Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika dạy các Tỷ kheo:
- Này các Tỷ-kheo, có hai hội chúng này. Thế nào là hai? Hội chúng không
phải Thánh và hội chúng bậc Thánh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng không phải Thánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo không như thật rõ biết: “Ðây là khổ”, không như thật rõ biết: “Ðây là khổ tập”, không như thật rõ biết: “Ðây là khổ diệt”, không như thật rõ biết: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng không phải Thánh.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng bậc Thánh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo như thật rõ biết: “Ðây là khổ”, như thật rõ biết: “Ðây là khổ tập”, như thật rõ biết: “Ðây là khổ diệt”,
như thật rõ biết: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là hội chúng bậc Thánh.
Này các Tỷ-kheo, có hai hội chúng này. Hội chúngtối thắng trong hai hội
chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúng bậc Thánh.
- Này các Tỷ-kheo, có hai loại hội chúng này. Thế nào là hai? Hội chúngcặn bã và hội chúngtinh hoa. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng cặn bã? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đi đến con đường dục, đi đến con đường sân, đi đến con đường si, đi đến con đườngsợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúngcặn bã.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng tinh hoa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo không đi đến con đường dục, không đi đến con đường sân, không đi đến con đường si, không đi đến con đườngsợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúngtinh hoa.
Này các Tỷ-kheo, đây là hai hội chúng này. Hội chúngtối thắng trong hai
hội chúng này, này các Tỷ-kheo, tức là hội chúngtinh hoa.
(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Hội chúng [trích]) SUY NGHIỆM:
Ai cũng biết Tăng-già là hội chúng Tỷ-kheo từ bốn người trở lên, thanh tịnh và lục hòa. Nhưng có những hội chúng Tỷ-kheo cũng đông đảo mà không
xứng danh hoặc chỉ lạm xưng Tăng-già vì chưa thực sự hòa hợp và thanh tịnh. Nên Thế Tôn mới phân biệt có hội chúng không phải bậc Thánh và hội
chúng bậc Thánh, có hội chúngcặn bã và hội chúngtinh hoa.
Vậy đâu là hội chúng bậc Thánh? Xưa nay sống trong cõi “Phàm Thánh đồng cư” nên người trần mắt thịt như chúng ta không thể phân biệt đâu Thánh, đâu phàm. Trong pháp thoại này Thế Tôn đã chỉ rõ cách phân biệt một hội chúng Thánh hay phàm là nhìn xem những thành viên trong hội chúng đó có “như thật rõ biết Tứ Thánh đế” hay không. Thì ra, “như thật rõ biết Tứ Thánh đế” là những phẩm chất của một hội chúng bậc Thánh.
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ
khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng lợi dưỡng, không khát khao nắm giữ chức vụ. Rõ biết “Đây là khổ tập”, tức nhận ra chính vô minh và tham ái là căn nguyên của mọi khổ đau. Rõ biết “Đây là khổ diệt”, thấy rõ hạnh phúc đích thực hay Niết-bàn là chính là sự diệt tận phiền não, tham ái, buông bỏ hết thảy và không còn mảy maychấp thủ. Và để đạt đếncứu cánhan lạc này cần thực hànhBát chánh đạo, chính là rõ biết “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”.
Và đâu là hội chúng tinh hoa? Đối lập với hội chúngcặn bã mà trong đó các Tỷ-kheo luôn đi đến con đường dục, sân, si và sợ hãi, chính là hội chúngtinh hoa. Nói cách khác, một hội chúng mà các Tỷ-kheo không đi đến
con đường dục, sân, si và sợ hãi là hội chúngtinh hoa. Lời Thế Tôn dạy
ở đây đã quá cụ thể và rõ ràng. Hiện nay, không quá khó khi nhìn vào một hội chúng Tỷ-kheo để biết rõ đó là hội chúngcặn bã hay hội chúngtinh hoa. Mỗi Tỷ-kheo khi tự nhìn lại mình, tự nhìn vào hội chúng của mình và tức khắc sẽ nhận ra mình đang ở trong hội chúng nào.
Không ít người khá chủ quan và quá chú trọng về hình thức như số lượng đông đảo, cơ sở vật chất to lớn để tự huyễn mình rằng mọi thứ đang phát triển tốt đẹp. Kỳ thực hình thức có phát triển mà kém tinh hoa và nhiều cặn bã thì có cũng như không. Cho nên, Thế Tôn mới xác quyết hội chúng bậc Thánh và hội chúngtinh hoa mới là tối thắng. Đồng thời hai hội chúng này cũng là nơi để cho chúng ta nương tựa trong hành trình tìm lại
chính mình, hướng đến tự giác, giác tha và giác hạnhviên mãn.
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
Đạo nghiệp là sự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
Đức PhậtDược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiênchúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinhgiác ngộ.
Về cơ bản, lý duyên khởigiải thoátmô tảtâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầucho đến lúc cuối.
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quanmật thiếtvới nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữPhật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vậtvô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tửĐại Thừa.
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệduyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hộinhân bảnđạo đức.
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
Kính lễThích Ca Mâu NiThế Tôn
Nay con đem tâm phàm phusuy diễnthánh pháp
Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này
Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biếthạn chế của mình.
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cáchthực tiễn đối với sự tu tậpcông án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tậpcông án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
Có hai hình ảnhquen thuộc gợi lên ý tưởngbiến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba.
Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễThế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.