Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Tứ Thánh Đế

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6855)
17. Tứ Thánh Đế

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


TỨ THÁNH ĐẾ

Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế

Tam Tuệ Luân trong Khổ Thánh Đế

1- Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế (Saccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ (nāna) thấy rõ thực tánh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt (pannā) thấy rõ khổ sanh, khổ già... đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt màn vô minh che án Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) trong tam giới, ngoại trừ tâm tham ái ra, đều là Khổ Thánh Đế.

2- Trí tuệ hành biết Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ.

3- Trí tuệ thành biết Khổ Thánh Đế (Katanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên biết, thì đã được biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.

Tam Tuệ Luân trong Nhân sinh Khổ Thánh Đế

1- Trí tuệ học biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Saccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh ba loại tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh ba loại tham ái ấy là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay Tập Thánh Đế.

2- Trí tuệ hành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh ba loại tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ.

3- Trí tuệ thành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Katanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh ba loại tham áiNhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt, thì đã được diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.

Tam Tuệ Luân trong Diệt Khổ Thánh Đế

1- Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tánh mỗi loại Niết Bàn đã phát sinh; tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Niết Bànpháp Diệt Khổ Thánh Đế, hay Diệt Thánh Đế.

2- Trí tuệ hành biết trong Diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Niết BànDiệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.

3- Trí tuệ thành biết Diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Niết BànDiệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã được chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi.

Tam Tuệ Luân trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế

1- Trí tuệ học biết pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tánh của chánh kiến... đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế, hay ĐạoThánh Đế.

2- Trí tuệ hành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.

3- Trí tuệ thành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna)

- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi.

Vai trò quan trọng của Tam Tuệ Luân

- Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành), thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh chưa phát sinh đến với Như Lai.

Này chư Tỳ-khưu, khi ấy Như Lai chưa dám truyền dạy rằng Như Lai chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vươngphạm thiên cả thảy.

Này chư Tỳ-khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như Lai.

Này chư Tỳ-khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng, trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vươngphạm thiên cả thảy.

Trí tuệ quán xét (paccavekkhananāna)

Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến với Như Lai, biết rõ rằng: Arahán Thánh Quả Tuệ giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái sinh kiếp nào nữa.

Đại đức Kondanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế

Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ-khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Ngài. Trong khi bài pháp văn xuôi đang được thuyết giảng, thì Đại đức Kondanna đã phát sinh pháp nhãn chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ, tâm không còn ô nhiễm bởi phiền não, tà kiến, hoài nghi nữa; Ngài biết rõ ràng, chắc chắn rằng: “Tất cả các pháp nào trong tam giớitrạng thái sinh, thì tất cả pháp ấy đều có trạng thái diệt”.

Toàn thể chư thiên, phạm thiên tán dương, ca tụng

Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư thiên trên địa cầu đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Barānasī, chưa từng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như vậy được.

Đồng thời, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên địa cầu, cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Cũng như vậy, chư thiên trong cõi Tam Thập Tam Thiên, cõi Dạ Ma Thiên, cõi Đẩu Suất Đà Thiên, cõi Hóa Lạc Thiên, cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.

Phạm thiêncõi trời sắc giới được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên trong cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sanh nai gọi là Isipatana, gần thành Barānasī, chưa tùng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như vậy được”.

Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay sát- na ấy, lời tán dương ca tụng lên đến cõi sắc giới phạm thiên cao nhất là Sắc cứu cánh thiên(Akanitthā), mười ngàn thế giới này đều rung chuyển, rúng động, rung rinh, ánh sáng hào quang của Đức Chánh Đẳng Giác tỏa rộng vô biên cùng khắp thế giới, hơn hẳn oai lực chư thiên, phạm thiên cả thảy.

Đại đức Kondanna có tên Annasikondanna

Khi Đại đức Kondanna chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, Đức Thế Tôn hoan hỷ tự thốt lên cho toàn thế giới biết rằng:

- Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi!

Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi!

Do vậy, Đại đức Kondanna được gọi là Annasikondanna (Đại đức Kondanna đã chứng ngộ).

Đại đức Annasikondanna xin thọ Tỳ-khưu

Khi ấy, Đại đức Annasikondanna đã phát sinh trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, đã đạt đến chân lý Tứ Thánh Đế, đã biết rõ đúng theo chân lý Tứ Thánh Đế, đã thấu rõ, thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, nên đã diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi điều hoài nghi nơi Đức Phật, Đức Pháp,... không còn hoài nghi nào nữa, với trí tuệ thiền tuệ của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa.

Đại đức Annasikondanna thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng, con xin nương nhờ nơi Ngài, kính xin Ngài cho phép con được thọ Sa di và Tỳ-khưu.

Đức Thế Tôn từ bi đưa ngón tay trỏ chỉ và truyền dạy:

“Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyam sammā dukkhassa antakiriyāya”.

“Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh phápNhư Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”.

Đức Thế Tôn chỉ thuyết dạy như vậy, Đại đức Annasikondanna đã trở thành Tỳ-khưu (Xuất gia trở thành Tỳ-khưu theo cách gọi Ehi bhikkhū!).

(Xong bài kinh Chuyển Pháp Luân)

*

Trong khi lắng nghe Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, nhóm 5 Tỳ-khưu chỉ có Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, cùng với 180 triệu chư thiên, phạm thiên cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn tùy theo pháp hạnh ba-la-mật của mỗi vị.

Sau khi đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, Ngài Đại đức Koṇḍanna được Đức Phật cho phép thọ Sadi, Tỳ-khưu.

Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Đức Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía Ngài Koṇḍanna dạy rằng:

Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.

Nghĩa: “Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện! Chánh phápNhư Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”.

Thật kỳ diệu thay! Khi Đức Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướngĐạo sĩ của Ngài Đại đức Koṇḍanna biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo một Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn (là tam y, bình bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước) thành tựu do phước thần thông của Ngài. Vị Tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị Tỳ-khưu có 60 hạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 129)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 190)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 280)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 192)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 231)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 257)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 288)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 366)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 600)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 459)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 477)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 568)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 820)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 851)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 836)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 708)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 711)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 832)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 935)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 607)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 822)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 706)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 812)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 844)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 817)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 862)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 950)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1650)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1064)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1209)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1275)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1543)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2023)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1516)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1274)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant