Thúy Kiều, con của viên ngoại họ Vương, người ở Bắc Kinh. Nàng yêu kiều diễm lệ, có một thái độ phong lưu, tính thích hào hoa, thích âm luật, sở
trường về hồ cầm. Vốn đa cảm, giàu tình, nàng sáng tác bài "Bạc mệnh oán" để hát theo khúc hồ cầm, khi gảy lên nghe rất não nùng, ai cũng sa nước mắt. Một hôm, nhân tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng hai em đi tảo
mộ và nhân tiện xem hội Đạp Thanh. Lúc trở vê, Kiều nhìn bên dòng nước có một nấm mồ hoang cô lạnh, hỏi ra mới biết đó là mồ của nàng ca nhi tên Lưu Đạm Tiên. Trước sống mua vui cho khách làng chơi, chết làm ma không chồng trong nấm mồ vô chủ. Kiều cảm động, rơi nước mắt, khóc cho kiếp hồng nhan. Về
nhà, đêm khuya vắng vẻ, nàng cảm thấy một nỗi buồnman mác xâm chiếm cõi lòng. Nghĩ phận người lại nghĩ phận mình, hay kiếp hồng nhan rồi phải chung mạng bạc! Nàng tựa ghế thiu thiu, rồi ngủ say lúc nào không biết. Giữa lúc ấy, thấy một thiếu nữ tiến đến chào và hỏi rằng: - Này chị Thúy Kiều, đương lúc ngày xuân phơi phới sao không hỏi liễu tìm hoa, mà lại chịu ngủ ở nhà như vậy? Kiều
nghe nói, vội vàngđứng dậy, sửa áo đón mời, nhìn thấy thiếu nữ má đào,
môi hạnh, dáng điệu như tiên. Sau khi hai bên cùng ngồi, Kiều vội hỏi: - Chẳng hay nương tử ở tại cung nào mà xe loan thình lình hạ cố đến đây? Thiếu nữ tươi cười đáp: -
Thiếp đây nào phải ai đâu xa lạ, nhà thiếp ở phía tây cầu bên dòng nước
chảy. Chiều nay chị đã vãng qua, sao mà mau quên như thế? Hôm nay, thiếp ở trong "Hội đoạn trường", trước mặtGiáo Chủ, thiếp có khen đến tài hoa của chị. Giáo Chủ rất vui mừng và cho biết rằng chị cũng có chân
trong hội ấy. Rồi người trao cho thiếp mười cái đầu đề đoạn trường, bảo
đem lại cho chị vịnh. Vậy yêu cầu chị thảo ngay để cho thiếp xếp vào tập "Đoạn trường sách". Kiều hỏi: - Em xin lãnh ý, nhưng xin chị cho biếtĐoạn TrườngGiáo Chủ là ai? Có thể đưa em đến yết kiến được không? Thiếu nữmỉm cười đáp: - Lúc này chị không cần hỏi kỹ, một ngày khác, chị sẽ hiểu rõ đấy mà. Đoạn,
nàng trao tập đầu đề. Kiều tiếp lấy, mở ra xem. Đây là mười đầu đề: Tích đa tài, Liên bạc mạng, Bi kỳ lộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh
xuân, Ta kiển lộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên, Khốc tương tư. Kiều xem xong, vui vẻ nói: - Đầu đề rất hay, vậy em xin thảo ngay. May bài của em chiếm khôi nguyên trong tập, thì khỏi phải phụ công chị giới thiệu. Vừa nói vừa viết thao thao bất tuyệt. Chỉ trong giây lát, đủ cả mười bài từ khúc theo lối hồi văn: I Tích đa tài Tờ oanh nỡ bỏ hoài, Hợp hoan ngày tháng phổ cho ai? Tương tư mình gác để ngày mai. Để ngày mai! Tiếc cho tài! II Thương bạc mạng Đêm đêm một mình lạnh, Nhà vàng nghe nói để A Kiều Một mặt nghe chừng khó hân hạnh. Khó hân hạnh! Thương bạc mạng! III Thương kỳ lộ Khúc đường quanh co thật khó đi, Đường khổ chưa bằng tâm em khổ! Một bước sai thời ngàn bước lỡ! Ngàn bước lỡ! Thương kỳ lộ. IV Nhớ cố nhân Tóc bạc nhưng tình vẫn chưa thân! Cần gì trước phải lên tận mây xanh! Cưỡi xe đội nón mới là chân Mới là chân! Nhớ cố nhân! V Nhớ cô hầu! Soi gương hồn biến đâu? Ta thấy ai vẫn còn than thở! Son phấn thôi đừng giễu cợt nhau. Giễu cợt nhau. Nhớ cô hầu! VI Xót thanh xuân Cành hoa giống mỹ nhân, Xuân sắc núi rừng, ôi đẹp đẽ! Muốn mượn mưa xuân tưới hoa thần. Tưới hoa thần! Xót thanh xuân! VII Than cảnh ngộ Giấc mơ tỉnh rồi đó, Đâu phải gặp ai cũng kêu thương. Chỉ vì lầu son lối cũ chưa tỏ. Lối cũ chưa tỏ! Than cảnh ngộ! VIII Khổ linh lạc Thân nầy hết đường bước, Lìa cành hoa rụng khắp đông tây. Nhạn lạc đàn bay quanh hiên trước. Quanh hiên trước! Khổ linh lạc! IX Mơ vườn xưa Hồn về cậy ai đưa? Cảnh cũ cúc tùng không thấy nữa. Bạch vân phương thảo lặng như tờ. Lặng như tờ! Mơ vườn xưa! X Khóc tương tư Nghẹn ngào đã nhiều khi, Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc. Đất cũ tình thâm luống sầu bi. Luống sầu bi! Khóc tương tư!
Thúy Kiều viết xong 10 bài, trao lại thiếu nữ. Xem qua, thiếu nữ tấm tắc khen rằng: - Quả thực mỗi chữ khác gì ôm mối hận. Nếu đem vào tập "Đoạn trường", chắc rằng sẽ đoạt giải nhất. Đoạn thiếu nữđứng dậy, từ giã. Kiều nói: -
Hôm nay chị đã có lòng chiếu cố, đôi ta ắt có tiền duyên, sao lại nỡ vội vàng như vậy? Vả lại lần này ly biệt, biết bao giờ lại được gặp nhau. Thiếu nữ nói: - Nếu chị tình thâm mà thiếp cũng không tình bạc, thì sông Tiền Đường đó, ta sẽ hẹn về sau. Nói xong đi thẳng. Kiều chạy theo giữ lại thì bỗng có trận gió làm khua động bức mành. Nàng sực tỉnh, mới hay là giấc chiêm bao. Về sau, Kiều phải 15 năm lưu lạc, thân thế lắm nỗi đoạn trường. Cuối cùng trầm mình dưới sôngTiền Đường, ứng như điềm mộng. Truyện
trên viết theo Thanh Tâm Tài Nhân. Cụ Nguyễn Du dựa theo, viết thành quyển "Đoạn trường tân thanh" bằng thể lục bát. Đoạn này, Nguyễn Du diễn
tả:
Này mười bài mới, mới ra, Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên vẩy đủ mười khúc ngâm. "Mười khúc ngâm" tức 10 bài "đoạn trường" đó.
Một mùa an cư, sau khi mãn hạ, đức Thế tôndu hànhmột mìnhthăm viếng các trú xứ của những tỳ kheo, để biết lối sống của họ, việc tu hànhtiến thoái của họ. Chính nhân những cuộc du hành này mà có lần Ngài đã tâm sự với thị giả Nàgita:
Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống… thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay...
Ngày ấy có một ông thượng thư đầu triều nổi tiếng là người nghiêm khắc và hách dịch. Ông có tính nóng như lửa. Đã thế ông lại có quyền "tiền trảm hậu tấu"...
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
Ngày xưa, có một hoàng tử muốn cưới một nàng công chúa, nhưng công chúa phải cho ra công chúa, phải hoàn thiệntoàn mỹ. Hoàng tử bèn chu du khắp thiên hạ để kén vợ.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.