Hoài nghiVicikicchā.
Giới cấm thủ - Sīlabbataparāmāsa.
Dục áiKāmarāga.
Sân hậnPaṭigha.
Sắc áiRūparāga.
Vô sắc ái – Arūparāga.
Ngã mạnMāna.
Phóng dậtUddhacca.
Vô minhAvijjā.

Các bậc Thánh:

- Bậc Thánh Nhập Lưu (Sotapanna - Tu-đà-hoàn) diệt trừ được ba kiết sử đầu. Nhập Lưu nghĩa là người bước vào dòng dẫn đến Niết bàn. Vị ấy có thể phải trở lại cõi đời này nhưng không quá bảy kiếp, và dù còn tái sanh nhưng chắc chắn vị ấy không sanh vào bốn ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và atula.

- Bậc Thánh Nhất Lai (Sakadāgāmi - Tư-đà-hàm) làm suy yếu thêm hai kiết sử thứ tư và thứ năm. Vị Nhất Lai có thể trở lại cõi dục chỉ một lần nữa mà thôi. (Cõi Dục gồm cõi người và sáu cõi trời dục giới).

- Bậc Thánh Bất Lai (Anāgāmī - A-na-hàm) diệt hoàn toàn hai kiết sử thứ tư và thứ năm đã bị Tư Ðà Hàm đạo làm suy yếu trước đây. Vị Bất Lai không còn tái sanh trong Dục giới nữa.

- Bậc A-la-hán (Arahatta) đoạn diệt năm kiết sử còn lại. Bậc A-la-hán không bao giờ còn tái sanh trong tam giới.

4) Trong Thất Tịnh:

Tuệ thứ nhất - Tuệ Phân Biệt Danh - Sắc là Kiến Tịnh (Diṭṭhi-visuḍḍhi)

Tuệ thứ hai - Tuệ Nắm Bắt Duyên Khởi là Ðoạn Nghi Thanh Tịnh (Kankhāvitaraṇa-visudïdïhi).

Các Tuệ thứ ba và thứ tư là Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Thanh Tịnh (Maggāmaggañāṇadassana visuḍḍhi )

Các Tuệ từ thứ năm đến mười ba là Ðạo Tri Kiến Thanh Tịnh (Paṭipadāñāṇadassana visuḍḍhi)

Ba Tuệ mười bốn, mười lăm và mười sáu Tri Kiến Thanh Tịnh (Nñāṇadassana visuḍḍhi).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1383)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1395)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant