Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10128)
08. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn


VIII. LẠI PHÁ XÍCH NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

A. XƯA NAY KHÔNG VỌNG

Kinh: Khi ấy Ông Anan ở trong đại chúng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng dậy thưa rằng: “Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp Sát, Đạo, Dâm. Ba Duyên đã đoạn, nên ba Nhân chẳng sanh. Tánh điên trong tâm chàng Nhã Đa tự hết, hết tức là Bồ Đề, chẳng từ ai mà được. Đây là nhân duyên rồi, thật là rõ ràng, tại sao Như Lai lại bỏ đi nghĩa Nhân Duyên? Chính tôi từ Nhân Duyên mà tâm được khai ngộ.

“Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh Văn Hữu Học tuổi nhỏ như chúng tôi, mà nay trong hội này, Ông Đại Mục Kiền Liên, cùng Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề đều từ Ông lão Phạm Chí nghe được lý nhân duyên của Phật mà phát tâm khai ngộ, được thành vô lậu. Nay nhờ Phật dạy rằng Bồ Đề chẳng do Nhân Duyên, thì các thuyết Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Ly thành Vương Xá lại thành Đệ Nhất Nghĩa! Xin Phật rủ lòng từ bi, khai mở cho sự mê lầm”.

Thông rằng: Đức Thế Tôn dạy: “Ba Duyên dứt lìa, nên ba Nhân chẳng sanh”, chính là dạy nhóm Ông Phú Lâu Na chẳng tùy theo phân biệt các pháp ba thứ nhân duyên đoạn diệt nối nhau, thì tánh cuồng điên tự hết, Bồ Đề hiện tiền. Đó là Đức Phật chẳng muốn họ lấy cái Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, riêng mở ra một pháp môn Đốn Ngộ. Nghĩa là lấy sự đoạn trừ Nhân Duyên mà được cái bất sanh bất diệt còn chẳng cho phép thay, huống là lại có Nhân Duyên sao?

Ông Anan, một bề đa văn, quen theo cái biết Nhân DuyênTự Nhiên phá hoại lẫn nhau, rồi hiểu lầm rằng ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh, nghĩa là theo trong Tiểu Thừa, ba nghiệp Sát, Đạo, Dâm chẳng có duyên theo thì ba nhân Tham, Sân, Si chẳng sanh ra. Nếu có nhân duyên thì có đối đãi, rõ ràng thế kia, sao có thể nói là không có Nhân Duyên? Ngay như Ông Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất gặp được Tỳ kheo Mã Thắng dạy cho “Các Pháp theo nhân duyên mà sanh, các pháp theo nhân duyên mà diệt”, ngay dưới lời nói chứng Sơ Quả, thế là do Nhân Duyênkhai ngộ. Các Trưởng Lão cũng đều như thế. Nay Phật bỏ lý Nhân Duyên, thì hóa ra nhóm Mạt Già Lê, Câu Xá Ly nói rằng “Chúng sanh tuy có sướng khổ, nhưng không có Nhân Duyên, chỉ Tự Nhiên như vậy thôi”, thì có gì khác đâu? Há chẳng biết rằng nghe lý Nhân Duyên của Phật, được thành Vô Lậu, thì chỗ nói “Theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt” là đã ngộ thấy cái yếu chỉ Vô Sanh. Cái sanh diệt kia, đều là Duyên đó vậy, cho nên, đắc Vô Lậu, há lại vướng mắcNhân Duyên ư?

Thị giả Hội Thông của Tổ Ô Sào một ngày kia muốn từ giã mà đi.

Tổ Sào nói : “Nay ông đi đâu?”

Đáp : “Hội Thông này vì Pháp mà xuất gia, Hòa Thượng chẳng rủ lòng từ dạy bảo, nên nay đi các nơi để học Phật Pháp”.

Tổ Sào nói : “Nếu là Phật Pháp thì ở đây ta cũng có chút ít”.

Hỏi : “Như thế nào là Phật Pháp của Hòa Thượng?”

Tổ Ô Sào liền rút ra một sợi lông bố, đưa lên mà thổi.

Thầy Hội Thông bèn lãnh ngộ.

Ngài Phần Dương tụng rằng:

“Sơ tâm thị giả mộ thắng duyên

Biệt thầy định trải học tham thiền

Ô Sào biết đấy, cơ duyên đến

Thổi lông, ngay đó được tâm an”.

Như cái cơ duyên này, há cũng nói là Nhân Duyên ư!

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Như Anh Diễn Nhã Đạt Đa ở trong thành, cái nhân duyên tánh cuồng mà diệt trừ được, thì cái tánh không cuồng tự nhiên hiện ra. Các lý lẽ Nhân Duyên, Tự Nhiên rốt cuộc chỉ là như vậy.

“Anan, Anh Diễn Nhã Đạt Đa cái đầu vốn là tự nhiên, vốn tự như thế, có khi nào mà không tự nhiên đâu, thì vì nhân duyên gì mà sợ cái đầu để phát điên cuồng bỏ chạy? Nếu cái đầu là tự nhiên, vì nhân duyên mà điên thì sao không cứ tự nhiên, vì nhân duyên mà mất? Cái đầu vốn không mất, mà sự điên cuồng sợ hãi vọng có ra, chứ nào có bao giờ thay đổi gì, thì nào phải cần đến nhân duyên. Nếu tính điên vốn là tự nhiên, vốn có sẵn sự điên rồ sợ hãi như vậy, thì khi chưa điên, cái điên ấy núp trốn chỗ nào? Nếu tính không điên là tự nhiên, thì cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao lại điên cuồng bỏ chạy? Nếu ngộ cái đầu vốn sẵn như thế, biết sự phát điên bỏ chạy của mình, thì Nhân DuyênTự Nhiên đều là hý luận.

Thông rằng: Nếu nói Nhân Duyên đoạn diệt rồi sau đó Chân Tánh Bồ Đề tự nhiên hiện ra, thì chẳng phải là chánh luận. Chuyện Anh Diễn Nhã Đạt Đa sợ đầu bỏ chạy mà xét cho cùng, thì chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, dứt khoát rõ ràng vậy. Trước tiên, lấy cái đầu mà luận, thì cái đầu vốn tự nhiên, chắc không thể vì nhân duyên mà bị đoạt mất. Thế sao vì nhân duyên soi gương mà phát cuồng? Đã cho Nhân Duyên là đúng, thì Tự Nhiên không còn đứng vững, thế thì tại sao không do nhân duyên mà thật mất cái đầu? Nhưng cái đầu vốn chẳng mất, anh chàng kia tự cuồng mà chạy, thì cái cuồng này vốn hư vọng có ra, thì rõ ràng chẳng có liên quan gì đến chuyện Nhân Duyên vậy. Đã chẳng từ nhân duyên mà sanh, cũng chẳng theo nhân duyên mà diệt, mà nói nhân duyên tánh cuồng có thể diệt trừ được, là hoàn toàn sai lầm vậy.

Lấy tánh cuồng mà luận, nếu tánh cuồng vốn là tự nhiên thì nó núp trốn ở đâu? Còn tánh không cuồng là tự nhiên thì tại sao điên chạy? Cuồng hoặc không cuồng đều không có tự tánh, chẳng có liên quan gì đến lý Tự Nhiên, thật là rõ ràng như vậy. Đã chẳng phải là tự nhiên núp ẩn, cũng chẳng phải tự nhiên có ra, nên nói tánh không cuồng tự nhiên hiện rasai lầm vậy. Thế nên biết rằng, nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên nào có dính dáng gì với cái đầu? Nói vốn là cuồng, nói vốn là không cuồng, thì nào có xong hết chuyện tánh cuồng? Những thứ ấy đều thuộc về hý luận, chẳng có gì chân thật.

Chỉ cần ngộ được cái đầu xưa nay vốn có sẵn, vốn không hề mất. Biết rõ sự phát điên bỏ chạy, thì điên vốn hư vọng mà có ra. Chỉ một chữ Ngộ này, chỉ một chữ Biết này, tức là sự thọ dụng chân thật của nhà mình, chẳng có lời lẽ nói năng nào đến được nổi. Ngộ cái đầu, tức là ngộ Bản Lai Diện Mục, nào có chút gì đổi khác. Biết cuồng, tức là biết sự vọng sanh ra phân biệt mà chạy điên trong chín cõi. Cái Ngộ ấy, cái Biết ấy, như tia chớp, như lửa xẹt ra từ đá, trong khoảng sát na, há là cái chỗ đứng được của các thứ Nhân Duyên, Tự Nhiên sao? Thế nên, nói rằng “Hết tức Bồ Đề, không do ai mà được, xa lìa các thứ Nhân Duyên và Tự Nhiên” là thế.

Thiền sư Trí Nham ở núi Ngưu Đầu, đời Đại Nghiệp nhà Tùy làm chức Lang tướng, lập nhiều chiến công. Đến đời Vũ Đức nhà Đường, bốn mươi tuổi bèn xin xuất gia, theo học thiền sư Bảo Nguyệt. Có hai người bạn trước ở trong quân đội nghe Ngài ẩn tu, mới vào núi tìm Ngài. Gặp gỡ, mới hỏi rằng: “Lang tướng quân điên sao, ở chốn này làm gì?”

Ngài đáp: “Cái điên của tôi thì sắp tỉnh, cái điên của các ông thì đang phát! Than ôi! Ham sắc mê thanh, tham danh muốn lợi, trôi lăn sanh tử, từ đâu mà có!”

Hai người cảm ngộ, than thở mà đi.

Sau, Ngài tham yết thiền sư Lại Dung, phát minh được đại sự. Tổ Lại Dung bảo rằng: “Ta lãnh nhận yếu quyết chân chánh của đại sư Đạo Tín, chỗ sở đắc đều mất sạch. Nếu như có một pháp vượt hơn Niết Bàn, ta cũng nói như là mộng huyễn. Ôi! Một mảy bụi bay mà che trời! Một hạt cải rơi mà trùm đất! Ông nay đã trải qua cái Thấy ấy, ta lại còn gì nói nữa”.

Bởi thế, hết điên thì như Ngài Trí Nham, có thể nói là Chân Ngộ vậy.

B. ĐƯA VÀO BỒ ĐỀ

Kinh : “Thế, nên Ta nói : “Ba Duyên lìa dứt, tức là Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, tâm sanh-diệt diệt, đó cũng chỉ là sanh diệt. Diệt và sanh đều hết ráo, là vô công dụng Đạo. Nếu có Tự Nhiên, như vậy là nói tâm tự nhiên sanh, tâm-sanh-diệt diệt, thế cũng là sanh diệt, và cái không sanh diệt thì gọi là Tự Nhiên. Cũng như thế gian, những tướng hòa lẫn thành một thể gọi là tính hòa hiệp, còn cái chẳng hòa hiệp thì gọi là tính bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải bản nhiên, hòa hợp chẳng phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều lìa. Lìa và không lìa đều chẳng phải. Câu nói ấy mới gọi là pháp không hý luận.

“Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa lắm, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng thì tuy có ghi nhớ thanh tịnh diệu lý mười hai bộ kinh của mười phương Như Lai như cát sông Hằng cũng chỉ tăng thêm hý luận.

Thông rằng : Đoạn này giãi bày rõ cái ý “Nào nhờ siêng năng cần khổ tu chứng”. Bỗng nhiên cuồng hết chẳng phải khó nhọc đoạn trừ duyên, nên không phải là Nhân Duyên. Nếu nói: “Vì ba Duyên đoạn dứt, thì ba Nhân chẳng có sanh ra, nhờ nhân duyên đó mà được Tâm Bồ Đề”, thế là Tâm Bồ Đề sanh là do tâm sanh-diệt diệt. Diệt Vọng chứng Chân thì Chân cũng thành Vọng, đó cũng chỉ là pháp sanh diệt thôi, chẳng phải là Bồ Đề. Cái nhân duyên như vậy thuộc về sanh diệt, nên cũng dễ hết.

Đến chỗ diệt và sanh đều hết ráo, thì không những tâm sanh diệt hết mà cái diệt sanh diệt cũng hết tận. Đã không có sự sanh ra để diệt, tức là không có công phu nào để dùng. Ở trong đó nếu có cái bất sanh bất diệt mà gọi là Tự Nhiên, thì cái tâm tự nhiên này do nơi diệt và sanh đều hết mà hiển ra, đó là cái tâm tự nhiên sanh. Nhưng nhờ ở tâm sanh-diệt diệt mất mà có thì cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải là Bồ Đề. Chữ “cũng” thật có ý vị! Cái không sanh diệt kia gọi là Tự Nhiên, sao cũng gọi là sanh diệt? Vì đối với cái sanh diệthiển bày cái không sanh diệt, thế là có đối đãi vậy. Cũng như đối với hòa hợphiển bày cái không hòa hợp. Có cái bản nhiên thì có cái không bản nhiên, có cái hòa hợp thì có cái không hòa hợp, rõ ràng toàn là đối đãi. Cũng như đối với sừng trâu có, rồi nói sừng thỏ không, nên cũng thuộc về sanh diệt. Cái kia chỉ làm không cái sanh diệt, chẳng có thể làm không cái Tự Nhiên. Cũng như nói “Nhà kia không có người”, thì mới chỉ làm “không” người ở trong đó, chứ chưa “không” được cái nhà. Đó không phải là cái thấy chân thật. Nên nói là hý luận.

Nếu giờ đây mà hợp với không hợp, bản nhiên với không bản nhiên, các pháp đối đãi, hết thảy đều xa lìa mà cũng không có cái tâm xa lìa, nên lìa hay hợp đều mất hết. Đã lìa Sở, lại lìa Năng; Năng Sở đều lìa, chỉ là một Chân Thật, câu này mới gọi là pháp không hý luận.

Nhưng nếu y theo câu này mà giữ Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng, thì cũng còn xa lắm! Vì sao thế? Vì còn ở tại hữu vi, có công phu, có huân tập vậy. Bồ Đề Chánh Giác, Niết Bàn Diệu Tâm chỉ có thể ở tại sát nangộ nhập, chẳng phải là chỗ ông trải qua nhiều kiếp cần khổ để tu chứng được. Cái chẳng do trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng mà được, cái ấy không nương nhờ Nhân Duyên, Tự Nhiên gì ráo để đắc. Cái mà phải nhờ trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng, thì tất phải do Nhân Duyên, Tự Nhiên mà được. Cứ thế, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của mười phương Chư PhậtPháp không hý luận, cũng chỉ tăng thêm các thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên mà thôi, nào có thật đắc được gì. Nên chi, nghe nói “Ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh”, rồi theo đó phân biệt mà được Tâm Bồ Đề, thì chẳng phải là thực đắc, đó là chỗ nói “Lấy Tâm Sanh Diệt hợp với Như Lai Tạng” vậy. Chỉ không theo đó mà phân biệt, thì tánh cuồng tự hết. Hết là Bồ Đề, không do ai mà được, bèn là thật đắc, vì là lấy cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp với Như Lai Tạng vậy. Cái cơ duyên tối thượng này, há đồng với lối nói Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Lê được ư?

Đức Lục Tổ dạy: “Cái Bất Sanh Bất Diệtngoại đạo nói, là lấy Diệt dừng Sanh, lấy Sanh mà bày ra cái Diệt, thế là có Diệt mà xem như không Diệt, có Sanh mà nói là chẳng Sanh. Ta nói chẳng Sanh chẳng Diệt là vốn Tự Vô Sanh, nay cũng không có Diệt. Bởi thế, chẳng đồng với ngoại đạo”.

Ngài Tiến Sơn Chủ hỏi Ngài Tu Sơn Chủ rằng: “Biết rõ Tánh sanh mà chẳng sanh, thì vì sao còn lưu lại cái sanh?”

Tu Sơn nói : “Măng rốt cuộc thành tre chứ, như nay làm cật tre, khiến trở lại đâu được!”

Tiến Sơn nói : “Sau này ông sẽ tự ngộ chỗ ấy”.

Tu Sơn nói : “Tôi chỉ như thế, ý chỉ của Thượng Tọa như thế nào?”

Ngài Tiến Sơn nói: “Cái này là Giám Viện Phòng, cái kia là Điển Tòa Phòng”.

Ngài Tu Sơn bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Hoát nhiên mất chỗ nương

Tự do nào chẳng quản

Nước nhà bình ổn thấy ai đâu

Lực lượng mống sanh phân giai cấp

Thân tâm rỗng rang tuyệt thị phi

Thị phi tuyệt!

Lập cả đại phương : không dấu vết!”.

Thế đó, chứng Bồ Đề Vô Thượng vốn đâu có sa vào thềm bực (giai cấp). Lại có dấu vết gì thấy được!

Kinh : “Ông tuy nói lý Nhân Duyên, Tự Nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời xưng ông là đa văn bậc nhất. Vậy mà lấy cái đa văn huân tập nhiều đời đó cũng chẳng khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, phải đợi thần chú Phật Đảnh của Ta khiến cho lửa dâm trong lòng cô Ma Đăng Già hết tức thời mà đắc A Na Hàm, hiện ở trong Pháp của Ta, tinh tấn như rừng, sông ái cạn khô, khiến ông giải thoát.

“Bởi thế nên, Anan, ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian hai thứ khổ ghét-thương. Như Cô Ma Đăng Già, trước là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu tan lòng ái dục, nay ở trong Phật Pháp tên là Tánh Tỳ Kheo Ni. Cùng với Da Du Đà La là mẹ của La Hầu La, đồng ngộ được nhân đời trước, biết nhân khiến trải qua nhiều đời, tham ái là khổ, một niệm huân tu pháp thiện vô lậu; một người được ra khỏi trói buộc, còn một người được thọ ký. Sao ông còn tự coi thường mình, ở mãi trong vòng nghe, thấy!”

Thông rằng: Rõ ràng là Ông Anan nhiều kiếp đa văn mà không tránh khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, thế thì ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của Như Lai không thể chứng quả được. Cũng rõ ràngthần chú Phật Đảnh có thể khiến cho lòng dâm của Cô Ma Đăng Già tức thời tiêu hết, nghĩa là sự huân tu không thể nghĩ bàn khiến tự ra khỏi ràng buộc vậy. Nhớ giữ pháp bí mật nhiệm mầu trang nghiêm, tức là hữu lậu. Bỏ Vọng theo Chân, tức là hai cái khổ thương, ghét. Khổ còn không khỏi, huống là đắc quả ư? Tu tập pháp môn Viên Đốn tức là vô lậu. Ngộ biết nhân đời trước, tham ái chẳng sanh, bèn được thọ ký, nào chỉ đắc quả thôi sao? Cô Ma Đăng Già chứng quả thứ Ba, A Na Hàm, gọi là ra khỏi trói buộc. Bà Da Du Đà La cũng là nhân duyên nhiều kiếp với Đức Thế Tôn, ở hội Pháp Hoa được thọ ký thành Phật. Đây chỉ là nữ giới mà một niệm xoay lòng còn nên bực tinh tấn. Huống gì hàng Thanh Văn các ông, sao tự khinh thường mình, không liền đốn ngộ? Đã thế lại nương nhờ nhân duyên trừ Vọng mà bám lấy hý luận của ngoại đạo để ở mãi trong vòng thấy nghe sao?

Thiền sư Sở Nam thượng đường nói: “Này các ông, dù có hiểu giáo pháp của Chư Phật ba đời như rót nước vào bình, chẳng bằng một niệm tu Vô Lậu Đạo, khỏi bị nhân quả trời người trói buộc!”

Khi ấy có nhà sư hỏi : “Vô Lậu Đạo như thế nào để tu?”

Tổ Sở Nam nói : “Chưa từng có Xà Lê để nắm bắt!”

Hỏi : “Chưa từng có tôi đây, thì dạy ai nắm bắt?”

Đáp : “Cái nắm cũng không!”

Được một hai lời chuyển ngữ này, thì ý chỉ chưa nói hết của Như Lai đã lộ rồi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32581)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12572)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10585)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12523)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12649)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16113)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9117)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11940)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant