Giới thiệu
Tara, ngài là một bậc giác ngộ thuộc địa thứ 12, có thể thỏa mãn mọi ước muốn của chúng sanh. Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiện và hoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật. Có vô lượng chư Phật thuộc nhiều đại kiếp khác nhau. Khởi đầu đại kiếp của chúng ta, có một vị Phật đặc biệt gọi là Đại Nhật Như Lai. Vào thời của ngài, có một công chúa tên là Metok Zay hay ‘Mỹ Hoa’. Công chúa Mỹ Hoa siêng năng tụng kinh, và làm nhiều thiện hạnh phi thường vì lợi lạc của chúng sanh. Khi còn trẻ, công chúa thực hiện nhiều cúng dường và hiến tặng lớn lao, có nhiều thiện hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục và từ bi cao quý vì chúng sanh. Khi Đức Đại Nhật Như Lai hỏi công chúa có ước muốn hay tâm nguyện gì, công chúa trả lời, “Con sẽ lưu lại thế giới này cho đến khi mọi chúng sanh được giải thoát hoàn toàn”.Đây là điều ngạc nhiên vui mừng đối với Đức Phật, ngài chưa hề nghe bất kỳ ai có phát nguyện cao quý, vô ngã và dũng cảm như thế. Đáp lại sự xả thân, hạnh nguyện của công chúa, và hoan hỉ với bồ đề tâm của cô, Đức Phật đã tự nhiên tuyên thuyết kinh Tán thán 21 Tara, ca tụng hai mươi mốt phẩm tính của Đức Tara. Nhờ bản kinh tuyên thuyết bởi Đức Đại Nhật, công chúa Mỹ Hoa được biết như là hóa thân của thánh nữ Tara, xuất hiện từ những giọt nước mắt từ bi của Bồ tát Quan Thế Âm (Avalokiteshvara) hay Chenrezig. Bồ tát Quan Thế Âm có lòng bi mẫn bao la đối với mọi chúng sanh hữu tình. Mặc dù ngài nỗ lực không ngơi nghỉ để giúp đỡ chúng sanh, ngài cảm thấy buồn rầu vô hạn bởi quá nhiều chúng sanh tiếp tục rơi vào các cõi thấp của luân hồi như địa ngục. Ngài thấy rất ít ỏi chúng sanh đạt được tiến bộ trên con đường giác ngộ. Trong nỗi tuyệt vọng vô hạn vượt quá sự chịu đựng của lòng bi, Đức Quan Thế Âm đã khóc trong đau đớn, cầu nguyện rằng tốt hơn hết thân thể của ngài tan thành từng mảnh và chết đi, vì ngài không thể hoàn thành tâm nguyện cứu vớt chúng sanh khỏi đau khổ. Từ những giọt nước mắt bi mẫn đó, Thánh nữ Tara hiện ra. Trong sự xuất hiện kỳ diệu như thế, Đức Tara nói với ngài Quan Thế Âm, rằng, “Ôi, Bậc cao quý, xin đừng từ bỏ hạnh nguyện cao thượng vì lợi ích của chúng sanh hữu tình. Tôi đã được khích lệ và tùy hỉ với mọi hành động vô ngã của ngài. Tôi thấu hiểu những gian khổ vĩ đại mà ngài đã trải qua. Nhưng có lẽ, nếu tôi mang hình dạng nữ bồ tát với tên gọi Tara, như một cộng sự của ngài, thì điều đó có thể trợ giúp ngài trong những nỗ lực cao cả nhất của ngài.” Sau khi nghe hạnh nguyện của Đức Tara, Bồ tát Quan Thế Âm lại tràn đầy dũng khí để tiếp tục những nỗ lực vì quần sanh, và chính lúc đó cả ngài và Đức Tara đều được Đức Phật A Di Đà ban phước cho những hứa nguyện của các ngài trên con đường bồ tát. Chính lúc Đức Quan Thế Âm khóc vì tuyệt vọng, thân ngài vỡ tan thành ngàn mảnh. Đức A Di Đà đã ban phước để Đức Quan Thế Âm hồi sinh trong một thân mới có mười một đầu, với một ngàn cánh tay, trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt. Như thế, chúng ta có thể thấy rõ mối liên hệ gần gũi giữa Avalokiteshvara và Tara. Tương truyền rằng kể từ đó, bất kỳ ai trì tụng kinh Tán thán 21 Tara được tuyên thuyết bởi Đức Phật Đại Nhật đều nhận được những lợi lạc không thể nghĩ bàn. Đức Phật Đại Nhật đã hoàn thành mọi ước muốn của Ngài. Ngay cả với chư Phật, nhiều lúc các ngài không thể thỏa mãn nhu cầu của một số chúng sanh nào đó. Tuy nhiên, sau khi trao truyền kinh Tán thán 21 Tara, Đức Đại Nhật không chỉ thỏa mãn tất cả ước muốn của chính ngài, mà còn có thể thành tựu mong cầu của tất cả những ai tìm đến ngài. Một hôm có bà lão đến gặp Đức Phật Đại Nhật. Bà là kẻ cùng khổ, nhưng có một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần. Con gái bà được một hoàng đế ngưỡng mộ muốn làm đám cưới với cô. Thời cổ Ấn Độ, nếu cô gái nông dân muốn kết hôn với hoàng tộc, theo tục lệ thời đó gia đình cô gái phải có châu báu trang sức cho cô dâu. Bà lão khốn khổ không biết làm thế nào có châu báu cho đám cưới của con mình. Bà nghe nói rằng Đức Đại Nhật có thể ban tặng mọi ước muốn, vì thế bà đã tìm đến gặp ngài. Trước Đức Phật, bà đã thỉnh cầu ngài có thể cho bà một số châu báu để con gái bà có thể cưới hoàng đế và thỏa mãn ước muốn của nhiều người. Vào lúc đó, Đức Phật đang ở chùa Bồ đề của Bồ đề đạo tràng. Trong chùa có nhiều tượng của Đức Tara xanh lục. Vì chính ngài cũng không có vàng ngọc để cho bà, Đức Phật đã thỉnh cầu một trong các tượng đặc biệt của Tara xanh ở chùa hãy trao vương miện của bà cho ngài, để ngài có thể làm hài lòng bà lão và nhờ đó con gái bà sẽ trở thành nữ hoàng. Tượng Đức Tara này đã tháo vương miện của mình và trao nó cho Đức Đại Nhật, nhờ đó ngài có thể tặng cho bà lão để làm đám cưới của con mình. Đức Tara xanh lục không chỉ làm mãn nguyện bất cứ mong cầu nào của chúng sanh, mà còn làm tan biến những nỗi sợ hãi của họ, như tám nỗi sợ lớn và mười sáu nỗi sợ nhỏ trong đó có nỗi sợ bị trộm cướp, sợ nước, rắn, chất độc, tù đày, v.v…, cả mọi nỗi sợ nội tâm. Bất cứ nỗi sợ hãi gây đau khổ nào, bất cứ khi nào họ trì tụng Tán thán 21 đức Tara, thậm chí chỉ tụng mười âm thần chú OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, mọi nỗi sợ hãi của họ được lắng dịu và mong cầu của họ được thỏa mãn. Đức Phật Đại Nhật đã xuất hiện ở một thời kỳ vô cùng lâu xa, rất lâu trước thời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong thời kỳ của chính chúng ta, chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng tuyên thuyết lại chính bản kinh này, trùng tuyên lời của Phật Đại Nhật. Điều này đã được nói đến trong tạng Kinh của Đức Phật. Và như thế, Đức Tara cũng đã được tán thán bởi chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhờ đó, bản Kinh tán thán 21 đấng Tara chứa đựng sự gia trì và năng lực bao la. Vô số Phật tử Đại thừa tụng kinh này mỗi ngày; dù họ là tu sĩ hay cư sĩ, già hay trẻ, bản kinh này vang vọng qua những lời thì thầm bất tận trên môi của tín chúng, từ rất lâu xa trước đại kiếp của chúng ta.Trong những thời kỳ gần đây, Tara là vị Thánh nữ được xem như là bổn tôn thiền định của nhiều bậc Thầy vĩ đại bậc nhất trong lịch sử Phật giáo, các bậc đại thành tựu giả và hiền triết Phật giáo Đại thừa Ấn Độ vĩ đại, như ngài Long Thọ và Thánh Thiên tôn quý. Bậc học giả thông thái của Ấn Độ Chandragomin có nhiều thị kiến về Tara và nhận được trao truyền trực tiếp từ ngài. Rất nhiều các bậc Thầy vĩ đại là những hành giả lão luyện và sùng mộ pháp tu Tara. Đại thành tựu giả Virupa của Ấn Độ, người sáng lập dòng truyền thừa Lam Dre của Phật Hevajra, đã nhận nhiều ban phước từ Đức Tara.Một trong những đạo sư Ấn Độ vĩ đại nhất, người đã có vai trò rất quan trọng trong việc giới thiệu pháp môn Tara ở Tây Tạng, là hiền giả Atisha xứ Bengali. Atisha từng nhiều lần được mời đến Tây Tạng, nhưng ngài luôn từ chối, vì nghe nói về độ cao và thời tiết khắc nghiệt của xứ Tuyết, cũng như tính ngang ngạnh và thô lỗ của người Tây Tạng. Ngài phân vân trong việc đến đó và chuyển hóa tâm của họ hướng về đạo pháp. Đạo sư Atisha, là người vô cùng sùng mộ đối với Thánh Tara xanh lục rất lâu trước khi du hành đến xứ Tuyết, một hôm nhận một tiên tri từ Thánh Tara. Chính ngài đã khuyên Atisha rằng ông phải đi đến xứ Tuyết, Tây Tạng, nơi đó ông sẽ như mặt trời soi sáng chúng sanh bằng giáo lý của Đức Phật, xua tan mọi bóng tối của họ. Theo đó, ông sẽ đem lại lợi lạc vĩ đại cho chúng sanh hữu tình ở những xứ sở phương bắc. Hơn nữa, Thánh Tara còn bảo Atisha rằng ông sẽ gặp môn đồ lớn của mình, người này là một hóa thân của bồ tát Quan Thế Âm. Bà đã tiên tri rằng những hoạt động kết hợp của Atisha và vị đệ tử này sẽ khiến giáo lý nở rộ hàng ngàn năm và truyền bá khắp nơi. Chỉ sau khi nghe những lời tiên tri này từ Đức Tara mà Atisha đã vơi bớt những thành kiến về Tây Tạng và con người nơi đây, và ông đã quyết định lên đường đến Tây Tạng. Mặc dầu Atisha đã đối mặt với một vài khó khăn ban đầu ở Tây Tạng, như không tìm được dịch giả giỏi và thời tiết khắc nghiệt, dù sao trong thời gian đó ông đã gặp được môn đồ tiền định, Dromtonpa. Dromtonpa sau đó trở thành người sáng lập trường pháp Kadampa, từ đó khởi đầu dòng hóa thân Dalai Lama.Nhờ ảnh hưởng của Atisha mà giáo lý về Tara xanh lục đã nở rộ ở Tây Tạng. Mặc dầu trước đó dòng Nyingmapa đã tôn thờ Thánh nữ trong nhiều hình thức khác nhau, nhưng không phát triển rộng rãi cho lắm mãi đến khi Atisha đến Tây Tạng và truyền bá Kinh tán thán 21 Tara. Đó là nhờ những ban phước và ân sủng của Thánh Tara. Chandragomin là một trong những Đạo sư Ấn Độ vĩ đại khác thể hiện một vai trò đầy ý nghĩa trong việc truyền bá pháp môn Tara. Ông không phải là tăng sĩ, mà là một upasaka, là một hành giả cư sĩ giữ tám giới nguyện. Nhờ những đạo sư như thế, mà Kinh tán thán 21 Tara, thần chú của ngài và các nghi lễ, thịnh hành khắp các dòng phái của Phật giáo Tây Tạng, tất cả không ngừng nương tựa vào thực hành thiền định về Đức Tara. Có nhiều câu chuyện hay về các bậc Đạo sư tâm linh ở Tây Tạng những người nương tựa vào Đức Tara như bổn tôn thiền định chính của họ. Vào thế kỷ thứ 16 ở Tây Tạng có một bậc Đạo sư vĩ đại là Jonang Taranatha. ‘Tara’ nghĩa là ‘vị cứu tinh’, ‘Natha’ nghĩa là ‘hộ pháp’ theo tiếng Sanskrit. Ông hầu như liên tục kết nối tâm linh trực tiếp với chính Đức Tara. Ông đã tìm học các truyền thống Phật giáo Ấn Độ và đã khám phá và phục hồi nhiều nguồn giáo pháp. Taranatha đã viết một lịch sử công phu về Tara và pháp môn của ngài. Ông rất cẩn trọng về mốc thời gian và việc nhận diện các đạo sư Ấn Độ khác nhau, những người có kết nối thực hành Tara. Tác phẩm của Taranatha về Tara vẫn còn trong các tuyển tập của ông và có cả những bản dịch tiếng Anh của tác phẩm này cùng với những bình giải về 21 Tán thán Đức Tara. Có những thần chú riêng biệt cho mỗi một trong 21 hình tướng của Tara. Những hình thức riêng biệt của Đức Tara được mời thỉnh đến cho các chướng ngại hay nỗi sợ hãi riêng, và người ta có thể thực hành chúng theo cách họ đã nhận được từ quán đảnh và trao truyền về 21 Tán thán Tara. Để kết nối với lợi lạc của những ân phước của chư Phật, của Đức Tara, và của tất cả những bậc Thầy này, sau khi nhận được trao truyền 21 tán thán Tara, chúng ta có thể chọn tụng đọc bản kinh này, hay tụng Đà-la-ni dài của Tara, hoặc thậm chí chỉ tụng 10 âm thần chú của Tara. Chúng ta có thể tụng bất kỳ hoặc đầy đủ cả ba, vào sáng sớm, buổi trưa vào ban ngày hay buổi tối, hoặc nửa đêm. Thật quan trọng và hữu ích để trì tụng bất cứ lúc nào tâm của chúng ta rối bời và không thể làm lắng dịu bằng các phương pháp khác. Giả sử tâm của bạn quá bối rối, có thể tâm sự với vài người bạn về những vấn đề của mình, tuy nhiên rối ren của bạn vẫn còn đó. Bạn bè có thể khuyến khích trên quan điểm của họ và thông cảm với nỗi sợ hãi của bạn, thế nhưng, ước muốn của bạn vẫn bất thành. Ngay cả họ thông cảm và đồng tình với chúng ta, vấn đề của bạn vẫn còn; họ cảm thông với chúng ta không đồng nghĩa họ có thể thực sự giúp đỡ chúng ta. Thậm chí bạn có thể tồi tệ hơn trước vì hậu quả của những tham vấn từ bạn bè như thế! Mặt khác, bất kỳ Phật tử sùng mộ nào có thể trì tụng 21 Tán thán Đức Tara, hay đọc Đà-la-ni dài hoặc ngay cả thần chú ngắn mười âm, OM TARE TUTTARE TURE SVAHA, bất cứ khi nào họ lâm vào khủng hoảng. Khi những mong cầu của họ bị khước từ hay tan vỡ và không thể thực hiện, để lại cảm giác tê tái hay rối bời, nếu lúc đó họ cầu nguyện với ngài, ngài sẽ có mặt để hóa giải nỗi sợ hãi và khổ đau của họ. Pháp môn này giới thiệu chúng ta một lựa chọn để đối mặt với những khó khăn thường gặp của chúng ta. Khi chúng ta gặp rắc rối, thông thường chúng ta ngay tức thời tìm đến một người bạn hay nhà tư vấn để chia sẻ nỗi đau khổ của mình. Mong mỏi tìm được niềm an ủi và xoa dịu sự bối rối của mình, nhưng trớ trêu thay chúng ta có thể khuấy động sự việc lên và thực chất làm cho chúng trầm trọng thêm. Một phương cách khác đáng giá để thử đó là chúng ta có thể trì tụng Kinh tán thán 21 Tara, hay đọc thần chú của ngài và theo cách này để có niềm an ủi và giải pháp mà chúng ta đang tìm kiếm. Thực hành Tara cũng rất lợi lạc và bổ ích đối với các Trung tâm Phật pháp. Những trung tâm đó tiến hành các nghi lễ cúng dường hay cầu nguyện Tara tự thân chúng đã thu hoạch phần thưởng bởi vì mục đích truyền bá Phập pháp của chúng đã được thực hiện ! Những nguyện ước chân thành và sâu sắc mà chúng ta phát ra bởi lòng sùng mộ và khát ngưỡng dễ dàng thành tựu hơn, nhất là khi chúng vì lợi ích của tha nhân! Hầu như mọi tu viện Tây Tạng đều cử hành các nghi lễ cầu nguyện cúng dường Tara xanh vào mỗi buổi sáng, với năm vị tăng hay một ngàn vị. Kinh Tán thán đối với 21 Đức Tara đã được trì tụng liên tục bởi vô lượng chúng sanh trải khắp muôn phương kể từ thời Phật Đại Nhật xa xăm, cho đến thời đại hiện nay của chúng ta. Thật sự bản kinh này rất cổ xưa và đã trở nên phổ biến và thực hành rộng rãi qua mọi thời tạo nên những năng lực và kết quả vô cùng vĩ đại. Mọi ân phước tích lũy, phát sinh từ những sự cầu nguyện của lòng sùng mộ trải suốt mọi thời xuống đến chúng ta và đón nhận bởi chúng ta mỗi khi chúng ta cầu khẩn với niềm tin và lòng sùng mộ vào Đức Tara. Xuyên qua thực hành đều đặn kinh Tán thán 21 Tara và các thần chú của ngài, những ân phước này được nuôi dưỡng và có thể chín muồi trong dòng tâm thức của chúng ta, trong kinh nghiệm của chúng ta. Đó là lý do vì sao sự sùng kính Đức Tara là thực hành hàng ngày tuyệt hảo như thế. Bản kinh Tán thán 21 Đức Tara cũng rất quan trọng đối với truyền thống Phật giáo Đại thừa Trung hoa vốn có những nối kết với Phật giáo Kim Cang thừa
Nhận ân phước của Bồ tát Tara
Đường vào con đường thiền quán về Bồ tát Tara bắt đầu bằng lễ quán đảnh, sự trao truyền về trí tuệ giác ngộ và ân phước của ngài. Khi chúng ta nhận ân phước gia trì của Tara xanh lục, ví dụ, trước hết chúng ta dâng một đàn tràng (mandala) cho Đạo sư, người mà chúng ta phải quán tưởng và cảm nhận thực sự đó chính là Đức Tara, hiện diện phía trước chúng ta. Chúng ta sẽ quán vị Đạo sư đang ngồi trước chúng ta như là Đức Tara. Chúng ta cũng quán tưởng rằng Đức Tara đang hiện diện trong đàn tràng trên bàn thờ phía trước của chúng ta. Từ giữa tâm của cả hai Đức Tara, ánh sáng rực rỡ chiếu ra chạm vào chúng ta và toàn thể chúng sanh hữu tình. Tia sáng này chuyển hóa thân vật lý gồm thịt, xương và máu của chúng ta, và chúng ta trở thành một quả cầu ánh sáng, một khối sáng. Mọi hiện tượng thông thường tan vào trạng thái của không tánh. Tâm trí chúng ta yên nghỉ trong trạng thái đó, duy trì trạng thái này như sự hiện diện của ánh sáng bên trong tánh không, sự sáng tỏ của tánh không. Trong tánh không này, mọi vật đều hiện hữu. Nơi chốn chúng ta đang hiện diện là cõi tịnh của Đức Tara, cảnh giới Lam ngọc được gọi là “Lam ngọc diệp âm”. Chúng ta không còn thân vật lý nữa, mà chỉ có bản thể của một quả cầu ánh sáng. Mọi âm thanh bạn nghe như tiếng vang của thần chú Tara. Mọi ý nghĩ xuất hiện hay đang hiện diện trong tâm bạn đều là trí tuệ, tánh không. Mọi hiện tượng, mọi vật, như hư không. Không còn sót một chút gì của thế giới thông thường. Tiếp theo, xuất hiện một hoa sen và trên hoa là chữ ‘AH’ chuyển thành đĩa mặt trăng. Trên đĩa trăng là chủng tự HUM xanh dương, đang tỏa ra ánh sáng rực rỡ tràn khắp vũ trụ. Nó chạm vào tất cả chúng hữu tình tịnh hóa mọi chướng ngại và tội lỗi của họ.Những tia sáng rực rỡ dâng món cúng dường lên các bậc giác ngộ và được thu hút trở về chủng tự HUM. Từ sự chuyển hóa của chủng tự này, mà nó đại diện cho bản thể của tâm chính chúng ta, và chúng ta chuyển thành Đức TaraNgài có màu xanh lục với một mặt và hai tay cùng với hai chân xếp lại. Bàn tay phải của ngài duỗi ra ngay trên đầu gối với lòng bàn tay trong tư thế ấn vô úy thí. Tay trái trong tư thế ấn tam bảo, với ngón cái và ngón đeo nhẫn chạm nhau và cầm cành hoa sen xanh dương (hoa utpala), hoa vươn lên vai trái của ngài. Hoa utpala trong tay ngài Tara có ba hoa. Một hoa vẫn còn búp, một cái nở hoàn toàn, và cái còn lại chớm khô héo. Đức Tara có màu xanh ngọc lục bảo tuyệt đẹp; ngài bản chất là ánh sáng. Ngài đeo tất cả trang sức lộng lẫy, mão, vòng cổ, v.v…, cũng như y phục óng ánh như tơ. Ngài ngồi trang nhã, với chân phải duỗi nhẹ và chân trái khẽ co lại.Trên trán ngài là chữ OM màu trắng, đại diện thân của tất cả chư Phật; nơi cổ họng ngài là chữ AH màu đỏ, tượng trưng khẩu của tất cả chư Phật; nơi tim ngài là chữ HUM màu xanh dương, là ý của tất cả chư Phật. Thực chất, thân khẩu và ý của chúng ta luôn luôn là thân khẩu và ý thanh tịnh của chư Phật. Cho đến giờ, chúng ta nhận thức những cái này là bất tịnh. Để chuyển hóa điều này, quán tưởng ba chỗ của chúng ta với các chủng tự OM, AH và HUM. Trên đỉnh của chữ HUM, chúng ta cũng quán chữ TAM, là chủng tự của Đức Tara. Thêm vào đó, Đạo sư cũng xuất hiện trong hình tướng của Đức Tara xanh lục, đồng thời với sự hiện thân của Đức Tara xanh lục trên bàn thờ. Bên trong tim của chúng ta hiện ra Đức Tara và trong tim của Đạo sư cũng xuất hiện Tara như vậy và cả trong tim của Đức Tara mà chúng ta quán tưởng trên bàn thờ cũng có một Đức Tara nhỏ xíu. Trong tim của Đức Tara nhỏ xíu này là một chữ TAM nhỏ xíu.Ánh sáng rực rỡ chiếu ra từ tim của Đạo sư và của Đức Tara trên bàn thờ. Ánh sáng này đầy khắp pháp giới, tràn khắp mười phương đến các cõi Phật và đến tất cả các bậc Giác ngộ, cầu khẩn ân phước vô biên của chư Phật và chư Bồ tát, triệu thỉnh toàn thể trí tuệ và từ bi của các ngài.Nhất là, ánh sáng này chiếu đến cảnh giới “Lam ngọc diệp âm”, trong tịnh thổ Potala nơi phương Nam, đây là nơi hiện thân phương diện trí tuệ của Đức Tara cư ngụ. Giờ đây toàn thể các bậc Giác ngộ đều lấy hình tướng của Đức Tara. Nơi đây (đàn tràng chúng ta ngồi-ND) trong không gian bên trên và bao quanh chúng ta là triệu triệu và tỉ tỉ Đức Tara với vẻ đẹp siêu phàm rơi xuống như mưa lên chúng ta và được thu hút vào thân thể chúng ta. Kích thước lớn nhất của các ngài có thể như những ngọn núi, nhỏ nhất thì như hạt mè (vừng). Như một cơn bão khổng lồ hội tụ từ mười phương, tất cả những cơn mưa này rơi xuống và thấm nhập vào chúng ta. Trong một lễ quán đãnh, điều này gọi là ân phước ban xuống, và hết sức quan trọng. Bây giờ, chúng ta quán tưởng rõ ràng ba chủng tự, OM, AH, và HUM, tương ứng trên trán, cổ và tim. Chúng ta cũng quán tưởng về phương diện thiền định trong trái tim mình một Đức Tara nhỏ xíu. Tất cả như vậy được quán tưởng thật rõ ràng bên trong hiện thân Tara của chính chúng ta, trong hiện thân Tara của bậc Đạo sư và trong hiện thân Tara trên bàn thờ. Tiếp đến, những tia sáng phát ra từ tim của Đạo sư, thỉnh mời tất cả bổn tôn của lễ quán đãnh xuất hiện phía trước mặt Đạo sư trên bầu trời, và Đạo sư rưới cam lồ từ bình quán đãnh. Đồng thời, các bổn tôn ban quán đảnh bằng cách tưới cam lồ từ những bình các vị cầm trong tay của mình. Cam lồ này chảy qua đỉnh đầu của chúng ta, tràn đầy khắp thân thể chúng ta và dâng trào ra qua đảnh kế của chúng ta, ở đó cam lồ dư trào biến thành Đức Phật Bất Không Thành Tựu.Theo cách này chúng ta phải cảm nhận rằng đã nhận được ân phước từ thân giác ngộ, thân của Thánh Tara, và nhờ đó, những hậu quả của ác hạnh tội lỗi trong quá khứ được tiêu trừ. Thân vật lý của chúng ta trở nên bất phân với thân của Đức Tara, và chúng ta được phép quán tưởng chính mình như là Đức Tara. Từ nay trở đi, chúng ta phải không bao giờ thấy thân mình là thân bất tịnh, thay vào đó phải luôn luôn thấy mình trong hình tướng của Đức Tara. Để nhận ân phước về khẩu giác ngộ của Đức Tara, chúng ta hãy quán rằng trong tim của Đạo sư và Đức Tara trên bàn thờ có chủng tự TAM bao quanh là thần chú của Đức Tara. Những tia sáng phát ra từ chữ TAM trong tim của Đạo sư và Đức Tara trên bàn thờ. Bây giờ chúng ta tụng thần chú OM TARE TUTTATE TURE SVAHA. Khi chúng ta làm như thế, giống như bọt bóng nổi lên mặt nước, từ miệng của Đạo sư trong hình tướng Tara và từ miệng của Đức Tara trên bàn thờ, các chữ thần chú bay ra và được hấp thụ vào chủng tự TAM trong tim chúng ta. Chúng được hấp thu vào thiền định tôn, là Đức Tara nhỏ xíu giữa tim của chúng ta. Những chữ này xếp quanh chữ TAM trên đĩa mặt trăng giữa tim của Tara nhỏ xíu trong tim chúng ta. Tiếp theo chúng ta hãy quán tưởng toàn bộ ân phước của khẩu giác ngộ của hết thảy chư Phật trong hình thức các chữ của thần chú Tara, và tất cả mưa xuống chúng ta. Những chữ này đi vào chúng ta qua miệng của mình, và được tiếp nhận bằng hiện thân về phương diện trí tuệ là Đức Tara xuất hiện trong tim ta. Một lần nữa chúng ta lập lại thần chú. Ở đây chúng ta phải cảm nhận rằng mọi chướng ngại về ngữ, mọi che chướng liên quan về khẩu được tịnh hóa. Hết thảy mọi hậu quả của ác hạnh trước đây của khẩu cũng được tiêu trừ. Chúng ta được phép trì tụng thần chú của Đức Tara. Kế tiếp là ban phước về ý. Chúng ta tập trung vào Đức Tara trên bàn thờ, tức là vị Tara trên mandala. Bây giờ chúng ta phát khởi lòng sùng kính lớn lao về Mẹ Tara, và cầu khẩn ngài ban ân phước. Từ tim của ngài tỏa ra vô số bông hoa như hoa sen xanh dương utpala ngài cầm trong tay trái. Tất cả được hấp thu vào chúng ta qua đỉnh đầu của mình. Cuối cùng, chúng ta hãy quán tưởng ánh sáng chiếu ra và chuyển hóa tất cả vũ trụ vô tình thành cung điện thiêng liêng và tất cả chúng sanh hữu tình chuyển thành Đức Tara. An trú tâm ở trạng thái này một khoảng thời gian ngắn, trong đó mọi thứ được cảm nhận như một cơn mộng. Theo cách này chúng ta có thể nhận được ân phước và gia trì của thân, khẩu và ý giác ngộ của Đức Tara, và cũng nhận được ân phước từ bình quán đảnh. Rồi chúng ta cúng dường mandala để cảm tạ ân phước.
Thiền định về Đức Tara xanh lục
Trên nền tảng của thực hành mở đầu, đồng thời dựa trên tiếp nhận ân phước của Bồ tát Tara, chúng ta có thể thực hành thiền định về Tara và trì tụng thần chú của ngài. Con đường vào thiền định Phật giáo theo truyền thống Đại thừa bắt đầu với lojong, luyện tâm. Quan trọng nhất là phát khởi và rèn luyện từ bi. Làm thế nào chúng ta phát khởi sự rèn luyện này? Trước hết, chúng ta thiền quán về lòng tốt của người mẹ đối với chúng ta. Mẹ của chúng ta mang thai và sinh ra chúng ta. Bà đã cho ăn và tắm rửa chúng ta từ khi chúng ta còn bé bỏng yếu đuối bất lực. Hãy nhớ đến lòng tốt của bà, hãy nghĩ đến chính người mẹ của chúng ta. Khi chúng ta thiền quán theo cách này về người mẹ của mình, phát sinh tình thương và lòng biết ơn đối với bà. Một khi chúng ta khởi lên cảm xúc này, chúng ta có thể mở rộng cảm xúc ấy đối với người khác, dần dần cho đến lúc chúng ta có thể phát triển tình thương và lòng biết ơn đối với toàn thể chúng sanh trong lúc mình thiền định. Điều này là có thể bởi vì trong quá khứ vô thủy, mọi chúng sanh thực sự đã từng là người mẹ tử tế của chính chúng ta. Như đã nói trong nhiều cầu nguyện quy y, ‘Vì mọi chúng sanh hữu tình từng là mẹ của con, Con xin quy y’. Một cách khác là chúng ta cũng quán tưởng về tình thương người mẹ dành cho đứa con duy nhất của bà, và tương tự mở rộng cảm xúc này đến toàn thể chúng sanh hữu tình. Một khi chúng ta làm được điều này, bước kế tiếp là bắt đầu tập phát khởi lòng bi. Thấu hiểu lòng tốt của người mẹ dành cho chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ muốn nhìn thấy mẹ mình phải chịu bất kỳ đau khổ nào. Mong muốn giải thoát mẹ của chúng ta ra khỏi mọi đau khổ là lòng bi. Đặt mình vào vị trí của người mẹ, cảm nhận những bất hạnh và bất cứ nỗi khổ đau nào mà bà phải gánh chịu. Một khi cảm xúc bi mẫn xuất hiện trong tim chúng ta, thì chúng ta có thể mở rộng nó ra với người khác cho đến khi nó bao bọc mọi chúng sanh. Chúng ta thực sự cảm nhận nỗi đau khổ của người khác và khát khao chân thành muốn giải thoát họ ra khỏi đau khổ. Trong trạng thái này, chúng ta sẵn sàng để quy y. Ở đây điều quan trọng phải hiểu đó là chúng ta chỉ có thể quy y với một bậc tự do giải thoát thực sự. Không có một sự giúp đỡ rốt ráo nào đối với việc chúng ta quy y với mọi thiên thần thế tục, cũng như một vị tiểu vương không thực sự bảo vệ chúng ta giống như một bậc đại vương được. Cũng có những cách rèn luyện tâm khác mà chúng ta có thể làm để chuẩn bị cho thiền định về quy y. Rất hữu ích trong việc quán xét về những lợi ích của lòng vị tha đối lập với những lợi ích vị kỷ. Mọi bất hạnh và đau khổ thực sự bắt nguồn trực tiếp từ việc đeo đuổi lợi ích cá nhân dẫn đến tổn hại những gì có thể tốt đẹp nhất cho người khác. Sự thật chính là mọi lợi lạc và may mắn bắt nguồn từ việc đặt hạnh phúc của người khác lên hàng đầu. Mọi thứ sa sút chỉ vì chúng ta làm việc vì lợi ích của chính mình rốt cuộc chỉ mang lại rắc rối cho chính chúng ta. Sống vì người khác chắc chắn điều tốt lành sẽ đến với chúng ta trong tương lai.Tương tự như vậy, thực hành thiện nghiệp là phần chính yếu của rèn tâm chúng ta theo chánh pháp. Cho ví dụ, nếu chúng ta bố thí trong quá khứ, chúng ta sẽ có đời sống sung túc thịnh vượng trong hiện tại. Nếu chúng ta nhẫn nhục trong quá khứ, thì bất cứ ai nhìn thấy chúng ta sẽ tự nhiên bị cuốn hút bởi chúng ta và cảm mến chúng ta, giúp chúng ta có sức mạnh và tầm ảnh hưởng. Đặc biệt quan trọng là sống theo chuẩn mực đạo lý. Nếu chúng ta không giữ giới trong đời này, thì khó có thân người ở đời sau. Sinh làm người trong đời này là nhờ một số thực hành giới luật trong đời trước. Như thế giới luật là mảnh đất thực sự cho mỗi một và mọi phẩm hạnh phát sanh ra. Cơ sở của giới luật là tu tập thiện hạnh. Về mặt thực hành, điều này nghĩa là từ bỏ mười hành vi bất thiện. Đó là : (1) Sát sanh, (2) Trộm cắp và (3) Tà dâm là ba hành vi thuộc về thân; (4) Nói dối, (5) Nói vu khống, (6) Nói lời khó nghe, và (7) Nói nhảm là những hành vi thuộc về khẩu; và (8) Tư tưởng tham lam hám lợi, (9) Ý nghĩ xấu xa muốn hãm hại người khác và (10) Niềm tin sai lầm hay tà kiến, là những hành vi thuộc về ý. Mười thiện hạnh thuộc về thân, khẩu và ý phát sinh tự nhiên khi chúng ta không phạm vào mười hành vi bất thiện. Do đó chúng ta nên hiểu rằng gìn giữ giới đức cũng là nền tảng khác của quy y. Theo cách này, bất cứ hành vi nào chúng ta làm, đều là những món cúng dường và phụng sự cho chư Phật. Bây giờ chúng ta thảo luận một vài cách thức rèn luyện làm nền móng cho quy y, những đối tượng nào nương theo đó chúng ta quy y? Đó là Tam bảo. Bảo đầu tiên là Phật, ngài có ba thân, hay thân, khẩu và ý giác ngộ. Đức Phật được nói rằng có ba thân hay những thân của giác ngộ. Pháp thân Phật như sự mênh mông của bầu trời hoặc không gian. Báo thân Phật hiển lộ mà không hề tách rời với Pháp thân, nó như trăng trên trời. Hiện thân của Phật như Hóa thân của thịt và máu như bóng trăng phản chiếu trên mặt hồ. Bảo thứ hai là Pháp. Nó gọi là tripitaka, Tam tạng kinh điển. Chúng ta quy y Pháp bởi vì sự chứng ngộ xuất hiện trong tâm của hành giả dựa trên sự hiểu biết kinh điển. Bảo thứ ba là Tăng đoàn, chúng hội giác ngộ, gồm A-la-hán, Bồ tát và các Bổn tôn. Chúng ta quy y là bước đi vững chãi trên con đường dẫn đến giác ngộ. Chúng ta quy y vì toàn thể chúng sanh hữu tình. Điều này nâng sự quy y của chúng ta lên tầm mức Đại thừa hay cỗ xe lớn, là mong muốn cứu vớt mọi chúng sanh hữu tình. Phật quả, sự giác ngộ, đạt được nhờ chứng ngộ vô ngã, trong đó có sự thấu suốt về tánh không của mọi hiện tượng. Luyện tập từng bước một và tích lũy công đức giúp chúng ta có thể chứng ngộ tánh không. Để làm điều đó, chúng ta cần nuôi dưỡng lòng kiên định dũng mãnh quyết đạt được giác ngộ. Cũng cần phải phát bồ đề tâm quý báu. Để có thể phát bồ đề tâm, cần phải quý trọng hạnh phúc của người khác. Điều này thường được đề cập trong giáo lý là tất cả đau khổ bắt nguồn từ bản ngã, trong khi tất cả hạnh phúc đến từ việc trân quý và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Việc nâng niu hạnh phúc của người khác sẽ dẫn đến bồ đề tâm, là động lực vị tha nhằm giải thoát mọi chúng sanh khỏi đau khổ và an lập họ trong giác ngộ. Nói sâu hơn đó là toàn bộ giáo lý của Phật có thể soi sáng bởi luật của nghiệp, luật nhân quả. Nếu bạn gieo hạt giống đức hạnh, nó sẽ sanh ra quả may mắn và hoàn cảnh thuận lợi. Nếu bạn nuôi dưỡng hành vi bất thiện, nó sẽ dẫn đến bất hạnh. Trong Phật giáo, chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của luật nhân và quả. Ki-tô giáo nhấn mạnh vào niềm tin Chúa trời. Nhưng đức tin tự nó còn là nhân, một nhân lành, vì vậy hạnh phúc thực vậy có thể phát xuất như là kết quả của một nguyên nhân, được vun bồi bằng đức tin. Vì vậy, thực chất, Chúa Giê-xu cũng nói về luật nhân và quả. Giáo lý của hai tôn giáo này có thể dùng nhiều khái niệm khác nhau song chia sẻ một vài ý tưởng rất tương đồng.Khi chúng ta nhận quán đảnh và tu tập pháp môn Tara xanh lục, ngài phải được nhìn nhận với niềm tin rằng ngài là hiện thân của tất cả hoạt động giác ngộ của chư Phật. Vì thế chúng ta có thể cầu nguyện với Nữ Bồ tát Tara. Không chút nghi ngờ nào về việc ngài có thể làm an dịu và hóa giải mọi nỗi sợ hãi. Cả Tara và Nữ Phật Vajrayogini là đồng nhất về bản thể, vì cả hai đều là Thánh nữ trí tuệ, những đấng giác ngộ. Ngay cả khi chúng ta không thể thực hành đầy đủ mọi chi tiết của mười một yoga của ngài Vajrayogini, chúng ta biết làm thế nào để cầu khẩn sâu xa đến Thánh nữ Tara và nhận được lợi lạc tương đương. Thông thường cùng với quy y và phát nguyện cứu độ mọi chúng sanh, chúng ta cũng trì tụng cầu nguyện bảy nhánh, được tìm thấy trong phần mở đầu của nhiều nghi quỹ. Bảy nhánh là : kính lễ, sám hối, tùy hỉ thiện hạnh của người khác, ..., thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế và hồi hướng công đức. Mỗi nhánh thể hiện một bộ phận quan trọng của con đường. Khi quy y và kính lễ, chúng ta thấy Đức Tara như đối tượng duy nhất của sự quy y, với ngài chúng ta phó thác đức tin của chúng ta. Đây là cái đầu tiên của bốn năng lực của sự sám hối, nhánh thứ hai. Năng lực đầu tiên của sám hối gọi là ‘năng lực của bàn thờ (năng lực nương tựa-ND)’. Giờ đây chúng ta sẵn sàng sám hối những ác hạnh với sự ăn năn mạnh mẽ, giống như một người uống nhầm thuốc độc và vì thế hối hận thực sự. Chúng ta biết tai họa như thế nào khi phạm những lỗi lầm như thế, và với sự ăn năn và hối lỗi, chúng ta sám hối. Đây là năng lực thứ hai của sám hối, ‘năng lực của ăn năn’. Năng lực thứ ba của sám hối là ‘năng lực của thuốc giải độc’; vắn tắt, điều này nghĩa là cam đoan thật chân thành không bao giờ tái phạm hành vi xấu nữa. Nhờ kết quả của điều này, mọi ác hạnh sẽ được sửa chữa hoàn toàn và thiện hạnh sẽ được phục hồi. Đây là năng lực thứ tư, ‘năng lực của hồi sinh’. Trừ khi chúng ta sám hối những hành vi bất thiện, chúng ta vẫn sẽ tiếp tục tích lũy những nguyên nhân của đau khổ. Một ví dụ của nhánh thứ ba trong cúng dường bảy nhánh, tùy hỷ công đức, được minh họa qua câu chuyện của một người ăn xin tùy hỉ công đức của một nhà vua dâng cúng một bữa ăn thịnh soạn lên Đức Phật. Nhờ tùy hỉ, người ăn mày thậm chí phát sinh công đức còn lớn lao hơn chính nhà vua. Tương tự, nếu chúng ta biết ai đó đã hoàn thành việc trì tụng nhiều triệu biến thần chú, nếu chúng ta hoan hỉ với thực hành đó, chúng ta có thể chia sẻ khối công đức lớn lao đó. Điều này cho thấy rằng ngay cả khi không có sự nỗ lực dụng công của người khác, nhưng nhờ tùy hỉ công đức của họ, chúng ta có thể đạt được sự tích lũy công đức rộng lớn. Một nhánh khác là thỉnh cầu chư Phật quay bánh xe pháp. Không có những thỉnh cầu như thế, giáo pháp không bao giờ đến được với chúng sanh hữu tình. Điều này đã được minh chứng trong cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật.Khi Đức Phật đạt giác ngộ, ngài đã có một câu nói nổi tiếng được ghi lại trong kinh điển :“Ta đã tìm ra giáo pháp tinh túy như cam lồ; nó trong sáng tinh khiết, sâu xa và an lạc, vượt qua suy lường của khái niệm.“Dù ta có giảng giải kẻ khác cũng không hiểu, và vì thế ta sẽ tiếp tục sống trong rừng không nói năng.” Trước việc đó, Phạm Thiên, đấng sáng tạo, đã thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân tùy theo những nhu cầu riêng biệt của chúng sanh hữu tình. Nhánh cuối cùng của bảy nhánh là hồi hướng công đức. Hồi hướng công đức là phần quan trọng nhất của cúng dường bảy nhánh. Bất kỳ thiền định, thực hành hay thiện hạnh nào chúng ta thực hiện, chúng ta phải luôn hồi hướng để công đức không bị tiêu mòn. Trừ khi bạn hồi hướng công đức, dù lớn lao đến đâu, nó cũng không mang lại lợi lạc nhiều hơn so với công đức đã được hồi hướng, và kết quả hành động chúng ta thậm chí có thể dẫn đến một nẻo khác! Mặt khác, một thiện hạnh dù nhỏ nhoi bao nhiêu, nhờ hồi hướng công đức, lợi ích sẽ tiếp tục tăng trưởng mãi không ngừng nghỉ.Cho ví dụ, một hành động bố thí dù nhỏ bé, như mang nước uống cho người khát, nếu được hồi hướng sau đó, nó sẽ tiếp tục tăng trưởng khối công đức của người đó. Nếu không hồi hướng, ngay cả công đức có được từ những thiện hạnh lớn lao cũng dễ dàng cạn kiệt. Kinh Phật dạy rằng chỉ một thoáng giận dữ có thể hủy hoại nhiều khối công đức lớn lao chưa được hồi hướng. Sân hận là cảm xúc phiền não có sức phá hoại lớn nhất. Chúng ta hãy hồi hướng bất cứ công đức gì chúng ta tạo ra ngay lập tức để nó không bị tiêu tan bởi những ý nghĩ, lời nói và việc làm tiêu cực của chúng ta. Phật dạy rằng nhẫn nhục như phương thuốc giải độc sân hận. Công đức phát sinh từ hạnh nhẫn nhục thật bao la. Trước bất kỳ lời lăng mạ nào nhắm vào bạn, đơn giản hãy thực hành nhẫn nhục. Bởi vì điều này quá ư quan trọng, chúng ta hãy dừng lại đây để xem xét những công đức của thực hành nhẫn nhục. Nhẫn nhục được liệt vào một trong sáu hay mười ba-la-mật, đáo bỉ ngạn của chư Bồ Tát. Có ba loại nhẫn nhục. Cao nhất là thấu hiểu vạn pháp vốn không tự tánh. Kế tiếp là nhẫn nhục bất bạo động, ở đây người ta không trả đũa hay đánh trả lại người đã sỉ nhục hay xử tệ với chính mình. Điều này nghĩa là chúng ta tự nguyện chấp nhận bất kỳ đau khổ hay thiệt hại có thể giáng xuống chính mình mà không đáp trả lại. Thực hành nhẫn nhục là một trong những hình thức cao nhất của khổ hạnh. Nhờ thực hành này, mọi cuộc gây hấn tự nó sẽ được xoa dịu. Khi hai cộng đồng có xung đột, nếu một trong cả hai có thể thực hành nhẫn nhục, mối bất hòa giữa họ có thể giảm bớt và lắng dịu xuống dần dần. Nhẫn nhục đôi lúc được xem như cao nhất trong tất cả các thiện hạnh; nó vô cùng thiêng liêng. Nếu ai đã thực hành nhẫn nhục, nó dẫn thẳng đến tái sinh với thân tướng đẹp đẽ. Mặc dầu chúng ta nghĩ rằng bẩm sinh đẹp đẽ là do kế thừa một loại di truyền nào đó của cha mẹ, thực tế phần lớn là nhờ công đức của hạnh nhẫn nhục trong những đời trước của họ. Quả thực, việc may mắn sinh làm người là nhờ giữ gìn đạo đức, thiện hạnh trong những đời trước. Nhưng không phải tất cả mọi người sinh ra đều xinh đẹp; chỉ những ai đã thực hành nhẫn nhục mới thọ hưởng được thân tướng đẹp đẽ trong đời này. Những ai hay nhẫn nhịn nói chung thường được mọi người khen ngợi; từ vua chúa và người quyền quý đến người thấp kém nhất, tất cả đều kính trọng người có hạnh nhẫn nhục. Đó là do nhẫn nhục làm tiêu tan sân hận-là nhân của nỗi đau khổ nhất. Không có ác hạnh nào giống như sân hận; chúng hủy hoại mọi hạt giống của công đức. Ngược lại, thực hành nhẫn nhục sẽ dẹp tan sân hận. Thực sự là không có công đức nào có thể sánh với công đức của nhẫn nhục. Một trong sáu hay mười ba-la-mật khác của chư vị Bồ Tát là Tinh tấn. Bất kỳ cái gì các bạn đảm nhận, bạn phải nỗ lực chuyên cần để thực hiện. Nếu bạn chuyên cần, bạn có thể tạo ra thậm chí một cái lỗ trên viên đá bằng cách dùng tay của bạn. Thực hành tinh tấn trong đời này có thể khiến người ta làm mọi việc một cách nhanh chóng và thành công trong đời tương lai, không gặp nhiều chướng ngại. Một cái nữa của ba-la-mật là Thiền định. Lợi ích của việc luyện tập thiền định đó chính là khiến chúng ta trở nên dễ hài lòng, an lạc và khoan dung. Chúng ta sẽ thấy rằng tâm của mình trở nên dễ thuần phục, và mọi việc đều tốt đẹp và chúng vốn dĩ như thế. Đó là một số công đức của thiện nghiệp phát sanh nhờ Thiền định. Đặc biệt quan trọng là Trí tuệ ba-la-mật. Nó trao cho chúng ta khả năng nhận thức mọi vấn đề với sự sáng suốt và lập luận rõ ràng. Luật nhân quả không hề sai chạy; nó không bao giờ kéo bạn xuống. Ác hạnh chắc chắn sẽ gặp đau khổ. Ngay cả khi người ta có may mắn sanh làm người, nếu những nhân xấu hiện diện trong chính họ, họ sẽ không ngừng chịu đau khổ, ngay cả khi có được tái sanh cao hơn. Những cảnh khổ như địa ngục là quả của ý niệm và hành vi sai lầm của chính mình. Không có một “nơi chốn” gọi là địa ngục. Lửa của địa ngục nóng là sự biểu hiện của sân giận không kiềm chế và ý niệm xấu tích tập trong tâm. Việc tích lũy những nghiệp này tái hiện những gì đã xuất hiện trong đời thực mà họ đã trải qua. Do nghiệp xấu, họ có một nhận thức méo mó về thực tại, không nhận ra bất cứ cái gì của thực tại, họ dường như chỉ kinh nghiệm về những gì tạo ra bởi chính tâm thức họ. Mọi thực hành thiền định phải được xây dựng theo ba điểm tinh yếu : đó là chân chánh lúc bắt đầu, chân chánh lúc ở giữa, chân chánh lúc kết thúc. Trong thiền định, điều quan trọng nhất là quán tưởng về tánh không. Mọi thành tựu của chư Phật là kết quả của quán không. Chính chúng ta không thể trở thành Phật bởi vì chúng ta không thiền quán thực sự về tánh không. Chân chánh lúc bắt đầu là Quy y. Chân chánh ở giữa là phần chính yếu của thực hành. Chân chánh lúc kết thúc là hồi hướng công đức. Vì vậy chúng ta có thể thấy Quy y là nền tảng của tất cả mọi thực hành tiếp theo. Theo trường phái Cựu dịch, họ nói về 9 thừa của Phật giáo, bao gồm cả 6 thừa mật giáo, trong lúc trường phái Tân dịch nói về 4 thừa hay cấp độ Tantra: Kriya hay Tantra Hành động; Charya hay Tantra Thực hiện; Tantra Yoga; và Anuttarayoga Tantra hay Tantra Yoga Vô thượng. Trong thực hành của Kriya Tantra, chúng ta quán tưởng bổn tôn, như Thánh nữ Tara, trong không gian bên trên và trước mặt, và nghĩ chính mình như một thần dân trung thành cầu khẩn với một vị vua hay nữ hoàng, mong nhận được lòng tốt của các ngài. Đây là bản chất của mối quan hệ của hành giả và bổn tôn trong Kriya Tantra. Trong Charya Tantra, bạn xem bổn tôn như một người bạn, người mà bạn yêu cầu cho một ân huệ hay trợ giúp hoặc một ban phước nào đó. Trong Charya hay Tantra Thực hiện, mối quan hệ giữa hành giả và bổn tôn như một người bạn với một người bạn.Trong Tantra Yoga, chúng ta sẽ hợp nhất tự tánh của mình với bản tánh của bổn tôn, hợp nhất hình tướng của chính mình với hình tướng của Tara. Trong Tantra Anuttarayoga, chúng ta không xem chính mình và bổn tôn tách rời về mặt bản thể. Dựa trên điều này, chúng ta chuyển thân, khẩu và ý của chính mình thành thân, khẩu và ý của Thánh nữ Tara. Để làm điều này, chúng ta phải nhận được sự cho phép-khai tâm. Đây là những gì giúp chúng ta chuyển thân bình phàm của chúng ta thành thân thiêng liêng, chuyển khẩu bình phàm của chúng ta thành khẩu giác ngộ, và chuyển ý bình phàm của chúng ta thành trí tuệ của Thánh nữ Tara nhờ thiền quán về tánh không.
Lợi ích đặc biệt ban tặng bởi Thánh nữ Tara và các Thánh nữ khác
Thực hành Tara mang đến nhiều ban phước phi thường khác nhau, và đặc biệt hiệu quả trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Cho ví dụ, người ta nói rằng thời kỳ cuối của đại kiếp, khi những khó khăn và thiên tai ngày càng tăng, thần chú và nghi thức cúng dường Tara rất cần thiết. Bất kỳ ai có thể trì tụng cầu nguyện Tara sẽ nhận được lợi lạc vô cùng lớn lao. Vào thời kỳ đầu của Hiền kiếp chúng ta, Đức Phật Đại Nhật Như Lai là vị Thầy, bậc hướng dẫn tâm linh, của Thánh Tara. Phật Đại Nhật đã ban phước cho ngài Tara và tiên tri rằng vào cuối kỳ Hiền kiếp, những vùng đất và thế giới nào làm lễ puja, tụng kinh và những nghi thức của Tara được trì tụng, nhờ kết quả của những thực hành này, nhiều dịch bệnh, bất ổn và rối loạn gây ra bởi ác ma và con người đều được an dịu và giải quyết. Tôi thấy rằng thực hành Tara là vô cùng quan trọng và là tinh túy cho mọi thực hành trong thời kỳ này. Các vị Thiên nữ khác cũng rất hữu dụng về mặt này là Marichi, hay Ozer Jemma, và thiên nữ Dược vương nổi tiếng, Parna Shawari. Trì tụng kinh của các ngài và thần chú mang lại năng lực và lợi lạc tương đương như Đức Tara. Các ngài cơ bản là một với Phật mẫu Prajnaparamita, chỉ khác nhau về hiện thân. Với Tara, người ta nói rằng không chỉ dịch bệnh và rối loạn tạo ra bởi ác ma, mà cả chiến tranh, xung đột và tranh tụng cũng có thể thoa dịu và được giải quyết nhờ năng lực của thực hành về ngài. Mọi trở ngại và khó khăn liên quan có thể được hóa giải nhờ ân phước của những cầu nguyện và thần chú của ngài. Ozer Jemma and Parna Shawari cũng như Yudon Drolma, là những hình tướng đặc biệt hiệu quả của thiên nữ đối với sự thực hành để bảo vệ chống lại và chữa lành mọi bịnh tật. Chúng đặc biệt quan trọng đối với việc bảo hộ khỏi trộm cướp và tội phạm, và chữa lành đau khổ tạo bởi bất hòa và xung đột. Người ta nói rằng các nghi lễ cầu nguyện cúng dường puja và trì tụng thần chú đặc biệt quan trọng khi chúng ta đi vào giai đoạn cuối của đời người hay chu kỳ của thời gian. Trong những thời kỳ như vậy, thực hành Guru Rinpoche thường được khuyên áp dụng, nhưng Tara, Ozer Jemma và Parna Shawari cũng thật quan trọng. Trong những thời kỳ đe dọa bởi chiến tranh, dịch bệnh, bất hòa, v.v… thật quan trọng trong việc in thần chú của ba thiên nữ này lên cờ cầu nguyện và treo trên cao, càng nhiều người làm càng tốt. Mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội hãy làm điều này và tụng đọc thần chú này càng nhiều càng tốt. Cùng với cầu nguyện Guru Rinpoche, những thực hành này là hiệu quả nhất trong những thời kỳ và hoàn cảnh như đã nói trên. Điều này đã được đề cập trong nhiều kinh điển. Những ai dâng lời tán thán Đức Tara là thực sự khôn ngoan. Dầu sáng sớm hay đêm khuya, nếu ai trì tụng tán thán 21 Đức Tara, hai, ba và bảy lần, tổng cọng 12 lần trì tụng tán thán 21 Đức Tara, mọi nguyện ước đều thành tựu. Trong nghi lễ 4 mạn đà la của Thánh Tara “Ngọn đèn sáng” người ta tụng đọc kinh tán thán hai, ba và bảy lần. Khi nói rằng mọi mong ước đều được thành tựu, điều đó có nghĩa là nếu bạn muốn con cái, bạn sẽ có. Nếu bạn cần tiền, điều này sẽ được thỏa mãn. Bất kỳ mong muốn của bạn, đều được thành tựu nhờ tán thán Đức Tara. Thực sự, người ta không cần làm gì nhiều hơn ngoài thực hành này; nó thành tựu mọi việc. Bạn cần thử để kiểm tra điều đó, thử xoa dịu những chướng ngại của bạn. Mọi chướng ngại và khó khăn, dù nhiều bao nhiêu, cũng có thể được xua tan và an dịu nhờ tán thán Đức Tara. Nhờ cầu khẩn Đức Tara, mọi chướng ngại tiềm ẩn mất khả năng để làm hại bạn; chúng được xoa dịu một cách tự nhiên. Không cái gì có thể làm hại bạn bằng bất kỳ cách thức nào; bạn trở nên không thể xâm nhập, không thể khuất phục. Không nghi ngờ gì Đức Tara rất nhanh chóng làm an dịu mọi chướng ngại. Nó là một phương pháp nhanh chóng và gắn bó đặc biệt đối với các hành giả nữ. Tara và Phật mẫu Vajrayogini là đồng nhất về bản chất; Vajrayogini cũng là một phương pháp nhanh chóng đạt được thành tựu. Mọi hoạt động của chư Phật đều hiện diện ở Đức Tara, hoàn toàn trong ngài. Giờ đây bạn đã được ban năng lực để quán tưởng chính mình trong hình tướng của Tara xanh lục. Lời nói của bạn có thể chuyển thành thần chú, ý của bạn thành trí tuệ. Bạn không còn là một con người bình thường; thân, khẩu và ý của bạn đã được nâng lên trạng thái cao quý của chính Đức Tara, mang hình tướng, thần chú và trí tuệ của Đức Tara. Những câu kinh tán thán 21 Đức Tara không phải là tác phẩm thông tuệ của các học giả. Chúng được tuyên thuyết trực tiếp từ chính kim khẩu của Đức Phật Đại Nhật Như Lai và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hãy trì tụng tán thán Đức Tara nhiều hết mức có thể hàng ngày trong suốt cuộc đời bạn. Nếu bạn không thể có bất kỳ thời gian nào để trì tụng tán thán, hãy cố gắng tụng thần chú Tara,OM TARE TUTTARE TURE SVAHA. Tối thiểu bạn có thể tụng “Tara, Tara, Tara iK” hay có thể tụng “Tare, Tare, Tare iK”, chỉ lặp lại tên của ngài. Khi bạn réo gọi tên của ai đó, họ làm thế nào có thể bỏ qua sự chú ý đến bạn? Nhờ kêu cầu danh hiệu Thánh Tara, ngài chắc chắn sẽ nghe thấy và trả lời bạn. Đừng làm điều đó bởi vì tôi nói như thế, mà bằng mọi cách, hãy thực hành!
Việt dịch: Nyingmapavietnam 10.9.2012
Nguồn: http://www.lamamigmar.com/html/practice-green-tara.html