LÒNG TIN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
Thích Đạt Ma Phổ Giác
Phật tử là những người tu theo Phật, bao gồm người xuất gia và cư sĩ tại gia. Vậy lòng tin của người Phật tử là gì? Là tin Tam bảo - ba ngôi quý báu, hiếm thấy, khó gặp ở đời vì sự nhiệm mầu của nó; là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng.
Phật là một con người giống như tất cả mọi người chúng ta; nhờ tu tập, chuyển hoá, buông xả, nên đã giác ngộ hoàn toàn, không còn phiền não tham-sân-si chi phối; tức tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Pháp là những lời dạy vàng ngọc của Phật do Ngài tu chứng mà nói ra, được kiết tập trong Tam tạng kinh điển, hướng dẫn mọi người biết được điều hay lẽ phải, điều tốt lẽ xấu trong cuộc đời.
Tăng là những người đi theo con đường của Phật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người cùng tu theo, để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, không phải tìm kiếm bên ngoài và cầu cạnh nơi phương trời xa xôi nào đó.
Lòng tin này đối với tất cả mọi người là dễ tin hay khó tin? Dễ tin đối với người đã có nhận thức, hiểu biết chân chính; khó tin đối với người quá tham lam, si mê và ích kỷ. Lòng tin theo Phật giáo phải là chánh tín, tức niềm tin sau khi đã được cân nhắc, nghiệm xét, quán chiếu, hành trì, chuyển hoá nhờ phát sinh trí tuệ. Niềm tin mà thiếu sự hiểu biết chân chính tức tin mù, tin quáng, tin suông mà không có sự kiểm chứng, thể nghiệm về nó; như vậy chính là niềm tin mê tín. Vì thế, khi đã tin thì phải hiểu rõ về bản chất sự thật của nó và hiểu để củng cố, tăng trưởng thêm niềm tin là điều không thể thiếu đối với người Phật tử chân chính.
Trong bất kỳ sự nỗ lực nào của con người thì niềm tin đều đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Người thiếu niềm tin chân chính sẽ sống một cuộc đời vô vị, không có ý nghĩa và giá trị thiết thực để đóng góp lợi ích cho gia đình và xã hội. Niềm tin chân chánh đối với người Phật tử rất quan trọng và cần thiết, nên chúng ta cần phải suy nghĩ và thực tập cho được kết quả tốt đẹp.
Niềm tin là gì?
Từ khi loài người có mặt trên thế gian này, sống giữa trời đất bao la với hiểu biết và việc làm còn giới hạn, nên thường lo lắng và sợ hãi bởi những suy nghĩ cạn hẹp. Họ tưởng tượng ra có một đấng tối cao toàn quyền ban phước, giáng hoạ; nhìn đồi núi chập chùng, cao vót, họ tưởng ra vị thần núi; nhìn biển rộng bao la, mênh mông, họ nghĩ có vị thần biển đang cai trị ở đó, và vô số vị thần có nhiệm vụ cai quản muôn loài vật ở thế gian này. Đó là niềm tin của con người ở thời kỳ sơ khai, tin vào thế giới thần linh một cách tuyệt đối và chấp nhận giao phó số phận của mình, uỷ thác cho thần linh sắp đặt, định đoạt. Về sau, loài người chúng ta thật diễm phúc khi có được nhân duyên tốt đẹp gặp được Tam bảo, tức ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng trên cõi đời này.
Đức Phật dạy rằng, niềm tin là mẹ sinh ra tất cả công đức lành, người không có niềm tin chân chính không tạo được công đức lâu dài. Do đó, chúng ta tin như thế nào là niềm tin chân chánh để không rơi vào si mê, cuồng tín. Ngài cũng tiếp thu những truyền thuyết đương thời trên nền tảng có suy xét, chọn lọc, bằng sự tu tập của chính mình để khám phá ra thế giới thần linh đúng như thật.
Niềm tin chân chánh được phát sinh sau khi có tu tập, chuyển hoá, nên khác với niềm tin mê muội, tà dại. Ngày xưa, người ta sợ trời đánh nên nghe tiếng sấm sét thì cho rằng có thần sấm sét. Người xưa vì phương tiện để răn dạy những đứa con bất hiếu, ngỗ nghịch, không nghe lời cha mẹ, nên nói rằng trời sẽ đánh kẻ bất hiếu, mục đích là để răn dạy con người sống tốt hơn, biết được đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Ngày nay, khoa học đã phát minh ra được nguyên nhân sấm sét, nên đã làm cột thu lôi ngăn chặn sét đánh; rõ ràng là chẳng có ông thần sấm sét nào cả hiện thân trên cõi đời này.
Đức Phật dạy rằng, niềm tin chân chánh là niềm tin có trí tuệ cân nhắc, soi sáng. Vì thế, đức Phật khuyên chúng ta đừng nghe những gì người khác nói dù đó là truyền thuyết có từ nhiều đời. Nghe điều gì ta cũng phải nên suy nghĩ, tìm tòi, xem sự việc đó có thiết thực, lợi ích hay không. Khi ta muốn tin điều gì mà không có trí tuệ suy xét, không chứng minh được nguồn gốc của nó, thì dễ rơi vào mê tín, dị đoan. Đức Phật cũng dạy chúng ta đừng vội tin những gì được nhiều người tin theo. Nếu họ là nhà trí thức có đời sống đạo đức, nhân cách cao thượng, được nhiều người quý mến, kính trọng, thì ta cũng phải suy xét cho kỹ càng giá trị, lợi ích của họ. Niềm tin của chúng ta căn cứ trên những tiêu chuẩn như vậy mới là niềm tin chân chánh.
Như chúng ta đã biết, niềm tin là mẹ sinh ra các công đức lành được trải nghiệm qua đời sống hiện thực, nếu không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm đáng tiếc vì niềm tin mù quáng. Từ đó ta cũng sẽ bị người lợi dụng niềm tin để làm các việc xấu ác. Khi niềm tin của chúng ta bị lợi dụng, chúng ta trở thành người cuồng tín, si mê, dại dột, nên mặc tình giết người vì nghĩ rằng sẽ được lên thiên đường hưởng phước báo tối cao. Phước đâu chẳng thấy, chỉ thấy mang tội giết người và bị tù tội hoặc tử hình, tạo ra bao mối nguy hiểm cho xã hội.
Trong mối quan hệ giao tế giữa con người với con người, lòng tin tạo nên sự gắn bó thân thiết trong sự liên quan các mối giao dịch làm ăn và củng cố uy tín cho chính mình đối với cộng đồng xã hội. Trong suốt quá trình xây dựng lòng tin đối với mọi người, chính chúng ta cần phải có sự kiên nhẫn và thành thật. Trong sinh hoạt gia đình, sự thương yêu, đùm bọc, sẻ chia cho nhau đều bắt đầu từ lòng tin giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, người thân và láng giềng. Lòng tin như một chất keo luôn gắn bó con người với con người, và là một chất liệu kết nối yêu thương để chúng ta thêm gắn bó và cảm thông với nhau lâu dài.
Ðức Phật dạy, tin là căn bản của sự thành công và là nguồn gốc để phát sinh muôn hạnh lành; nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, bốc đồng, mà không có suy xét, kiểm chứng qua sự thực hành. Ðức Phật đã từng nói, “ta chỉ là vị thầy dẫn đường giúp cho mọi người đi đến con đường bình yên, hạnh phúc; ta không phải là một vị thần linh hay một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng hoạ”. Người Phật tử tin Ngài là một con người giác ngộ và chúng ta cũng là một con người, ai quyết tâm và kiên trì, bền bỉ thì sẽ biết cách chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Do đó, sự thành công của chúng ta không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của mỗi con người, có thể làm cho chúng ta ỷ lại, lười biếng, mà dang tay chờ đợi những giáo điều ngu ngơ, huyền hoặc.
Một đức tin hỗn tạp, thiếu căn cứ đều phát xuất từ lòng tham lam của con người thường tin tưởng, nương nhờ vào một thế lực không có căn cứ rõ ràng. Ðạo Phật truyền vào Việt Nam đã trên 2.000 năm, có những thời rực rỡ, huy hoàng, chói sáng, nhờ vào sự sáng suốt của các nhà vua như thời Lý, Trần; và cũng có những lúc lu mờ, tối tăm, bởi những ông vua đam mê hưởng thụ quá mức chỉ biết cho riêng mình. Con người sống tốt và có ý thức, hay suy thoái đạo đức là do niềm tin không chân chính làm xáo trộn bởi sự hiểu biết sai lầm.
Một lòng tin chân chính phải đi theo với sự tìm tòi bằng sự quán chiếu, xem xét, hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tín. Ðối với những ai tu theo đạo Phật tin mà không hiểu rõ ràng thì sẽ dễ lầm đường, lạc lối, tạo sự mất tin tưởng cho người khác. Ðức Phật là một người dẫn đường trong đám người lạc hướng, Ngài đã tốn rất nhiều công sức mới khám phá ra chân lý cuộc đời. Chúng ta ngày nay được thừa hưởng lời Phật dạy mà khỏi phải mất công tìm tòi cực nhọc, vất vã, vì đã có sẵn trên tay tấm bản đồ. Ví như 6 người cùng đi rừng đều khác nước, một người chỉ bỏ công ra tìm nước, khi uống thì 6 người đều hết khát; nhưng người đi tìm nước phải chịu vất vã, cực khổ. Chúng ta bây giờ cũng vậy, ta khỏi phải tốn thời gian, mất công, tổn sức, mà chỉ cần đi theo tấm bản đồ đã hướng dẫn sẵn là có thể đến đích; như người có bệnh được vị lương y cho thuốc nhưng sợ đắng nên không uống, bệnh không lành là do lỗi người bệnh, không phải lỗi do thầy thuốc. Nếu Phật Tử không hiểu lời Phật dạy, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì Ðức Phật và Tam tạng giáo điển đối với chúng ta không còn ý nghĩa gì nữa hết.
Đạo Phật là đạo của con người vì sự giác ngộ của chính mình và giúp cho nhân loại cùng giác ngộ, giải thoát. Mọi sự mê tín dị đoan, thần quyền đều không có trong đạo Phật; nhưng tại sao rải rác trong các bản kinh lại có nêu ra các vị thần, như Thiên thần, Lâm thần, Thọ thần, Quỷ thần, điều này có ý nghĩa và mục đích gì? Kinh điển Phật giáo tiêu biểu như Kinh Địa Tạng cũng nêu ra rất nhiều loại Quỷ thần, nhằm nói lên nghiệp cảm sai biệt của mỗi chúng sanh trong thế giới lục đạo luân hồi. Đạo Phật không chấp nhận có Quỷ thần ban phước giáng hoạ, điều khiển, sai khiến mọi người bằng một quyền năng vô hình như các truyền thuyết khác. Thế gian này với thiên hình, vạn trạng, vô số chúng sinh đủ loại màu sắc, hình dạng; sự sai biệt đó là do tạo nghiệp bất đồng mà thọ nhận quả báo tốt hay xấu; có loài sống dưới nước như tôm, cá, lươn, cua…; có loài sống trên không như chư Thiên; có loài sống ở đất liền như loài người và các loài động vật, thực vật khác; như thế, Quỷ thần cũng là một loại chúng sanh như vô số chúng sanh khác trong bầu vũ trụ bao la này.
Kinh Phật còn cho chúng ta biết thêm về thế giới quan, có chúng sanh hữu tình, chúng sanh vô tình, có loài hữu hình, hữu tướng, có loài vô hình, vô tướng. Tất cả đều tùy theo căn thức và nghiệp cảm mà có ra vô số sự sai khác, không có một chúng sanh nào cai quản chúng sanh nào mà tuỳ theo nhân tốt xấu để cho ra kết quả tương xứng trong hiện tại. Chính vì vậy, Đức Phật không bao giờ khuyên dạy bất cứ ai cầu khẩn, van xin nơi Quỷ thần vì Quỷ thần cũng chỉ là một chúng sanh và đang chịu sự chi phối, vận hành của quy luật nhân quả.
Tóm lại, giáo lý nhà Phật có nói đến các loại Quỷ thần như là một chúng sanh bị nghiệp cảm thọ báo mang hình hài, nghiệp thức trong loài đó. Phật giáo không chấp nhận có một đấng quyền năng ban phước, giáng hoạ dù là Nhất thần hay Đa thần giáo. Ðôi khi, người Phật tử chỉ biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó để cầu nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình yên hạnh phúc mà không chịu tìm hiểu rõ nguyên nhân thật giả, không chịu tìm hiểu cho chánh đáng, không chịu học hỏi bằng tâm chân chính; nên một số người lợi dụng chỗ yếu kém đó từ sự mê tín dị đoan, tin mà không hiểu, nên dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến; hậu quả khó lường trước được.
Thế gian này là một chuỗi dài phiền muộn, khổ đau nhiều hơn là bình yên, hạnh phúc. Cho nên, nhận định cuộc đời "khổ nhiều vui ít" là một sự thực rõ ràng, nhưng ít ai dám mạnh dạn nhìn nhận. Con người do bộn bề công việc vì mải mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống hằng ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu, nghiệm xét. Khi gặp hoàn cảnh khổ đau hay những điều bất như ý, con người chỉ biết oán trời trách đất, đổ thừa xã hội bất công hoặc trách cứ ông bà cha mẹ ăn ở bất nhơn thất đức, nên con cháu bây giờ mới ra nông nổi này.
Lòng tin của chúng ta phải có cơ sở, mà cơ sở đó được trải nghiệm qua sự quán chiếu, tìm tòi. Chính sự quán chiếu đó làm cho ta tăng trưởng thêm sự nhận thức đúng đắn, nhờ vậy trong đời sống ta bớt âu lo, căng thẳng hay phiền muộn, khổ đau. Chúng ta tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong những phút giây làm việc để phục cho tha nhân và không phải bận tâm lo lắng nhiều đến kết quả của nó. Lòng tin khi phát sinh trí tuệ đã giúp chúng ta giải thoát được “cái tôi” dính mắc, cố chấp vào sự hiện hữu của nó.
Tuy nhiên, ai trong chúng ta cũng đều phải hiểu rằng, không phải lúc nào mọi việc cũng đều thuận lợi như ta mong muốn bởi sự thay đổi bất thường trong cuộc sống. Để củng cố lòng tin, chúng ta cần phải sống có ý chí, kiên trì, bền bỉ và thành thật. Khi gặp những chỉ trích, phê phán ngược lại lòng tin của mình, ta vẫn bình thản, an nhiên mà không bị họ làm lung lạc.
Như thời đức Phật còn tại thế, Ngài rất thận trọng khi nói đến lòng tin. Trong kinh Nền Tảng Đức Tin, khi dân chúng Kalama hỏi đức Phật việc phải tin theo ai trong số các bậc đạo sư thường đến giảng dạy tại làng họ, Ngài đã chỉ cho họ cách để bảo vệ và phát triển lòng tin: “Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm; chỉ khi nào sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài, thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”.
Chính chúng ta trải nghiệm, kinh qua để thấy lòng tin của mình được củng cố ra sao, vì giá trị vô giá của lòng tin ta không thể xem nhẹ những trải nghiệm tự thân cần thiết này. Chúng đích thực là chất liệu, là năng lực giúp mọi người duy trì để sống đời bình yên và hạnh phúc. Chúng ta hãy tìm hiểu lại cuộc đời của đức Phật trước và sau khi Ngài thành đạo bằng đôi mắt thiền quán của chính mình để có thể thấy được giá trị của lời dạy chân chính ấy. Là Phật tử, tất cả chúng ta đều biết rằng trước khi Phật thành đạo, Ngài có làm gì đâu, Ngài chỉ ngồi lặng yên nơi cội Bồ đề để chuyển hoá những tâm tư vọng động, hư dối, thế mà Thiên ma vẫn tìm đủ mọi cách để quấy phá sự thành đạo của Ngài.
Ngài đã thành tựu dưới cội Bồ đề nhờ biết cách buông xả, cho đến khi Ngài thành đạo rồi nhưng chưa có ý định đi giáo hoá thì Thiên ma lại yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn. Trong suốt 49 năm hoằng hoá độ sinh, Thiên ma luôn luôn đi theo đức Phật và tìm đủ mọi cách để khiến Ngài sớm nhập Niết Bàn. Cuối cùng, khi Ngài đến xứ Câu Thi La, đức Phật nói với Tôn giả A Nan là Ngài dự định 3 tháng nữa sẽ nhập Niết Bàn tại đây. Sau khi đức Thế Tôn tuyên bố buông bỏ thọ mạng, đến lúc đó, ngài A Nan mới nhận ra và vội vã đến thỉnh Phật tiếp tục trụ thế; nhưng Phật dạy: ”Như Lai đã nói là làm, Như Lai đã tuyên bố buông bỏ thọ mạng. Bây giờ đã có đủ 4 chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có giới luật rồi, có pháp của Như Lai rồi, đã đến lúc Như Lai nhập Niết Bàn!”
KHI TA CÓ NIỀM TIN
Nếu chúng ta không biết tu thì có thể mình sẽ đụng chạm nhiều tới mọi người, bởi thế gian này luôn tranh giành, sát phạt lẫn nhau; nhưng khi chúng ta có tu, quý vị dám bảo đảm là mình sẽ không đụng chạm gì đến thế nhân hay không? Khi mình tin Phật thì sẽ làm cho các loài ma rất lấy làm khó chịu, bởi chúng mất đi một bạn đồng minh và làm những người theo ma cũng ghét lây. Chúng ta thấy rõ ràng giữa đời này ma nhiều vô số kể, chúng ta chỉ tin Phật thôi là đã đụng chạm đến nhiều người lắm rồi; nhưng ma ở đây là gì? Ma là những gì làm hại cho người và vật. Mình tin pháp Phật là những lời dạy chân chính thì sẽ đụng đến các tà thuyết bất chính làm mê hoặc lòng người. Vì thế, mình nói đúng Chánh pháp và thực hành đúng Chánh pháp là đã đụng đến các người tuyên truyền tà thuyết và mê tín dị đoan để làm mờ mắt thiên hạ. Chúng ta tin Tăng thì sẽ đụng chạm tới những người nào? Tới các thầy tà, bạn ác. Ta nếu thật sự chỉ biết đi chùa tụng kinh, lễ Phật, làm công quả, ngồi thiền và buông xả các tạp niệm xấu ác thì ta đâu có thời gian để đi nói xấu người này người kia, ấy thế mà vẫn đụng chạm tới họ.
Chúng ta tin giới pháp của Phật và áp dụng tu hành là đã đụng chạm tới những sinh hoạt phi đạo đức, gây ra các tệ nạn xã hội, làm khổ đau cho nhân loại. Cho nên, việc mình thực hiện niềm tin đối với Tam bảo thôi là mình đã đụng tới tất cả những người không có niềm tin đối với Tam bảo rồi. Người đời vì không hiểu nên thích giết hại sinh vật để ăn, tranh giành nhau để sống, tàn hại, huỷ hoại người khác để mưu cầu lợi ích cho riêng mình; còn chúng ta, khi đã tin Phật rồi thì lại không thích tàn hại bất cứ một ai, hay dẫm đạp lên bất cứ loài vật nào để tồn sinh, vì đó là nhân dẫn đến ân oán, hận thù, làm khổ đau cho nhau. Đa số đều cho rằng giết vật để bảo tồn sự sống là do thượng đế tạo ra để phục vụ cho con người, nên họ công khai giết và còn khuyến khích nhiều người khác giết. Chúng ta không giết mà còn khuyên nhủ mọi người phóng sinh, thế là đụng chạm lớn đến họ. Thế thì cuộc sống này bắt buộc phải có đụng chạm, ta không thích đụng chạm nhưng vẫn cứ đụng chạm hoài.
Chúng ta ưa tôn trọng công bằng, lẽ phải, muốn sự sống này đều được bình đẳng để ta cùng san sẻ cho nhau nhưng đâu có được, vì có những người luôn lợi dụng quyền cao chức trọng để bóc lột. Chúng ta hãy nên nhớ, cái gì làm được giúp ích cho mọi người thì cứ làm, còn điều gì có hại thì thôi. Trong nhà Phật có nói, mong muốn mà không được như ý là khổ, bởi vì sao? Vì chúng ta thấy cái đó được lợi ích cho mình nhưng bất lợi cho người khác nên mới có giới không gian tham, trộm cướp. Tiền bạc tài sản do công sức mình làm ra phải tiết kiệm lắm mới dư chút đỉnh, giờ lại bị kẻ khác lấy đi thì ai chẳng buồn khổ, vậy mà vẫn có một số người vì lười biếng, ham hưởng thụ nhiều, hoặc kẽ có chức quyền đã bớt sén của người khác; thế là cuộc sống phải chịu đụng chạm, cọ xát lung tung mà thôi. Người khôn ngoan, sáng suốt biết tạo nhân lành thì ít bị tai hoạ, còn số đông phải chịu nhiều đau khổ do không có hiểu biết chân chính.
Phật hay khuyên nhủ chúng ta hãy nên sống tiết hạnh, thuỷ chung một vợ một chồng, nhưng những người có thói quen đuổi bướm bắt hoa thì lại thích mua bán dâm, chỉ đơn giản vậy thôi thì những người kinh doanh về mặt này trong xã hội đã ghét mình lắm rồi.
Người đệ tử Phật chỉ thích nói lời chân thật, nói đúng chân lý, không nói dối để lừa gạt người khác; nhưng hễ nói lời ngay thẳng thì sẽ đụng kẻ điêu ngoa, xảo trá, hễ nói sự thật thì sẽ đụng chạm đến người nói dóc, nói láo. Là người Phật tử chân chính, ai lại đi nói dối để lừa gạt người khác phải không quý vị, chỉ cần mình nói thiệt thôi là đã đụng đến người ta rồi, thà mích lòng trước đặng lòng sau còn hơn là sống trên sự giả dối, lừa đảo lẫn nhau.
Rượu thuốc, xì ke, ma tuý tác hại đến chừng nào, nhưng thế gian lại tiêm nhiễm nặng những thứ ấy, gây bệnh hoạn, làm mất an ninh, trật tự, bạo lực gia đình, rồi dẫn đến hiếp dâm, trộm cướp, lừa đảo, làm gia đình chia ly, tan nhà nát cửa, và cuối cùng là tù tội. Chúng ta đâu có muốn như vậy mà vẫn bị nhiều người phê phán, chỉ trích kẻ đó ngu, không biết hưởng thụ gì hết. Mình đâu có giành bia ôm, rượu thịt của họ mà ăn nhưng vẫn cứ bị đụng hoài.
Cho nên, quý vị thấy, mình thật tu thì cũng bị đụng chạm tới những người không chịu tu, vậy hỏi làm sao để thế gian này thật sự được hoà hợp, hài hoà. Không thể có chuyện đó được, ai biết khôn thì nhờ, ai ngu thì phải chịu khổ đau đời đời kiếp thôi. Bởi vậy mà Thiên ma ba tuần đã tìm mọi cách để ngăn Phật thành đạo, nên nó tìm cách quấy nhiễu đủ thứ nhưng không làm gì được Phật. Tại sao? Vì Phật dùng cây cung Thiền định và cây kiếm trí tuệ để quét sạch chúng ma. Đến khi thành Phật rồi, Thiên ma lại muốn Ngài nhập Niết Bàn sớm để họ được tự tung, tự tác giữa cuộc đời làm nhiễu loạn mọi người, để tất cả đều phải là ma hết. Bởi vậy, người tu theo Phật là đụng chạm tới sự tham lam của ma mị. Mình muốn cùng dìu dắt họ đi lên để chuyển hoá cõi ma thành cõi Phật, nhưng chúng có chịu đâu, chúng cứ níu kéo lẫn nhau bày đủ mọi trò để kích thích lòng tham lam của con người.
Cho nên, sống giữa cuộc đời, người biết gìn giữ giới đức để không bị rơi vào hố sâu của tội lỗi rất là khó. Chúng ta phải can đảm, mạnh dạn, quyết tâm lắm mới có thể vượt qua nổi vì chúng ma đông vô số. Không tu thì đụng đâu chửi đó, đánh đấm, mạ luỵ lẫn nhau, đụng chạm liên miên không có ngày thôi dứt. Người có tu thì khéo sắp xếp hơn nên tuy có đụng chạm cũng không đáng kể; nhờ đâu mà được như vậy? Vì mình có sự kham nhẫn, sức chịu đựng trong suốt quá trình tu học để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Chúng ta hay nghĩ rằng, mình tu rồi thì ai cũng thương, ai cũng kính, ai cũng mến và ai cũng tạo điều kiện thuận lợi cho mình hết. Không có chuyện đó đâu quý vị, chúng ta đừng có ảo tưởng mộng mơ như vậy. Ta càng tu thì càng bị nhiều người khảo hạch, chống đối; ví như muốn biết mình không còn nóng giận nữa thì bị người trách mắng, đánh chửi, coi ta có động tâm hay không. Hiểu được như vậy, chúng ta mới cố gắng, kiên trì, bền bỉ trong từng phút giây để có cơ hội sống được trọn vẹn với niềm tin của mình trên bước đường tu tập, chuyển hoá. Thật ra, cuộc đời rất đẹp và trong sáng biết bao, chỉ có tâm ma con người tạo ra quẩn khúc của cuộc đời. Ta không hiểu nên hay đổ thừa cho cuộc đời, tại sao mình không oán trách mình nhiều hơn, mình tạo ra thì mình phải gánh chịu, đâu có ai ban phước, giáng hoạ cho mình.
Thường người thế gian hướng về Phật pháp rất ít vì bị bộn bề công việc, cơm áo gạo tiền, không có thời gian tìm hiểu, tạo dựng niềm tin cuộc sống cho chính mình, nên đa số rơi vào lầm lạc, khổ đau. Phật thấy rõ sự tác hại của nó nên vì lòng từ bi mà khuyên nhủ mọi người hãy sống có ý thức và trách nhiệm, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau vì tình người trong cuộc sống. Ngày xưa, khi con người chưa văn minh tiến bộ nên thấy dường như có đấng quyền năng sắp đặt, định đoạt số phận muôn loài vật. Nhiều người thiếu hiểu biết do không suy xét, trải nghiệm mà rơi vào tình trạng si mê, cuồng tín. Ngày nay, loại cuồng tín này cũng có phần suy giảm do sự tiến bộ của con người, nhưng mê tín dị đoan thì còn quá nhiều.
Chúng ta có niềm tin chân chính sau khi có sự thẩm xét bằng trí tuệ của mình; nhờ vậy, niềm tin chân chánh không phải nhắm mắt tin càn, ai bảo gì làm đó mà không có sự kiểm tra, cân nhắc. Chúng ta thấy lòng thương người của Đức Phật khi chưa tu đã thể hiện rõ trong cuộc sống của Ngài. Khi thấy Đề Bà Ðạt Ða bắn chim bị thương, thái tử đã cảm nhận niềm đau của nó như nỗi đau của chính mình, Ngài vội vàng cứu chữa cho con chim lành mạnh và trả nó về thế giới tự do bao la. Ngài đã có tình thương vô điều kiện ngay khi chưa thành Phật, Ngài không đòi hỏi gì ở ta, không buộc ta làm gì cho Ngài mà chỉ sẵn sàng giúp ta, cho chúng ta sự bình an để sống, để vượt qua nỗi khổ, niềm đau.
Niềm tin như một lý tưởng sống thì ta mới có quyết tâm theo đuổi mục tiêu này hay mục tiêu khác, mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Trái lại, người không có đủ niềm tin chân chính thì không có hướng đi và một tương lai tốt đẹp. Niềm tin càng vững chắc thì bước đi càng rộng mở, không có gì ngăn cản nỗi và ý chí nỗ lực càng lớn mạnh. Vì vậy mà con người cần phải nuôi dưỡng và xây dựng niềm tin về con người tâm linh, là tin chính mình có khả năng làm được tất cả mọi điều thiện lành, tốt đẹp. Trong cuộc sống, Đức Phật luôn nhấn mạnh về lòng tin sau khi có trí tuệ, xem đó là động lực thúc đẩy mọi sự tiến bộ của con người trong suốt quá trình tu tập và chuyển hoá hướng đến mục tiêu giác ngộ, giải thoát cùng lợi ích cho nhân loại.
Như vậy, theo sự chỉ dạy của Đức Phật thì niềm tin là điều tối cần thiết cho việc phát huy các phẩm chất đạo đức nhờ chúng ta có tâm thanh tịnh, sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi con người. Vậy niềm tin của người Phật tử là gì? Nói chung, niềm tin chân chính rất quan trọng và tối cần thiết trong đời sống con người, nếu niềm tin không đúng chân lý sẽ dẫn chúng ta rơi vào mê tín dị đoan, hoặc tin sau khi chết là hết làm cho nhân loại dễ dàng rơi vào hố sâu tội lỗi. Cho nên, trước khi tin bất cứ điều gì, ta phải cần xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng, coi lời dạy của học thuyết đó có gì lợi ích cho nhân loại không, hay chỉ là mục đích nhằm phục vụ cho riêng mình. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính phải tìm hiểu kỹ càng khi tin một điều gì và nhận ra tính chất của nó là thiện hay ác, chỉ khi nào ta biết chắc nó mang lại lợi ích cho nhân loại thì ta mới quyết định nên tin hay không. Đây là cách thức xây dựng niềm tin của người Phật tử chân chính.
Như bài kinh người Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, có rất nhiều vị đạo sư đã đến thăm chúng con, người nào cũng tuyên truyền rằng đạo của họ là chân lý. Kính bạch Ngài, chúng con không biết lời chỉ dạy của ai là đúng để tin theo và áp dụng hành trì”. Phật không trả lời ngay câu hỏi mà hỏi lại họ: “sát sinh hại vật có từ bi hay không?” - “dạ thưa không” - “gian tham, trộm cướp, lường gạt của người có từ bi hay không?” - “dạ thưa không” – “uống rượu say sưa làm não hại thân tâm có từ bi hay không?” – “dạ thưa không”. Đức Phật của chúng ta rất khéo léo dẫn dụ, buộc mọi người phải cân nhắc, suy nghĩ, bởi Ngài đang khuyên mọi người không nên làm thế.
Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán, hiểu rồi mới tin thì cái tin ấy mới là chánh tín. Ðối với đạo Phật, tin Phật mà không hiểu Phật tức là phỉ báng Phật, như thế dễ dàng rơi vào đường tà. Đạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả và tin hay không là tùy ở nhận xét của chính mình; cũng đừng vội tin những gì người ta thường lặp đi, lặp lại; đừng vội tin một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại; đừng vội tin một điều gì dù đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến; đừng vội tin một điều gì dù điều đó do bút tích Thánh nhân xưa để lại; đừng vội tin một điều gì dù đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem là chánh đáng; đừng vội tin một điều gì dù điều đó do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu về niềm tin trong kinh Kamala.
NIỀM TIN TRONG KINH KAMALA
Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả. Kinh Kamala được đức Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kêsaputa của sắc dân Kalama thuộc nước Kôsala. Người dân trong thị trấn này rất muốn tu tập để chuyển hoá những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc; nhưng họ không biết ai là đạo sư chân chính vì có quá nhiều vị thầy đến đây để tuyên truyền, thuyết phục, ai cũng cho giáo pháp của mình là chân lý. Chính vì có quá nhiều đạo sư làm dân chúng trong thị trấn cảm thấy phân vân, lo lắng, vì không biết ai là đạo sư chân chính để quy hướng và ứng dụng hành trì. Đức Phật do nhân duyên này, thay vì trả lời trực tiếp sự thắc mắc của người dân, bằng sự thông minh và trí tuệ của chính mình, Ngài hỏi những người dân ấy như sau: “Này các người dân Kalama, giết hại có từ bi hay không? Trộm cướp có từ bi hay không? Uống rượu say sưa có từ bi hay không?” Tất cả người dân đều trả lời: “Dạ thưa không, kính bạch đức Thế Tôn”.
Đức Phật dạy, việc phân vân, nghi ngờ khi chưa hiểu rõ là điều tất yếu, hợp lý khi nghe nhiều lời tuyên truyền, thuyết giảng. Trong trường hợp đó, mọi người không nên vội tin quan điểm nào, và cũng không bác bỏ quan điểm nào khi chưa tìm hiểu đạo ấy một cách thấu đáo và triệt để. Đây là lời dạy chân chính và thiết thực, làm cho người dân Kamala phải suy nghĩ, nghiệm xét một cách rõ ràng, tường tận. Có những Phật tử chỉ đọc các câu “chớ vội tin” của Kinh Kamala mà đã quy kết, đã khởi kiến chấp trong đầu, cho là quan điểm của mình đúng rồi quay lại bác bỏ, phỉ báng các học thuyết khác. Đây là một điều rất tai hại có thể dẫn đến nhiều sai lầm đáng tiếc. Ở đây, chúng ta thấy đức Phật rất đỗi từ bi và rộng lượng, Ngài không bắt buộc một ai tin theo mình mà chỉ khuyên nhủ mọi người không nên vội tin và cũng không nên bác bỏ. Chỉ khi nào những lời dạy đó ta đem áp dụng trong đời sống hằng ngày mà cảm nhận được lợi lạc thật sự cho chính mình thì mới hoàn toàn tin theo.
Đức Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm; chỉ khi nào sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này thiện lành, tốt đẹp, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại và về lâu, về dài thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo”.
Khi học, khi đọc, khi nghe một học thuyết nào đó, điều quan trọng bậc nhất là chúng ta phải áp dụng, thực hành. Khi chính mình thực hành và trải nghiệm theo giáo pháp đó mình cảm thấy bình yên, hạnh phúc ngay trong hiện tại và lâu dài thì đó đúng là những lời dạy chân chính, chúng ta hãy nên có lòng tin tuyệt đối vào giáo pháp đó. Trong thời gian gần đây, có một số người học Phật khởi lên tâm niệm chấp trước, thấy mình hay, mình giỏi hơn người, ai theo tông chỉ Thiền thì phỉ báng Tịnh Độ, người theo Tịnh Độ thì chê bai Thiền, hoặc có nhiều luận thuyết bác bỏ lẫn nhau. Các quan điểm này đều sai lầm và cần phải loại trừ trong ngôi nhà Phật pháp.
Thật ra, trong đạo Phật từ pháp phương tiện cho đến pháp cứu cánh, tất cả đều phải Thiền và Thiền có hai loại là Thiền chỉ và Thiền quán. Pháp nào chỉ dạy nương vào một chỗ gọi là Thiền chỉ như niệm Phật, niệm hơi thở chẳng hạn; còn dùng nhận thức để quán chiếu thân thọ, tâm pháp, cho đến ngoại cảnh bên ngoài đều gọi chung là Thiền quán. Hai pháp này hỗ tương cho nhau, nhờ chỉ nên được định, nhờ quán mà phát sinh trí tuệ, buông xả phiền não tham-sân-si. Khi hai phương pháp này đã thuần thục rồi thì mỗi hành giả phải trở về trung đạo, không dùng chỉ và quán nữa mà thể nhập Phật tính ngay nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Phương tiện của mỗi pháp tu có khác, ai thích hợp với pháp nào thì pháp đó là số một. Ví như có người cảm thấy niệm Phật giúp họ an lạc thì đó là chánh pháp đối với họ, ta không được chê bai, chỉ trích; nhưng trì danh niệm Phật là phương tiện ban đầu muốn được nhất tâm bất loạn như trong kinh A di Đà nói thì chúng ta phải nhớ Phật, tức phải buông xả câu niệm Phật để thể nhập tâm hằng biết của mình. Có người nhận thấy tu Thiền giúp họ yên vui, hạnh phúc, thì ta không nên phỉ báng họ, vì đó là gốc của đạo Phật. Thiền là nền tảng căn bản cho mỗi hành giả tu theo đạo Phật, không có Thiền tức không phải đạo Phật, quý Phật tử phải nên nhớ như vậy.
Ngày xưa, Tôn giả Anan trên đường đi giáo hoá cùng đức Phật, hai người đệ tử đã phát tâm theo ngài học Phật. Người là thợ rèn thì tôn giả chỉ pháp tu quán bất tịnh, người giữ nghĩa địa thì tôn giả dạy pháp tu quán hơi thở. Hai ông tu hoài nhưng không tiến vì không buông xả được phiền não, nên mới than “sao thầy dạy con tu mà không tiến chút nào hết”. Nghe vậy, ngài liền hỏi Phật chỉ dạy. Phật bảo: “Tại ông dạy sai vì không phù hợp với căn cơ, việc làm của họ, chớ không phải tại họ tu sai. Ông phải dạy lại đi, người thợ rèn nên dạy quán hơi thở, vì họ thổi ống bễ phì phịch hoài, quán hơi thở sẽ nhịp nhàng với công việc, tu như thế mau tiến hơn; người giữ nghĩa địa thường thấy xác chết nên dạy họ quán bất tịnh thì sẽ có kết quả liền. Ngài Anan nghe lời dạy của Thế Tôn rồi đem dạy lại 2 vị đệ tử của mình. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, cả hai tu đều có kết quả tốt đẹp nên họ càng có niềm tin vững chắc với Phật pháp. Qua câu chuyện trên, cả hai pháp quán bất tịnh và quán hơi thở đều do Phật dạy; nhưng đối với người thợ rèn thì quán bất tịnh không phù hợp với căn cơ, việc làm của họ hiện tại, nên dù có cố gắng tu cũng không đem lại an lạc; đối với người canh nghĩa địa vì thường xuyên tiếp xúc với nhiều xác chết, nếu chỉ dạy quán hơi thở cũng không thích hợp, vì khi thực hành người đó bị loạn tâm.
Trở lại Kinh Kamala, đức Phật có nói những dấu hiệu của sự hạnh phúc là khi lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng… đã được vứt khỏi nội tâm con người, thì con người sẽ được hạnh phúc. Khi ta không còn lòng tham, lòng sân, lòng si, lòng hung hăng… chi phối, chinh phục, ta sẽ không khởi lên ý nghĩ hay hành động bức hại sinh linh, lấy của không cho, quan hệ tình cảm bất chính, nói láo, uống rượu, cũng như không còn khích lệ người khác làm những điều xấu ác. Như Lai tuyên bố sự xa rời ấy giúp cho con người sống hạnh phúc và an lạc về lâu về dài. Như vậy, pháp môn nào hướng bản thân mình đến bình yên, hạnh phúc thì đó là Chánh pháp cho mình; nhưng pháp môn đó chưa hẳn đã là Chánh pháp cho người khác. Vì thế, quá trình giảng dạy và truyền dạy pháp cần phải được phù hợp với căn cơ của mọi người. Người dạy pháp trước tiên tâm phải định tĩnh, yên vui và tỉnh thức, rõ biết được tâm lý của người khác thì mới được giảng pháp. Nếu không rõ được điều này thì việc mình tự tu, mình tự chứng, dùng mình làm trung tâm quán sát sự yên vui, sự hạnh phúc trong nội tâm là điều tối cần thiết, không nên xem xét lỗi người mà tự làm tổn hại tâm mình.
Tóm lại, khi nghe ai nói hay truyền đạt một điều gì ta phải biết cân nhắc, xem xét, chỉ khi nào quý vị suy tư, chiêm nghiệm và nhận thức xác đáng điều gì là chân chính, lợi ích cho mình và người thì hãy đem lòng tin tưởng và làm theo. Đó là tiêu chuẩn của đức tin chân chánh, chúng ta nên học hỏi và bắt chước thực hành. Dựa trên nền tảng chung của Kinh Nền Tảng Đức Tin, chúng ta hãy cùng tìm hiểu 10 niềm tin chơn chánh mà đức Phật chỉ dạy:
1. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Truyền thuyết là những câu chuyện bắt đầu từ sự thật lịch sử hoặc hư cấu, được thêm thắt hoặc bớt đi, và được truyền tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác, rồi lại được dân chúng chấp nhận như những chuyện lịch sử. Truyền thuyết là những câu chuyện được truyền tụng trong dân gian, nhưng không thể kiểm chứng được, tựa như các chuyện hoang đường được dân chúng kể đi kể lại nhiều lần trong nhiều đời, hoặc được thêm thắt, thần thánh hóa, để trở thành nhân vật lịch sử có thật. Đó là những người hùng và những danh nhân, danh tướng trong lịch sử. Truyền thuyết cũng là một bộ phận của văn học dân gian. Truyền thuyết thường được gắn bó với con người nhiều hơn bởi sự truyền miệng qua nhiều người. Truyền thuyết cũng cung cấp cho ta một vốn kiến thức kha khá về các địa danh lịch sử ở Việt Nam. Nói tóm lại, truyền thuyết là những câu chuyện nửa thật nửa giả do người đời thêu dệt và dựng lên. Có thể truyền thuyết dựa trên một sự kiện có thật, hoặc không có thật, và được người đời sau thêm vào để tăng thêm tính hấp dẫn, thần thánh hóa cho câu chuyện trở nên sống động, mục đích là có truyện kể với bạn bè, người thân, con cái, những người chưa biết. Có thể nói rằng, mỗi một địa danh, mỗi vùng đất ở Việt Nam đều gắn với một truyền thuyết nào đó, bởi vậy có vô số truyền thuyết chúng ta biết và chưa biết.
Ví dụ như truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh, đây là một truyền thuyết hư cấu về hai vị thần núi và thần biển, nói lên sự phấn đấu tích cực của con người đối với thiên nhiên. Mặc dù trong chuyện nói hai vị thần núi và biển cùng nhau cầu hôn công chúa Mỵ Nương của vua Hùng Vương đời thứ 18 làm vợ, nhưng truyền thuyết này dựa vào những dữ kiện lịch sử. Từ ngàn xưa cho đến nay, hằng năm thường xuyên xảy ra thiên tai lũ lụt làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình và xã hội, vua quan và dân chúng phải nỗ lực thực hiện công việc đào kênh, đắp đê, ngăn đập, nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân. Trong truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả 2 vị thần đều là hư cấu, nếu ta không hiểu sẽ tin rằng có hai vị thần thực sự đầy quyền năng thì ta sẽ rơi vào mê tín, vì tin mà không biết rõ nguồn gốc của nó. Thần biển tượng trưng cho giông gió, bão tố, lũ lụt, làm thiệt hại đến đời sống con người. Thần núi là tượng trưng cho người dân siêng năng, cần cù, thông minh, tìm cách chống lại thiên tai, hoạn nạn. Hình ảnh này nói lên tinh thần chịu khó, chịu khổ của con người để khắc phục tai hoạ do thiên nhiên gây ra. Đức Phật không bao giờ bác bỏ các truyền thuyết, ngược lại đức Phật còn khuyên chúng ta hãy nên tìm hiểu nó cho kỹ càng, thấu đáo, để biết được giá trị thật của nó.
2. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Truyền thống là những tập tục lâu đời do xã hội hình thành, nó trở thành nếp sống, nếp văn hóa cho mỗi cộng đồng xã hội đặc thù. Như truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam là uống nước nhớ nguồn, tinh thần này hợp với đạo thờ cha kính mẹ của dân tộc Việt Nam. Truyền thống tốt đẹp này luôn nhắc nhở mỗi người biết được đạo lý làm người trước tiên là phải biết ơn và đền ơn. Chim có tổ - Người có tông, đạo hiếu luôn đi đôi với nhân nghĩa, đạo đức, và làm người ai cũng phải biết như thế. Một con người công thành danh toại đều xuất phát từ sự cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ mà ra. Người bất hiếu đa số rơi vào vòng tệ nạn xã hội vì cha mẹ của mình có công sinh thành dưỡng dục, nuôi nấng, bảo bọc, che chở, mà mình còn không biết ơn, thử hỏi sao người khác mình đối đãi tốt cho được.
Truyền thống cúng sao giải hạn, giết vật cúng tế quỹ thần, xin xăm bói quẻ, đều là những truyền thống làm cho con người thêm hoang mang, sợ hãi, nên phải cầu khẩn, van xin để được tai qua nạn khỏi. Tất cả những thứ này đều là truyền thống, nhưng có những truyền thống giúp cho ta tốt thêm và có những truyền thống làm cho ta mê tín và sợ hãi nhiều hơn. Đức Phật của chúng ta rất tế nhị nên hoàn toàn không bác bỏ truyền thống. Do đó, đức Phật dạy ta không nên vội tin một điều gì và cũng không nên bác bỏ một điều gì khi chưa thẩm sát; như những truyền thống giết heo, bò, gà, vịt để cúng tế ngày tết, ngày giỗ, bản thân nó tạo ra nghiệp sát sanh, nghiệp lãng phí cho mỗi gia đình và người thân. Những ai thực hành những truyền thống này thì thân tâm của họ cảm thấy bất an, vì nghiệp sát sinh hại vật và làm lãng phí tiền của càng ngày thêm tăng trưởng, nghiệp tham-sân-si gây ra ân oán, thù hằn không có ngày thôi dứt. Những người tin theo các truyền thống này thì dần hồi sẽ bị lạc vào chỗ tối tăm, mê muội mà không có ngày thôi dứt.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những truyền thống rất tốt đẹp, như truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, hiếu thuận ông bà cha mẹ, cung kính tôn trọng người tu hành chân chính, biết ơn thầy cô giáo, nhớ ơn người giúp đỡ mình. Truyền thống nhớ ơn-biết ơn-đền ơn là một truyền thống tốt đẹp luôn giúp mọi người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Truyền thống hiếu thuận cha mẹ điển hình là ngày lễ Vu Lan trong mùa an cư kiết hạ của chư Tăng ni. Trong 3 tháng an cư kiết hạ, lượng mua bán thịt cá ở các chợ giảm gần 50%, rõ ràng đây là một truyền thống tốt đẹp giúp mọi người thể hiện được lòng từ bi với các loài vật; hoặc kỷ niệm ngày của cha, ngày của mẹ bên phương Tây giúp cho bản thân mình cảm thấy nhẹ nhàng, yên vui, vì đã góp phần làm tròn bổn phận con cái đối cha mẹ. Tâm hiếu là tâm Phật, là đạo của một người con đối với người mẹ đã mang nặng đẻ đau sinh thành, người cha làm lụng vất vả, nhọc nhằn để nuôi con khôn lớn trưởng thành. Một người con hiếu thảo phải biết tôn trọng, cung kính ông bà cha mẹ, biết đền ơn đáp nghĩa với thâm ân sâu dày và cao cả, còn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ mọi người và biết giữ niềm tin chân chính đối với người khác.
Truyền thống tôn sư trọng đạo đối với các bậc sư trưởng khiến mình biết quý trọng, tôn kính những người đã có công dạy dỗ mình nên người, thành tài, sống có nhân cách và phẩm chất đạo đức tốt. Chính nó là động lực thúc đẩy làm cho lớp trẻ đi sau noi gương làm theo, nhờ đó cũng được thành tài, hiền thiện, mà làm tròn bổn phận đối với gia đình, xã hội, sống tốt trong hiện tại và mai sau. Do đó, những truyền thống nào làm cho ta mê tín hay làm tổn hại cho người và vật thì ta không nên tin, còn truyền thống nào tốt đẹp, giúp cho mọi người vui vẻ, thuận thảo, hoà hợp với nhau, thì chúng ta cần phải giữ gìn và hướng dẫn cho gia đình, người thân cùng được biết và bắt chước làm theo.
3. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Tuyên truyền là một hoạt động làm lớn mạnh, làm rộng những hướng dẫn, những lời giảng dạy của người khác. Tuyên truyền có 2 dạng, phục vụ cho lợi ích cá nhân và phục vụ cho lợi ích cộng đồng. Chúng ta muốn cho việc tuyên truyền có kết quả tốt đẹp thì phải biết cách vận dụng có nghệ thuật làm xúc động lòng người; như các cơ quan ban ngành đoàn thể thường tuyên truyền, kêu gọi các nhà hảo tâm, những tấm lòng vàng, quý Phật tử gần xa giúp đỡ người bất hạnh, già cả, bệnh tật, neo đơn, trẻ mồ côi, và thường được nhiều người ủng hộ, làm cho nhân loại ngày càng thêm yêu thương, gắn bó với nhau bằng tình người trong cuộc sống.
Đức Phật của chúng ta hoàn toàn không bác bỏ những lời tuyên truyền, vì chính giáo pháp của Ngài nhờ các vị Tổ hoạt động tuyên truyền nên ngày nay mới được thêm lớn mạnh, nhiều người biết đến để áp dụng tu tập và chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Tuy nhiên, đức Phật vẫn cảnh báo chúng ta chớ vội tin. Vì sao? Nếu việc tuyên truyền phục vụ cho mục đích cá nhân, mang yếu tố và tính chất tiêu cực, làm tổn hại đến nhiều người khác, như tuyên truyền tận thế trong thời gian vừa qua làm ảnh hưởng đến một số người, gây hoang mang, sợ hãi, lo lắng, để cho một số người lợi dụng làm điều xấu ác.
Trái lại, có những tuyên truyền mang ý nghĩa nhân văn đem lại lợi ích cho cộng đồng, như tuyên truyền thực hành tiết kiệm, tuyên truyền nâng cao ý thức giao thông, hay tuyên truyền giáo pháp đức Phật giúp cho mọi người cùng học hỏi, tham khảo, rồi thực hành để buông xả những tâm niệm tham lam, ích kỷ, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố, làm cho mình và người khổ đau. Những tuyên truyền này luôn giúp mọi người tránh được những tai nạn đáng tiếc trong cuộc đời, giúp cho nhân loại biết cách bỏ ác làm lành mà cùng sống yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết.
4. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Kinh điển, sách vở là những tài liệu ghi chép lại những lời dạy của người xưa nhằm hướng đến một mục đích nào đó. Ví dụ như sách lịch sử, sách y học… dạy cho con người hiểu được lịch sử, truyền thống con người và đất nước Việt Nam phát xuất từ đâu, do ai sáng lập nên; sách y học dạy cho con người hiểu được cách ngừa bệnh và trị bệnh cho con người; các loại Kinh của Phật dạy giúp con người sống tốt hơn nhờ biết tránh xa điều xấu, hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp trên nền tảng nhân quả. Do đó, để dạy con người phát triển lòng từ bi rộng lớn, Phật dạy không được sát sinh hại vật, trộm cướp, lường gạt của người. Tóm lại, Phật khuyên nhủ mọi người không nên làm điều gì gây tổn hại cho người và vật. Muốn vậy, con người cần phải giác ngộ, tỉnh thức và nhận thức đúng đắn về nguyên lý thành-trụ-hoại-không của vạn vật, nguyên lý sinh-già-bệnh-chết của con người. Và điều trước tiên Phật dạy chúng ta muốn sống tốt và đạo đức thì phải biết cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vui vẻ, thuận thảo với anh chị em, hoà hợp với bà con cô bác láng giềng bằng cách yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trong tình cảm sâu sắc của nhân loại.
Tóm lại, Kinh điển và sách vở có 2 loại: Kinh sách chân chính và Kinh sách không chân chính. Kinh sách chơn chánh là những Kinh sách giúp cho con người phát triển tư duy, kiến thức, hiểu biết, trí tuệ, nhằm đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, giúp nhân sinh nhận thức đúng đắn và hiểu biết rõ ràng về nguyên lý nhân-duyên-quả trong thân tâm mình và thế giới bên ngoài. Kinh sách không chơn chánh là những tài liệu dạy con người phát triển tham-sân-si, làm cho mê hoặc, khổ não trói buộc nơi tâm trí. Thí dụ như sách viết về quan hệ tình dục, truyện dâm, truyện sex, tiểu thuyết tình ái. Người học theo những sách vở này chỉ khởi tâm dâm dục và ham muốn hành dâm. Nó làm cho người đó tâm tư không được thanh tịnh và trong sáng, nên dễ bị kích động làm chuyện bậy bạ, làm ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống xã hội. Đức Phật luôn khích lệ và ủng hộ những Kinh sách chơn chánh và hay khuyên nhủ mọi người cần nên tránh xa những Kinh sách làm ảnh hưởng xấu xa và tổn hại đến thân tâm con người.
5. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Lý luận siêu hình là những lý luận bằng suy nghĩ, tư duy, nghiệm xét, mới có thể lý giải, hiểu rõ bản chất của nó, do đó không thể cảm nhận bằng trực giác, giác quan của chính mình. Lý luận siêu hình có hai loại: lý luận thực tế và lý luận không thực tế.
Lý luận thực tế là các lý luận giải thích cụ thể, rõ ràng, đúng bản chất theo tinh thần khoa học của thế giới tự nhiên muôn loài vật, và thực tế nhất là con người đang sống trong đời sống xã hội hiện nay. Ví dụ như lý luận về nguyên tử là lý luận siêu hình, vượt qua sự thấy nghe và cảm nhận của con người, các nhà khoa học đã nghiên cứu hàng loạt các thí nghiệm mới thấy được các dấu hiệu và bản chất sự thật của nó. Đó là lý luận siêu hình trên hình thể vật chất mà mắt con người khó nhìn thấy được. Lý luận về tâm thức của một con người, hay còn gọi là con người tâm linh mà đức Phật thường nói trong các bản Kinh là lý luận siêu hình. Muốn biết rõ được bản chất thật sự của nó, chúng ta cần phải thực hành, trải nghiệm mới thấu rõ được cội nguồn của nó là trong sạch, tinh khiết, lặng lẽ, nhưng lại chiếu soi muôn loài vật. Đó là Phật tính sáng suốt của mọi người nhưng ít ai quay nhìn lại để nhận ra, chân lý ấy nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Lý luận không thực tế là các lý luận không có căn cứ khoa học, không có căn cứ vào bản chất thật sự của con người trong cuộc sống hiện tại. Ví dụ các lý luận về đấng tối cao sinh ra vũ trụ, quyết định sự sống chết và vận mệnh của muôn loài vật, cụ thể nhất là của con người. Không ai thấy rõ hay sẽ thấy về các truyền thuyết này, nó chỉ nằm trong tín ngưỡng dân gian được truyền tụng nhiều đời, và cũng không ai thấy được đấng tối cao quyết định vận mệnh của con người, nó hoàn toàn không có căn cứ thực tế cụ thể, rõ ràng. Lý luận đạo Phật về con người tâm linh của chính mình được các nhà khoa học kiểm chứng và xác minh rõ ràng đức Phật là một con người có thật, các Thiền sư khi ra đi cũng đã để lại rất nhiều nhục thân trên cả ngàn năm, không cần các kỹ thuật ướp xác mà vẫn giữ nguyên hình thể với tư thế ngồi hoa sen không bị mục nát. Cụ thể nhất là ở miền Bắc nước Việt Nam chúng ta hiện nay có 4 nhục thân đang được thờ tại các chùa Đậu, chùa Phật Tích, chùa Tiêu và có rất nhiều nhục thân khác ở các nước tu theo Phật giáo. Quý vị muốn biết chính xác hãy liên hệ với các ban ngành lãnh đạo Phật giáo thì sẽ biết rõ hơn.
Đức Phật của chúng ta luôn luôn ủng hộ những lý luận giúp cho con người hiểu biết về tự nhiên, xã hội, hiểu biết về thân tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh và cụ thể nhất là con người. Ngược lại, Ngài khuyên chúng ta hãy nên tránh xa những lý luận vô căn cứ và làm cho nhiều người mê tín, dấy khởi lên những tâm niệm tham lam, ích kỷ, sân hận, nóng giận, hờn mát, si mê và đố kỵ để làm tổn hại cho nhau.
6. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Lập trường là những quan điểm, hệ thống tư duy của một người hoặc của một nhóm người nào đó về các vấn đề trong cuộc sống. Lập trường được hình thành từ những kiến thức, hiểu biết, được học hỏi qua lại từ các trường lớp, hoặc được học hỏi từ các tôn giáo mà người đó đã được giáo dục, học tập trong suốt một quá trình lâu dài. Có những lập trường phù hợp với đời sống con người, giúp con người ngày càng sống tốt hơn về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần. Có những lập trường không phù hợp với đời sống con người, khi làm theo sẽ bị tổn hại về lâu dài. Tùy thuộc vào thói quen và khả năng nhận thức của mỗi người mà chúng ta có những lập trường và quan điểm khác nhau. Như người mới học lớp 1 có suy nghĩ lập trường về cuộc sống còn rất giới hạn, hoàn toàn khác với một sinh viên đại học chuyên ngành đã ra trường và đang làm việc.
Nếu lập trường nào đó không làm cho con người bị vẩn đục bởi phiền não tham-sân-si, nghĩa là người đó suy nghĩ, nói năng và hành động luôn làm lợi ích cho nhiều người nhưng vẫn tỉnh thức, thân tâm thư thái, an lạc, nhẹ nhàng, thì đó là lập trường chơn chính. Lập trường này giúp cho con người sống ngày càng tốt hơn trên nền tảng của nhân quả, chúng ta hãy nên khuyên khích người khác tin tưởng và tu học theo. Lập trường nào dựa vào tranh cãi, bác bỏ, chê bai, chứng tỏ đẳng cấp chính mình bằng những hiểu biết, nhận thức không đúng đắn, do đó bị tham ái, sân giận, si mê chi phối thì đó là những lập trường không có ích cho người nói, người nghe, và làm ảnh hưởng xấu đến quá trình tu học của những người tu theo đạo Phật. Một số người nói Kinh điển nguyên thuỷ là giáo lý Tiểu thừa, Kinh điển Đại thừa hư dối là do ngoại đạo nguỵ tạo, ai có những nhận định và lập trường như thế thì chưa phải là người học Phật chân chính, thử hỏi làm sao có đủ tư cách hướng dẫn cho mọi người khác học và tu theo.
Người có lập trường vững chắc là người đã xác định rõ ràng mục tiêu mình đang theo đuổi và quyết chí ứng dụng thực hành để đạt được kết quả tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Như lập trường của người Phật tử sau khi tìm hiểu những lời dạy chân chính của đức Phật thông qua sự quán chiếu, soi sáng lại chính mình, nên ngày càng cảm nhận được bình yên, hạnh phúc; biết được sự tác hại của sát sinh, hại vật, trộm cướp, lường gạt, nói dối để hại người và dùng rượu, xì ke, ma tuý và các chất kích thích độc hại khác làm cho mình và người khổ đau; và mục đích cuối cùng là được giác ngộ, giải thoát, nhưng không tự mình hưởng an nhàn mà phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh với tinh thần vô ngã, vị tha. Nhiều người không biết nên phê phán, chỉ trích, nói sống như vậy là ngu, không giúp được gì cho gia đình, người thân. Họ tìm cách ngăn cản, đả phá, làm cho ta lay động, bất an, mà không giữ vững lập trường, nên một số người vì không quyết chí và tin tưởng con đường của mình đang đi và đành bỏ cuộc nửa chừng. Người làm cách mạng sở dĩ họ thành công là nhờ vào lập trường vững chắc; còn chúng ta là người Phật tử chân chính, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh, vừa làm lợi ích cho mình, vừa giúp đỡ người khác bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương, hiểu biết. Đây là lý tưởng cao cả của những con người có tấm lòng bao la, rộng lớn vì tất cả chúng sinh trên thế gian này.
7. Chớ vội tin một điều gì khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Những dữ kiện hời hợt là những thông tin không đủ căn cứ chuẩn xác, không đủ tính chơn thực và không có một hệ thống tư duy, nghiên cứu, thể nghiệm rõ ràng. Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các căn cứ dựa trên những dữ kiện hời hợt, nhưng Ngài vẫn khuyên chúng ta khi nghe điều gì phải biết tìm hiểu, chiêm nghiệm, rồi mới tin khi thấy được lợi ích thật sự. Những dữ kiện hời hợt đôi khi không phải là sai, mà chẳng qua nó không đủ tính chuẩn xác, tính khoa học, nên có thể làm cho người tiếp nhận những thông tin đó không biết rõ nguyên nhân, nguồn gốc của chúng. Chính cái không rõ, không biết nguồn gốc đó sẽ làm nhiều người hoang mang, nghi ngờ, nên làm cho họ khởi lên những tâm niệm không tin tưởng; nên khi viết và đặt vấn đề, chúng ta cần phải chú ý đến các dữ kiện của mình, trích dẫn nguồn gốc cụ thể thì người viết và người đọc sẽ được lợi ích thật sự.
8. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Định kiến là những quan điểm cố định, không thay đổi của một con người về một sự vật, hoặc cụ thể là một hiện tượng nào đó; như một số người cho rằng chết là hết, cát bụi trả về cát bụi; một số người cho rằng tất cả mọi hiện tượng, sự vật xảy ra đều là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không; một số người cho rằng có một ông trời ban phước giáng hoạ, tạo ra tất cả muôn loài vật trong bầu vũ trụ bao la này v.v… Có những định kiến diễn tả đúng bản chất của thế giới và con người, có những định kiến do học hỏi và thói quen của con người nên chỉ là những quan điểm phiến diện, bảo thủ, cố chấp của con người.
Định kiến thứ nhất cho rằng có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng hoạ, ai sinh ra như thế nào thì trước sau như một không thể thay đổi được, như trời chết sinh trời, người chết sinh người, thú vật chết sinh thú vật, và còn tuỳ thuộc đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn. Định kiến này sẽ làm con người mất tự chủ, sống phải lệ thuộc vào đấng bề trên mình không hề biết, nên rơi vào mê tín, tà vạy. Định kiến thứ hai cho rằng chết là hết, không có nhân quả, nghiệp báo, tội phước, nên mặc tình hưởng thụ, đến khi phước hết thì chịu hoạ si mê. Hai định kiến này đối lập nhau và đều rơi vào hai trạng thái có và không; có một ông trời ban phước giáng hoạ và không có gì hết sau khi thân này hoại diệt.
Đức Phật không hoàn toàn bác bỏ các định kiến của thế gian. Đối với những định kiến cho rằng có-không, đúng-sai, tốt-xấu và tất cả những định kiến nào dựa trên nền tảng tham-sân-si làm tổn hại cho người và vật thì Ngài khuyên chúng ta nên tìm cách xa lìa, vì nó không lợi ích và không tốt cho ta trong suốt quá trình tu tập chuyển hoá những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Ta nên tin tưởng hành theo những định kiến nào dựa trên nền tảng nhân quả, làm chủ bản thân, mọi việc tốt-xấu, nên-hư, thành-bại trong cuộc đời đều do mình tạo lấy, lại còn hay san sẻ, giúp đỡ mọi người trên tinh thần thương yêu bằng trái tim hiểu biết. Định kiến là cái thấy cố định tuỳ theo sự huân tập của mọi người nên không ai giống ai; chúng ta là con người nên phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa. Muốn được như vậy ta cần phải học hỏi, tìm tòi, nghiệm xét, dùng trí tuệ soi sáng để biết được bản chất thực-hư của nó. Định kiến nào giúp ta làm chủ bản thân, hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành vi tốt xấu của chính mình, thì ta hoàn toàn tin theo và áp dụng hành trì để mình và người được an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
9. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
Sức mạnh và quyền uy, thế lực thường đi đôi với nhau. Người có thế lực luôn dựa vào uy tín của mình bằng địa vị cao trong xã hội, nhân danh một cá nhân hay một tổ chức tập thể nào đó; họ nhờ có địa vị cao nên được bảo trợ bằng vũ lực để khống chế các đối tượng khác; hoặc một băng nhóm, đảng phái nào dùng sức mạnh để thị uy với thiên hạ. Như các ông vua thời phong kiến đã dùng địa vị của mình để bắt buộc người khác phải tuân theo, vua bảo tôi thần chết là phải chết, không chết là bất trung. Vua muốn phong quan, tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết. Ai sống thuận theo vua và làm lợi ích, bảo vệ cho vua thì được hưởng vinh hoa phú quý suốt đời. Cũng như nhà nước đảm bảo mọi công dân có quyền đi học và làm việc để nuôi sống bản thân, gia đình, đóng góp lợi ích cho xã hội; ngược lại, nhà nước nghiêm cấm việc giết người, cướp của, trộm cắp lường gạt của người khác…
Đức Phật không bao giờ bác bỏ những loại ủng hộ này, vì nhờ có luật pháp và kỹ cương phép nước nên con người mới cố gắng sống tốt với nhau. Thay vào đó, đức Phật hướng dẫn tất cả mọi người biết cách lựa chọn những thông tin đúng, hợp pháp, phù hợp cho quá trình tu tập và chuyển hoá các phiền muộn, khổ đau. Những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cá nhân trên nền tảng tham lam, ích kỷ, sân giận, si mê, thì ta không nên đặt niềm tin để làm tổn hại người và vật; như quan niệm từ nghìn xưa cho đến nay, cái đúng thuộc về kẻ chiến thắng nhờ có sức mạnh và uy quyền. Đây là quan niệm dựa trên nền tảng chấp ngã của cái tôi, là tôi và của tôi, nhằm phục vụ cho những người muốn chiến thắng vì thế lực mạnh, nên lúc nào cũng sân hận,si mê. Quan niệm người giàu có quyền vui chơi hưởng thụ, bóc lột người nghèo phải phục vụ cho riêng mình là dựa trên nền tảng tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, phục vụ cho tầng lớp người có nhiều tài sản và quyền lực.
Tuy nhiên, những sự ủng hộ dựa vào lợi ích cộng đồng xã hội, phục vụ vì quyền lợi chung cho nhiều người, không bị tham-sân-si chi phối thì chúng ta cần phải đề cao và duy trì. Chẳng hạn như quyền đi học của tất cả mọi công dân được nhà nước khích lệ và ủng hộ, đây là một dấu hiệu tốt cho xã hội đang trên đà phát triển, giúp con người tiếp thu tri thức, hiểu biết. Trên thực tế, những lời dạy của đức Phật đã được rất nhiều người trên thế giới ủng hộ, nó giúp con người sống yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha nhờ quyền bình đẳng trong cuộc sống. Con người ngày nay văn minh, tiến bộ vượt bực nhờ biết học hỏi và nghiệm xét, nên thấy rõ chỉ có đạo Phật mới là đạo của con người; vì con người sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết và sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ, niềm đau; nhưng vì nó đi ngược lại lòng tham lam, ích kỷ của con người, nên số đông khó thâm nhập bởi tính tự giác bằng ý thức của mỗi người.
10. Chớ vội tin một điều gì chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Như chúng ta đã biết, những lời dạy vàng ngọc của đức Phật là các phương pháp giúp mọi người đạt được sự tỉnh thức khi thực hành và làm cho thân tâm được vui vẻ, lạc quan, yêu đời, bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Các nhà truyền giáo hay đạo sư là những người thuyết pháp, chia sẻ với chúng ta về điều Phật dạy. Tuy nhiên, đức Phật vẫn khuyên ta chớ vội tin mà khi nghe phải biết suy xét, chiêm nghiệm; khi thực hành đã cảm thấy được an lạc, lợi ích cho chính mình và người thì khi đó ta mới tin. Tin như vậy là người có hiểu biết chân chính bằng sự trải nghiệm trong thực tế, không phải tin suông, tin càn, tin bướng. Việc tin tưởng mù quáng, không có căn cứ sẽ làm phát khởi phiền não tham-sân-si để làm hại mình và người. Do đó, đức Phật dạy chúng ta chớ vội tin một điều gì khi chưa có sự nghiệm xét và kiểm chứng rõ ràng.
Tuy nhiên, đức Phật không bác bỏ các điều được các nhà truyền giáo hay các đạo sư khác tuyên thuyết. Đức Phật chỉ dạy mỗi người nên tiếp nhận chúng bằng sự nhận thức đúng đắn và được soi sáng bằng trí tuệ. Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo mà thấy tâm mình không dấy khởi tham lam, sân giận, si mê, giúp mình tỉnh thức thì những lời đó nên tin. Nếu khi tiếp nhận, thực hành theo mà thấy mình phiền não, tham-sân-si dẫy đầy thì chúng ta nên từ bỏ những lời dạy đó vì không thật sự lợi ích cho mình và người. Qua đó, chúng ta có thể rút ra kết luận: Mục đích của việc học Phật không phải dùng kiến thức của mình để tranh đấu hơn thua với nhau nhằm chứng tỏ khả năng hiểu biết. Mục đích của việc học Phật là điều phục và chuyển hoá tâm mình, làm sao cho tâm được định tĩnh, không bị tán loạn bởi các cảnh duyên bên ngoài. Việc tu học Phật là một quá trình nỗ lực thực hành lâu dài cần phải có sự kiên trì, bền chí, nhẫn nại, không cạnh tranh hơn thua, không dò tìm lỗi người khác, thường xuyên tu sửa chính mình. Chúng ta chỉ chuyên chú học hỏi, chiêm nghiệm, tu tập làm sao cho thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng, biết rõ ràng từ ý nghĩ cho đến lời nói và mọi hành động của mình một cách chính xác.
NIỀM TIN CHÂN CHÍNH
Người Phật tử phải thiết lập được niềm tịnh tín đối với Tam bảo, bởi chỉ có ánh sáng của Tam bảo mới đủ năng lực xua tan bóng tối vô minh mê mờ từ muôn kiếp, dập tắt tham ái do chấp ngã mà ra và dứt trừ được tất cả phiền muộn, khổ đau. Trong bất kỳ sự nỗ lực nào của con người thì niềm tin đều đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống, người thiếu niềm tin sẽ sống một cuộc đời vô vị không có ý nghĩa và giá trị thiết thực. Niềm tin như một lý tưởng sống thì ta mới có quyết tâm theo đuổi mục tiêu này hay mục tiêu khác mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Trái lại, người không có đủ niềm tin chân chính thì không có hướng đi tốt đẹp trong đời. Niềm tin càng vững chắc thì bước đi càng rộng mở, không có gì ngăn cản nổi và ý chí nỗ lực càng lớn mạnh. Vì vậy mà con người cần phải nuôi dưỡng và xây dựng niềm tin về con người tâm linh, tức tin mình có khả năng giác ngộ và chuyển hoá phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ, từ bi.
Trong cuộc sống, Đức Phật luôn nhấn mạnh về lòng tin sau khi có trí tuệ, xem đó là động lực thúc đẩy mọi sự tiến bộ của con người trong suốt quá trình tu tập và chuyển hoá hướng đến mục tiêu giác ngộ, giải thoát. Một đoạn Kinh nói rằng “kính bạch đức Thế Tôn, chúng con có niềm tin chân thành đối với Ngài bằng sự tôn trọng, quý kính nơi lời dạy vàng ngọc của Ngài và nơi đoàn thể sống an vui của Tăng trên tinh thần lục hoà. Mỗi khi chúng con đem giáo lý của đức Thế Tôn áp dụng trong đời sống hằng ngày, chúng con thấy có sự chuyển hóa và thay đổi của nội tâm để dần hồi giảm bớt và dứt trừ các tạp niệm xấu ác. Chúng con thấy rõ ràng năng lực của mình ngày càng thăng tiến nhờ huân tu giới-định-tuệ giúp chúng con vượt thoát khổ đau và các bế tắc trong cuộc đời. Do đó, chúng con là những Phật tử tại gia tu học và hành trì theo lời dạy của Ngài đã cảm nhận được bình yên, hạnh phúc nhờ khéo biết buông xả. Chúng con biết rằng, niềm tin của chúng con được xây dựng trên nền tảng nhân quả có sự trải nghiệm trong cuộc sống từ chính bản thân chúng con, không phải trên lý thuyết suông như các giáo điều mê hoặc lòng người. Chúng con biết đức tin nơi chúng con đối với Tam bảo là một năng lượng sáng suốt nhờ có thực hành tu tập, không phải là một niềm tin mê tín, sai lầm. Càng học hỏi và thực tập theo lời Phật dạy, chúng con ngày càng đủ niềm tin hơn vì dựa trên sự thực tập của chính mình. Đức Thế Tôn đã từng dạy chúng con làm thân con trâu hay bò chuyên cày bừa, chở nặng chưa hẳn đã là khổ, ngu si không hiểu biết mà nói càn, tin bậy mới thật sự là nỗi khổ, niềm đau cho người đó. Chúng con đã có niềm tin với Tam bảo rồi nên phải tự mình vạch ra hướng đi thăng tiến đến bờ giác ngộ, giải thoát; nhờ vậy, con không còn phải lo lắng, sợ hãi nữa vì chúng con đã đủ niềm tin; thật là hạnh phúc lớn lao cho cuộc đời của chúng con. Chúng con thấy thế gian này có rất nhiều người đang khổ đau cùng tột, đang bị các sợi dây oan khiên trói buộc do tham ái, sân hận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ, ganh ghét, tật đố, ác kiến gây ra và tàn phá thân tâm của họ, chỉ vì họ chưa có đủ một niềm tin đối với nhân quả và chính mình”.
Đỉnh cao của lòng tịnh tín là tin tâm mình, ta tin tưởng rằng mình có bản tâm thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu đang hằng hữu nơi thân này. Từ đó ta nỗ lực tu tập buông xả phiền não tham-sân-si làm hiển lộ chơn tâm thanh tịnh, thể nhập tánh biết sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Khi ta đã có lòng tin thì người cư sĩ được 5 lợi ích lớn. Đó là:
_ Được chư tôn Thiền đức Tăng ni thương tưởng, khi nào có dịp sẽ đến nhà thăm viếng, thọ trai, thuyết pháp, hướng dẫn cho ta biết được điều hay lẽ phải và phương pháp hành trì; đến khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi trời hưởng phước tối cao muốn gì được đó.
_ Đức tin là mẹ của tất cả công đức lành, là nền tảng để phát sanh mọi thiện pháp trong cuộc đời. Vì vậy, chúng ta nếu chưa có đủ lòng tin đối với Tam bảo, ta hãy nên cố gắng tham khảo, học hỏi, tu tập, chuyển hoá; khi đã phát khởi được lòng tin thanh tịnh rồi thì cố gắng củng cố và quyết tâm trau dồi để niềm tin không bị lui sụt bất cứ trong mọi trường hợp nào.
_ Chánh tín và tin tuyệt đối vào Tam bảo là một trong những vấn đề quan yếu mà mỗi người con Phật phải thành tựu để làm cơ sở cho việc tu học nhằm giúp người, cứu vật trong hiện tại và mai sau.
_ Trong cuộc sống nếu chúng ta không đủ niềm tin đối với Tam bảo, ta hay nghi ngờ các giá trị về nhân cách đạo đức, chạy theo nhu cầu vật chất quá đáng như cuộc sống hiện nay thì coi chừng ta đánh mất đi con người tâm linh của chính mình.
_ Người Phật tử chân chính phải tin sâu lời Phật dạy để sống đời lương thiện, vô ngã, vị tha, an vui, tự tại và giải thoát mọi phiền muộn, khổ đau. Con người khi không có niềm tin về cuộc sống thì hay bi quan, chán nản khi gặp việc khó khăn, bức bách thường oán trời, trách đất, đổ thừa cho xã hội bất công, nên dễ dàng tìm lấy cái chết một cách oan uổng.
Niềm tin ở đây là tin sâu nhân quả chứ không phải tin vào thần linh thượng đế ban phước, giáng hoạ, mà ta phải đủ niềm tin về Tam bảo, niềm tin đối với nhân quả và niềm tin chính mình. Ta phải có niềm tin như thế để sống tốt cho tha nhân và chính mình bằng tình người trong cuộc sống.
TIN PHẬT LÀ NGƯỜI GIÁC NGỘ HOÀN TOÀN
Trước hết, chúng ta nói về tin Phật. Vậy tin Phật là tin như thế nào? Lâu nay chúng ta cứ ngỡ tin vào đức Phật là tin Ngài có đủ tất cả các năng lực nhiệm mầu, huyền bí, có đủ điều kiện ban phước giáng hoạ như bao nhiêu người thường lầm tưởng, nên khi đến chùa đa số đều cầu xin chớ không thật sự tu tập để tăng trưởng phước đức nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Niềm tin đối với Phật không giống như thần linh thượng đế trong thời xa xưa, tin Phật ở đây có khả năng giác ngộ của một con người bằng xương bằng thịt giống như tất cả mọi người chúng ta. Chúng ta thường tin Ngài sẽ đem đến an vui, hạnh phúc cho chính mình, sẽ gia hộ cho ta bình an mà không cần phải tu tập. Nhưng sự thật có phải như vậy không? Chúng ta tin Phật vì Ngài là bậc giác ngộ viên mãn, từ một con người phàm phu tục tử như chúng ta do quyết chí buông bỏ, tu hành mà thành tựu đạo pháp. Ngài là một con người giống như tất cả mọi người, Ngài tu hành thành Phật thì ta cũng có thể thành Phật như Ngài, nên Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Chữ Phật nói cho đầy đủ là Phật đà, có nghĩa là người giác ngộ hoàn toàn, không còn bị các thứ ngũ dục ở thế gian chi phối. Vì giác ngộ viên mãn nên những gì Ngài chỉ dạy cho chúng ta đều là chân lý tối cao đúng với lẽ thật. Phật là danh từ chung chứ không phải của riêng chúng sinh nào, ta cũng là một chúng sinh nên cũng có thể thành Phật. Vậy chúng ta tin Phật là tin người giác ngộ hoàn toàn, một bậc giác ngộ sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mê lầm từ muôn kiếp để được thanh tịnh, sáng suốt, chớ không phải tin Ngài có khả năng ban phước, giáng hoạ giúp cho ta được mọi điều như ý muốn. Phật dạy: “Ta không có quyền ban phước, giáng họa cho một ai”.
Chúng ta đọc lịch sử đều biết rằng đêm thứ 49 Ngài ngồi Thiền định dưới cội Bồ Đề, từ canh một cho tới canh hai Ngài chứng được Túc Mạng Minh, tức là nhớ biết lại vô số kiếp về trước Ngài làm gì, ở đâu; từ canh hai cho tới canh ba Ngài chứng được Thiên Nhãn Minh, thấy rõ chúng sinh theo nghiệp tái sinh trong 6 đường luân hồi; từ canh ba cho tới canh năm Ngài chứng được Lậu Tận Minh, thoát ly được luân hồi sinh tử hoàn toàn và biết rõ nguyên nhân nào khiến chúng sinh phải trầm luân sinh tử. Đức Phật sau khi đã chứng được Túc mạng minh, Ngài nhớ lại vô số kiếp về trước cả hàng trăm ngàn kiếp, chớ không phải năm mười kiếp mà thôi. Trong kinh Phật thường nói: “Ta nhớ lại vô số kiếp về trước như người nhớ việc mới xảy ra chiều hôm qua, nhớ rõ ràng như người đang đói khát thèm thức ăn trong từng phút giây”. Do đó, Ngài biết được mình từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu nên chứng tiếp Thiên nhãn minh, Ngài có con mắt thấu rõ, thấy suốt từ những vật nhỏ nhẹm nhất cho đến xa tít tận trời cao, bao la trong vũ trụ, mà con mắt phàm phu tục tử của chúng ta không thể nào thấy được. Ngài thấy rõ tất cả chúng sinh sau khi chết rồi không phải là hết, mà chỉ thay hình đổi dạng theo nghiệp tái sinh trong luân hồi lục đạo.
Trong sáu đường luân hồi ta thăng lên, lộn xuống, gồm có ba đường lành và ba đường dữ. Ba đường lành là cõi người, A-tu-la và cõi trời. Ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nếu chúng ta gieo tạo nghiệp thiện lành, tốt đẹp thì khi nhắm mắt lìa đời sẽ đi theo ba đường lành sống đời an vui, hạnh phúc. Nếu ai gieo nghiệp xấu ác thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà khi nhắm mắt ra đi sẽ bị rơi vào ba đường dữ, chịu khổ đau không có ngày cùng. Do thấy biết đúng như thật từ sự buông xả tất cả mọi vọng niệm dù tốt hay xấu nên đức Phật nói: “Ta thấy chúng sanh trôi lăn trong 6 đường luân hồi sinh tử như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ qua người lại rõ ràng không lầm lẫn”. Đức Phật thấy rõ dòng luân hồi của tất cả chúng sinh từ đời này sang kiếp nọ không có ngày thôi dứt, nên Ngài mới chỉ dạy chúng ta biết cách tu tập để thoát khỏi sinh-già-bệnh-chết của dòng luân hồi vô tận trên thế gian này. Cho đến canh năm khi sao mai vừa mọc, Ngài đã chứng được Lậu Tận Minh, biết cách thoát khỏi mọi trói buộc do phiền não tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến gây ra bởi chấp thân tâm này làm thật ngã. Điểm đặc biệt là Phật không bắt chúng ta nhất quyết phải tin theo như các giáo điều khác mà ta có quyền kiểm chứng, nghiệm xét lại coi có đúng tinh thần nhân quả và có lợi ích thật sự cho mình và người hay không.
Thoạt đầu, đức Phật thấy tất cả chúng sinh từ vô số kiếp về trước đã từng sinh sống, làm gì, ở đâu trong lục đạo luân hồi. Chúng ta tự kiểm lại xem mình có mang tính cách gì của quá khứ dẫn đến hiện tại hay không? Ngài thấy có khi cũng đã hưởng phước báo tối cao ở các cõi trời muốn gì được đó, và ngược lại có lúc phải chịu đoạ lạc vào chỗ khốn cùng do gây tạo nghiệp nhân xấu. Ngài đã nhớ lại vô số kiếp về trước một cách rõ ràng, tường tận. Khi đã chứng được Lậu Tận Minh, Ngài thấu tột được nguyên nhân nào khiến chúng sanh trầm luân trong sanh tử, và phương pháp nào đưa chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi ấy, không còn bị buộc ràng trong lục đạo nữa. Biết rõ nhân và quả như vậy nên Ngài dạy chúng ta cách tu hành thoát ly sanh tử. Từ chỗ tu chứng ấy, những gì Ngài thấy biết và nói lại cho chúng ta nghe đều là chân lý, là sự thấu triệt nguồn gốc của con người và muôn loài vật. Phật dạy rằng, sở dĩ chúng ta có mặt ở thế gian này là do tích lũy nghiệp của đời trước. Đời trước ta đã từng làm gì thì đời này sanh ra ảnh hưởng nghiệp nhân của đời trước mà cho ra kết quả trong hiện tại. Điều này chứng tỏ học thuyết nhân quả của nhà Phật rất phù hợp với chân lý cuộc đời, không có gì bỗng dưng khi không mà ra, hoặc số phận đã an bài. Đời trước chúng ta đã từng làm việc lành-dữ thì đời này tuỳ theo duyên mà thọ hưởng quả tốt-xấu. Vì vậy, mỗi người chúng ta có mặt trong cuộc đời này đều mang theo những tâm tư, ý niệm, thói quen khác nhau. Bởi thế, tuy cùng là cha mẹ sinh ra nhưng anh chị em không ai giống ai, chỉ giống một phần nào do tính di truyền của gen mà thôi. Đức Phật thấy biết rõ ràng như vậy nhưng nói ra để mọi người hiểu hết sự thật của nó quả là điều không đơn giản chút nào, chỉ ngoại trừ ai đã đủ lòng tin sau khi trải nghiệm. Người Phật tử chân chính nhờ biết nghiệm xét nên thấy rõ ràng đó là một lẽ thật, do đó không nghi ngờ.
Tất cả người thế gian lớn lên đều nghĩ tới chuyện lập gia đình để gầy dựng giống nòi nhân loại, nên hễ ai có quyền cao chức trọng là tìm cách vơ vét cho riêng mình, tìm cách bóc lột người khác gây ra ân oán, thù hằn không có ngày thôi dứt. Đó là quy luật sống ở thế gian, ai làm khác đi thì bị chỉ trích, phê bình, phán xét. Dù biết rằng trong tình yêu lứa đôi ít ai được hạnh phúc trọn vẹn mà đa số chịu khổ nhiều hơn vui. Tuy nhiên, việc đời là như thế nhưng có những người lớn lên đòi đi tu, thậm chí các chú thiếu niên còn nhỏ tuổi vẫn muốn vào nhà chùa để được xuất gia sống đời đơn giản, đạm bạc. Điều này có ai chỉ dạy hay không? Cha mẹ không dạy, thầy cô giáo không xúi bảo, vậy cái gì thúc đẩy để các em phát tâm đi tu. Rõ ràng chủng tử tu của những người này trước đã huân tập, giờ gặp duyên liền phát sinh không cần ai xúi giục, không ai bắt buộc mà tự phát nguyện đi tu. Khi chúng ta hiểu rồi thì biết rằng mọi thứ đều do duyên nghiệp đời trước thúc đẩy, những việc này không phải đời này mới có mà đã được tích luỹ từ trong quá khứ. Sau khi thấy tột lý nhân quả của Phật dạy rồi, chúng ta phải cố gắng làm sao trong đời này tu tạo những nghiệp thiện lành, tốt đẹp, ngăn dừng những việc xấu ác, để khi ra đi ta phải khỏi bận lòng lo lắng mà biết chắc rằng mình sẽ tái sanh trong cõi lành. Nhiều người không hiểu, không biết, rồi cho rằng chết là hết, mặc tình gây tạo tội lỗi để chuốc lấy quả khổ đau. Một số người thế gian không tin mình có con người tâm linh, cứ nghĩ chết là hết, nên khi gặp điều gì quá bức bách không chịu nổi thì đòi tự tử. Họ cứ nghĩ chỉ cần chết là giải quyết xong mọi việc. Giết người thì phải đền tội, luật pháp thế gian còn như vậy, tự giết mình cũng là một cái tội huỷ diệt mạng sống, bởi duyên nợ với gia đình và xã hội chưa giải quyết xong mà ta tự bức bách mình. Hạng người như vậy là thuộc hạng người quá sân hận, chối bỏ tất cả những gì hiện thực, để lại sau lưng nhiều nỗi đau của sự mất mát.
Bản thân chúng tôi đã từng ngu si như vậy, vì không có tiền cưới vợ, vì sĩ diện với bạn bè, người thân, gia đình bên vợ, và nghĩ rằng chết là hết nên uống thuốc tự tử cho xong kiếp khốn khổ này; nhưng vì nghiệp chưa hết, nợ thế gian trả chưa xong mà được cứu chữa thoát qua cơn hiểm nghèo. Không phải ai cũng có may mắn và phước duyên tốt mới vượt qua những tai ương, hoạn nạn trong cuộc đời nếu kiếp trước không gieo trồng phước đức. Tôi bây giờ đã xuất gia làm người tu Phật nhưng bệnh hoạn liên miên, đủ các chứng bệnh hiểm nghèo, oằn oại, đau thương, vật vã, mất trí nhớ, mệt mỏi, đờ đẫn như kẻ mất hồn. Nhờ có Phật pháp, có Minh sư chân chính cùng thầy lành bạn tốt đã hun đúc cho chúng tôi vượt qua tất cả chướng nạn trong cuộc đời. Hậu quả này cũng từ sự giết hại và huỷ hoại thân mình làm khổ người khác, nên phải gánh lấy hậu quả như thế, may nhờ có tu chút chút nên cũng giảm bớt ưu phiền, sầu muộn.
Đức Phật đã dạy, từ con người cho đến muôn loài vật đều do nhân duyên quả mà thành, nên mọi thứ đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Sỡ dĩ Ngài nói ra là do tu chứng mà thấy, không phải suy luận vu vơ, huyền hoặc, mộng ảo, mà đó là một lẽ thật. Phật thấy chúng sanh theo nghiệp luân hồi chịu quả báo khổ vui, nên nói những bài Kinh dạy về nhân quả-nghiệp báo-tái sinh để chúng ta ý thức mà tu hành. Nếu ai đủ khả năng dứt sạch những nghiệp duyên ràng buộc do tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến gây ra thì sẽ thoát khỏi luân hồi sanh tử. Người Phật tử chân chính phải biết tin sâu nhân quả và ứng dụng nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, để làm hành trang tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Chúng ta biết được quả khổ để truy tìm ra nguyên nhân mà tìm cách chuyển hoá chúng thành an vui, hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, phá dẹp được nhân gây ra quả khổ thì chúng ta khỏi phải lo lắng, sợ hãi, vì biết chắc ta là người tốt trong hiện tại và mai sau. Như vậy, chúng ta tin Phật là một con người bằng xương bằng thịt cũng được sinh ra từ cha mẹ, do biết cách tu tập, buông xả mà được tự tại, giải thoát, không phải chuyện mơ hồ, huyền hoặc như các học thuyết khác. Đó là ta tin Phật và cố gắng bắt chước làm theo vì ai cũng có tính biết sáng suốt nương nơi thân này. Nhờ vậy, ta phát khởi niềm tin chân chính và hiểu biết sâu rộng mà không dám làm những điều xấu ác, có chăng là do tập khí hại người, hại vật còn quá nhiều trong ta. Ta phải tỉnh giác trong từng phút giây mới dần hồi chuyển hoá chúng được, bằng không thì bỏ được niệm này thì đưa niệm kia vào, cứ như thế ta phải chịu trong cái vòng lẩn quẩn của niệm tốt hay xấu.
Niềm tin của người Phật tử là gì? Đó là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin giới và tin chính mình có khả năng thành Phật. Tất cả chúng sinh hay loài có tình thức đều có Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này. Đó là lòng tin của người Phật tử chân chính. Vì tin rằng mình có tâm giác ngộ, có khả năng thành Phật, nên chúng ta cố gắng nuôi dưỡng Bồ đề tâm bằng cách thực tập 4 oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi. Sự phát khởi Bồ đề tâm đó ở ngay nơi mắt thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Sự vận hành của nó tác động qua thân xúc chạm và ý nhận biết rõ ràng. Người Phật tử chân chính là người có lòng tin sâu sắc không thối chuyển, tin tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, nên không khinh khi bất cứ một ai. Người đó tìm cách gần gũi, thân cận mọi người để tạo điều kiện cho họ phát khởi được Bồ đề tâm, nuôi dưỡng được Bồ đề tâm, làm cho Bồ đề tâm thêm lớn mạnh. Chính nhờ vậy, con người biết cách hoà hợp, cùng san sẻ tình yêu thương bằng trái tim hiểu biết để giúp nhân loại cùng vui sống trong bình yên, hạnh phúc. Đạo Phật thâm nhập vào nơi đâu thì nơi đó có chất liệu của sự yêu thương, gắn bó với nhau bằng tình người trong cuộc sống. Như trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa có nói, Bồ tát Thường Bất Khinh tu hạnh khởi mở Phật tính cho mọi người biết. Dù bị người đời mắng chửi, nguyền rủa, đánh đập, nhưng Ngài vẫn không than vãn hay oán trách một ai, mà còn nói rằng: “Tôi không dám khinh các Ngài vì các Ngài sẽ thành Phật”. Suốt một đời Bồ tát chỉ nói như vậy và không buồn phiền một ai, nên tâm tư Ngài trong sáng, thanh tịnh, nhiệm mầu, làm cho nhiều người cảm nhận được niềm an lạc vô biên mỗi khi gặp Ngài.
Niềm tin là chất liệu cần thiết cho sự sống của tất cả mọi người. Con người nếu không có niềm tin chân chính thì khó có thể sống đàng hoàng mà sống thác loạn, điên cuồng, buông thả, bất cần đời, nên khi phước hết thì chịu hoạ vô cùng cực. Nhưng niềm tin là gì và tin vào cái gì? Đó là vấn đề mà mỗi chúng ta phải tự vấn để thẩm định giá trị niềm tin của mình. Nếu ta tin tưởng vào một điều gì đó mà dẫn đến bế tắc, gây ra khủng bố, bạo động, mất an ninh trong cuộc sống thì đó không phải là niềm tin chân chính mà là cuồng tín; còn tin mà không hiểu điều mình tin là gì thì đó là mê tín. Chúng ta chắc chắn không phải là những hạng người này vì chúng ta là Phật tử. Cho nên, tin Phật là một con người bằng xương bằng thịt như chúng ta, cũng sinh ra từ cha mẹ và lớn lên có vợ con, sống đời vương giả mà người đời ai cũng mong muốn; nhưng hạnh phúc ấy chỉ tạm bợ và đi đôi với khổ đau, Ngài bỏ lại sau lưng hết tất cả để sống đời đơn giản, đạm bạc, và cuối cùng dứt được kiếp luân hồi sinh tử, không còn phiền não tham-sân-si chi phối. Chúng ta cũng như Phật, nếu quyết tâm tu hành đến nơi đến chốn thì cũng sẽ thành Phật trong tương lai, vì tất cả chúng sinh đều có tính biết sáng suốt hằng chiếu soi muôn sự vật.
TIN LỜI PHẬT DẠY LÀ CHÂN CHÍNH
Ta tin những lời dạy vàng ngọc của Phật, tức là ta thực hành lý nhân quả-luân hồi-nhân duyên để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Muốn được quả tốt thì ta phải tạo nhân tốt và những duyên phụ thuộc cũng phải tốt mới được. Từ lý nhân quả này, chúng ta xét thấy mọi việc trên thế gian không có gì xảy ra bỗng dưng khi không mà có được. Chúng ta phải đi từ nhân tới quả bằng sự quán chiếu và nghiệm xét. Nhân mình làm tốt thì quả tốt, nhân mình làm xấu thì quả xấu. Biết được nhân quả phù hợp với đạo lý làm người rồi, chúng ta phải quyết tâm cố gắng ngăn ngừa từ nhân, không cho nhân xấu phát sinh. Ta đã không tạo nhân xấu mà biết tìm cách phát huy tạo nhân tốt, đó là người Phật tử chân chính. Như chúng ta thường thấy, “gieo nhân thì gặt quả” như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Người làm nghề nông chon lựa giống tốt, chuẩn bị cày bừa thì phải làm sạch cỏ dại, rồi mới phân nước đầy đủ, chờ khi thời tiết thuận lợi mới có thể gieo giống. Bởi giống tốt và siêng năng chăm sóc đúng kỹ thuật nên cây lúa tốt tươi, bông lúa nặng trĩu, nhiều hạt, và cuối cùng là thu hoạch một mùa bội thu.
Như có anh nông dân kia sau thời cuốc ruộng mệt nhọc, anh vào ngồi nghỉ dưới gốc cây, vô tình có một con thỏ bị con thú lớn rượt đuổi nên hoảng hồn chạy thụt mạng, đâm sầm vào gốc cây chết liền tại chỗ. Anh nông dân mừng quá, nghĩ rằng từ nay về sau khỏi cần làm ruộng, cứ mỗi ngày ra đây ngồi chờ con thỏ đến nộp mạng. Đây là quan niệm của những kẻ lười biếng muốn ăn không ngồi rồi mà hưởng thụ. Họ nghĩ rằng tất cả đều là ngẫu nhiên khi không nên sinh ra tư tưởng không muốn làm mà muốn có ăn; như anh chàng nông dân kia thay vì tin sâu nhân quả, muốn trúng mùa lúa bội thu thì trước tiên phải lựa giống tốt, sau đó cuốc ruộng, phơi đất, vô nước, bón phân, chăm sóc theo quy trình kỹ thuật làm ruộng, cộng với thời tiết, nhân duyên thuận lợi thì chắc chắn sẽ trúng mùa. Nếu chúng ta cứ mỗi ngày ra ngoài bờ ruộng, chắp tay nguyện Phật trời cho con mùa này trúng lúa mà không chịu làm gì hết như anh nông dân trên thì thật là điều vô lý hết sức. Ta không chịu gieo giống, tạo nhân duyên đầy đủ về mọi phương diện mà đòi có quả trọn vẹn, tốt đẹp thì không bao giờ có được. Đó là lẽ thật. Người thông minh, sáng suốt biết siêng năng, cần cù trong mọi công việc, biết chọn nhân tốt để gầy dựng tương lai và sự nghiệp cho gia đình được kết quả trọn vẹn trong hiện tại và mai sau. Ngược lại, người không biết tu tạo phước đức, thường hay tạo nhân xấu ác thì quả xấu sẽ đến như người trộm cướp sẽ bị bắt và chịu tù tội. Tất cả quý Phật tử khi nghe lời Phật dạy đã hiểu rồi thì ráng cố gắng chọn lựa nhân tốt để làm, nhân xấu loại ra, bất cứ làm việc gì chúng ta cũng lấy nhân quả làm nền tảng thì lợi ích vô cùng.
Thế gian có nhiều người gây nhân mà không dám chịu quả; như trong nhà có nhiều anh chị em mà ta lỡ tay làm bể cái chén quý của mẹ, do không dám nhận lỗi nên khi cha mẹ tra hỏi ta đổ thừa không biết. Cuối cùng, mẹ phải bắt tất cả anh chị em trong nhà ra điều tra, mấy đứa kia đâu có làm bể nên chúng nói không biết. Mẹ giận quá phải đánh đòn hết để điều tra ra sự việc coi ai làm bể. Chúng ta đã lỡ tạo nhân thì phải can đảm chịu quả, nhận lỗi lầm về mình do sơ xót làm bể, “dạ thưa mẹ, đây là lỗi của con, con lỡ như vậy, xin mẹ thương mà tha thứ bỏ qua cho con”. Ta biết nhận lỗi như vậy thì mẹ nào lại chẳng thương yêu, tha thứ. Ta khỏi làm phiền hà khiến anh chị em bị đòn oan. Thế cho nên, người biết tin sâu nhân quả và dám chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình là người sống có nhân cách và phẩm chất đạo đức tốt. Người nào không tin nhân quả là người yếu đuối, hèn nhát, không có hiểu biết và nhận thức đúng đắn, nên sống càn, sống dở, làm tổn hại cho gia đình, người thân và xã hội.
Kế đến ta tin con người sau khi chết không phải là hết mà chỉ thay hình, đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân gieo tạo tốt-xấu của mình. Ta tin có tái sinh, luân hồi thì càng làm mình thêm dè dặt hơn để trong đời sống như thế nào cho phải đạo làm người; bởi ai cũng muốn đời sống sau được bình yên, hạnh phúc, có tất cả tiền tài, danh vọng, nên phải giữ gìn 5 điều đạo đức, là chuẩn mực thước đo lòng người trong hiện tại và mai sau: Không sát sanh hại vật; không gian tham trộm cướp, lường gạt của ai; không tà dâm phi pháp; không nói dối hại người; không uống rượu say và hút chích xì ke, ma túy. Ai giữ được 5 điều trên thì bảo đảm đời sau được sinh trở lại làm người có nhân cách và phẩm chất tốt đẹp. Chúng ta tu để chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành được an vui, hạnh phúc, làm tròn trách nhiệm bộn phận đối với gia đình, người thân và phục vụ lợi ích cho xã hội. Người không sát sanh hại vật thì đời sau sống thọ và ít bị bệnh hoạn. Người không gian tham trộm cướp thì đời sau không bị ai lấy cắp, lường gạt. Người không tà dâm thì đời sau sẽ đẹp đẽ, đoan chính, trang nghiêm, ai thấy cũng mến thương. Người không nói dối hại người thì đời sau nói năng lưu loát, nói ra mọi người đều tin theo, không bị ai nghi ngờ. Người không uống rượu say, không hút chích xì ke, ma túy thì đời sau sanh ra thông minh, sáng suốt, trí tuệ đầy đủ. Như chúng ta đã thấy, chỉ cần tin sâu nhân quả và giữ giới đầy đủ, trọn vẹn thì ta sẽ có một tương lai tốt đẹp mà khỏi cần phải cầu khẩn, van xin một ai. Những ai không tin sâu nhân quả và kiếp luân hồi tái sinh thì đâu có biết tu, nên đời sau họ sẽ đau khổ, lầm mê.
Một người biết giữ gìn 5 giới và tất cả mọi người đều giữ giới thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc, làm gì có chiến tranh, binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau. Nhà nào có người bị vướng vào tệ nạn xã hội thì trộm cướp hoặc rượu chè be bét, hút chích xì ke, ma túy thì đó là họa lớn làm tổn hại cho mình và người. Cho nên, người Phật tử chân chính sẽ không làm phiền luỵ đến một ai mà con đem lại hạnh phúc cho gia đình, người thân và giữ gìn tốt an ninh trật tự cho xã hội. Chúng ta nhờ tin lời Phật dạy nên quyết tâm ứng dụng và hành trì thì kết quả mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cuộc sống. Qua đó, chúng ta mới thấy lời Phật dạy là chân lý nhiệm mầu luôn giúp cho mọi người biết sống yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống.
TIN CHƯ TĂNG VÀ BIẾT CUNG KÍNH
Ta tin Tăng - tức những người vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho mọi người biết cùng tu học. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Nhờ có chư Tăng ni thay Phật truyền đạt lời dạy của Ngài, khiến Chánh pháp được mở mang rộng rãi giúp nhiều người sống tốt hơn. Nhờ vậy, những ai tiếp thu được Phật pháp sẽ sống bình yên, hạnh phúc hơn và sẵn sàng chia vui, sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha. Tuy nhiên, Tăng cũng có nhiều loại, đại khái lược lại có 3 loại là: Bồ tát Tăng, Thanh văn Tăng và phàm phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chính xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường. Phật dạy, đối với Tam bảo Phật-Pháp-Tăng ta phải kính tin trọn vẹn. Phật thì tuỳ duyên giáo hoá, cứu độ chúng sinh vượt thoát biển khổ, sông mê và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại lời dạy vàng ngọc của Ngài. Tăng là những người kế thừa sự nghiệp của Phật, hiến trọn đời mình vì lợi ích nhân loại; nhưng ta tin Tăng mà không thần tượng quá vị thầy của mình, vì thần tượng dễ sụp đổ và dễ dàng đả phá, công kích người khác do thấy thầy mình nhân cách, đạo đức hơn người.
Tăng phàm phu là những người chân thật, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn mọi người, nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ, giải thoát, giúp mọi người bớt khổ, thêm vui, tránh ác, làm lành với tinh thần thương yêu, đùm bọc, san sẻ cho nhau nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc trong từng phút giây. Tuy phàm phu Tăng vẫn còn nhiều khiếm khuyết do chưa thành tựu đạo quả, nhờ học hiểu, tu tập tới đâu thì đem ra hướng dẫn mọi người tới đó. Cho nên, ai phát tâm cúng dường phàm phu Tăng vẫn được phước báo vô lượng, vô biên. Ngày nay, đối với Tăng bảo trong thời đại này chúng ta cần phải tìm hiểu và chọn lọc. Vì sao vậy? Vì thời đức Phật còn tại thế, Ngài biết căn cơ, trình độ, căn tánh của mọi người, nên khi giáo hóa gặp ai có cơ duyên, Ngài dạy xong họ nhận hiểu và ứng dụng rất mau ngộ đạo. Vì vậy, thời Phật trực tiếp giáo hóa Tăng Ni cũng như Phật tử được gọi là thời Chánh pháp, 100 người tu thì 100 người ngộ đạo.
Thực tế trong cuộc đời này, phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Phàm phu Tăng chân thật tu hành, thuyết pháp độ sinh mang tinh thần Thánh Tăng Bồ tát và Thánh Tăng Thanh Văn, đem đạo pháp vào đời cũng bắt đầu từ phàm phu Tăng. Phàm phu Tăng là số đông đang tu học nên quý Phật tử dễ tiếp cận và gần gũi hơn, do đó mọi người vẫn học hỏi được những điều hay lẽ phải để áp dụng tu tập vào trong đời sống hằng ngày. Nhiều khi chúng ta rất mâu thuẫn, mình khuyên nhủ mọi người chuyển hoá lòng tham hoặc không nên uống rượu, hút thuốc, mà bản thân lại uống, hút liên miên. Như vậy, mình dạy người thì ai tin được? Cho nên, buộc lòng mọi người phải chọn lọc, tìm hiểu kỹ càng chứ không nên nghe ai nói sao tin vậy. Do đó, chúng ta phải dè chừng, cẩn thận, nếu ta dễ tin mà không tìm hiểu chín chắn thì vô tình làm cho Tăng bảo bị mất giá trị và ảnh hưởng không tốt đến sự tu tập của nhiều người.
TỰ TIN CHÍNH MÌNH
Kế đến, ngoài việc tin Tam bảo, tin lời Phật dạy, chúng ta còn phải tự tin nơi chính mình. Tin mình là tin cái gì? Tin ta có đủ khả năng thay đổi hoặc chuyển hóa những nghiệp nhân xấu-ác trở thành nghiệp thiện lành-tốt đẹp. Ta tin mình có khả năng bỏ được những hành động xấu và cố gắng làm những điều hay lẽ phải để giúp người, cứu vật. Trước kia khi chưa biết tu, quý Phật tử trực tiếp giết hại những con vật như gà, vịt, bò, heo để nuôi sống gia đình. Bây giờ biết tu, mặc dù vẫn ăn thịt cá nhưng chỉ mua ăn những con đã chết hoặc làm sẵn, như vậy chúng ta đã biết chuyển nhân giết hại từ từ, tự mình thấy được sự tác hại của nó, thấy sát sinh hại vật là nhân gây thù chuốc oán, làm khổ đau cho người và vật. Ý thức được sự giết hại là khổ đau nên ta quyết tâm từ bỏ thì bỏ được, chớ đâu ai bỏ thế cho mình được. Thật vậy, ai tin nhân quả tức cũng là tin vào chính mình. Ta tin rằng khổ đau hay hạnh phúc đều do chính mình tạo lấy từ những suy nghĩ, nói năng, rồi dẫn đến hành động. Đạo Phật không tin vào một đấng thần linh thượng đế hay tạo hóa nào có quyền ban phước, giáng họa trên thế gian này. Cho nên, Kinh nói ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào đã làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy. Do đó, tin nhân quả là tin thành Phật hay thành chúng sanh, sống cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, sang hay hèn, phú quý hay bần tiện… đều tùy thuộc vào chính bản thân mình có tu tập hay không tu tập mà thôi. Nhận rõ được quả báo hành vi, ngôn ngữ và ý niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không oán trách trời đất, không phiền muộn gia đình và xã hội, mà chỉ biết tự trách mình. Chúng ta sẽ tích cực tu tâm dưỡng tánh làm sao cho mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn, để cuộc đời được tươi sáng và gia đình hạnh phúc hơn.
Nếu chúng ta tin tưởng ở chính mình có khả năng thay đổi được các nghiệp nhân xấu ác và các thói quen nghiện ngập, thì ta sẽ trở thành người tốt trong hiện tại và mai sau. Ngược lại, nếu ta không tin nơi chính mình, cứ đổ thừa tại-bị-thì-là mà không can đảm vượt qua để rồi phải chịu khổ đau suốt đời, suốt kiếp. Cho nên, niềm tin nơi chính mình rất quan trọng, nó đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao độ và nhận thức rõ ràng về sự tác hại của nó, nhờ vậy giúp ta thăng tiến trên con đường tu tập mà cố gắng vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Đó là ta đã tự tin chính mình để chuyển hoá những thói quen bên ngoài, nhưng tin như vậy chưa đủ, ta còn phải tin mình có tính biết sáng suốt ngay nơi thân này, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy mà không khởi niệm phân biệt đẹp-xấu, sự vật như thế nào thì ta thấy biết rõ như thế ấy, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Như vậy, ai cũng có Phật tính thanh tịnh, sáng suốt hay chiếu soi muôn loài vật, nên thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, thân xúc chạm nóng lạnh biết và ý biết tất cả. Khi chúng ta tu, ta biết cách chuyển hoá và buông xả thì tâm hoàn toàn thanh tịnh; do đó, trí tuệ sáng suốt sẵn có phát ra. Trí tuệ ấy vượt ngoài tất cả hiểu biết thông thường của thế gian, nên Phật gọi là vô sư trí, tự nhiên trí hay căn bản trí. Chúng ta có trí vô sư, có trí căn bản, có trí tự nhiên, nhưng không chịu tin nhận nên đành phải chịu sống trong đau khổ, lầm mê.
Đức Phật là một con người, chúng ta cũng là con người, đức Phật có sẵn trí vô sư, trí tự nhiên, trí căn bản, thì chúng ta cũng có đầy đủ như Ngài. Vậy tất cả mọi người có tin không? Nếu không tin là bởi lòng tin của chúng ta còn yếu quá, vì thế mình tu hoài mà không thấy giác ngộ. Nếu chúng ta vững niềm tin nơi chính mình, khẳng định mình cũng sẽ giác ngộ như Phật trong nay mai thì ta mới mong thực hiện được nguyện vọng cao cả ấy, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Ở thế gian, các nhà khoa học hoặc bác học khi muốn nghiên cứu một đề tài gì họ phải dồn hết cả tâm lực vào đó, có khi quên cả vợ con, quên cả tắm rửa, quên cả ăn uống, họ dồn sức đi sâu trong vấn đề đang nghiên cứu. Nhờ dồn sức mãnh liệt như vậy, qua một thời gian bỗng dưng họ sáng lên nên mới gọi là phát minh. Như vậy có ai dạy họ phát minh không? Tự họ sáng ra do tâm thanh tịnh, sáng suốt và chuyên nhất, không tạp loạn. Đó là trí vô sư đã sẵn mà trước kia họ lo học, lo tìm kiếm, lượm lặt bên ngoài, nên trí ấy không thể phát ra được. Bây giờ, họ trở lại chuyên tâm dồn sức để phát huy trí tuệ của mình, do đó nó phát ra. Điều này chứng tỏ chúng ta ai cũng có sẵn trí vô sư, nhưng vì mình không chịu nhận mà lãng quên nên không dùng được, rồi tự cho mình là ngu si, mê muội.
Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Như vậy, tất cả chúng ta đều có chủng tử, có nhân duyên sẽ thành Phật. Người tu quyết chí đi tới giác ngộ viên mãn, chớ không phải tu cầm chừng cho có, thì nhất định sẽ thành Phật trong tương lai. Chúng ta đến với đạo Phật không phải để cầu khẩn, van xin, không phải để nương tựa thần quyền hay đấng tối cao nào khác, mà ta phải biết nương tựa chính mình, hoạ hay phúc từ ta mà ra. Niềm tin trong đạo Phật hướng về những điều mà Đức Phật đã giác ngộ, đó là duyên sinh, là nhân quả nghiệp báo, là vô thường-khổ-không-vô ngã. Nếu chúng ta xây dựng niềm tin không vững chắc, hoặc niềm tin có được trên cơ sở nhận thức cảm tính mà không xuất phát từ lý trí, từ kinh nghiệm thực tiễn, thì sớm muộn gì niềm tin ấy cũng bị đổ vỡ. Người ta dễ dàng bỏ đạo, thay đổi thái độ, quan điểm, cũng chỉ vì niềm tin không vững chắc và kiên cố, do không có sự tìm tòi, cân nhắc và do tham muốn quá đáng. Người ta dễ dàng bị lôi cuốn, tha hóa, chạy theo tà đạo, rơi vào mê tín dị đoan, làm điều bậy bạ cũng vì không có niềm tin chân chính, lâu dài.
Ngoài ra, còn một điều hết sức quan trọng là lòng tự tín của người Phật tử. Đây là niềm tin căn bản nhất không thể thiếu. Lòng tự tín là lòng tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin rằng mình sẽ thành Phật nếu biết cách nỗ lực tu hành. Bởi sự giác ngộ là tự mình giác ngộ chứ không ai có thể giác ngộ thay thế cho mình, vì thế nếu không có lòng tự tin thì chúng ta không cố gắng nỗ lực bền bỉ, lâu dài. Tóm lại, niềm tin căn bản trong đạo Phật là niềm tin Tam bảo Phật-Pháp-Tăng và niềm tin chính mình, tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có thể đạt đến chỗ hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Một khi có niềm tin nơi Tam bảo là những gì được xem là chân lý, là thánh thiện, thì con người sẽ phấn đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất để đạt được mục tiêu an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai; cũng như con thuyền đã xác định được phương hướng nên biết bến đỗ nơi đâu. Phật ngày xưa khi chưa thành tựu đạo pháp, nhưng nhờ có niềm tin đã khơi dậy được tánh giác nên Ngài thành Phật, còn chúng ta có tánh giác mà chưa chịu nhận nên ông Phật của mình còn ngủ quên chớ không phải không có. Bây giờ, nếu khéo tu, khéo chuyển thì chúng ta sẽ thành Phật, sẽ giác ngộ như Ngài trong nay mai.
Có nhiều người cứ nghĩ mình đủ thứ mê muội, nhiều tội lỗi, đủ thứ xấu xa nên dễ gì thành Phật, nhưng Phật đã mở ra một con đường sáng để chúng ta có đủ niềm tin mà tu hành; bởi chư Phật luôn muốn chúng sanh được giác ngộ chớ các Ngài không muốn chúng sinh chìm mãi trong biển khổ, sông mê. Quí vị khi nào được năm ba phút không nghĩ việc này, việc nọ hay không, nếu làm được vậy sẽ thấy trong đầu mình thảnh thơi, sáng suốt và an lạc vô cùng. Chúng ta càng suy nghĩ, tính toán thì càng thêm rối rắm; càng suy nghĩ thì càng bị căng thẳng, nên dễ bị bệnh thần kinh; cũng như muốn cho nước trong mà ta cứ quậy hoài thì biết bao giờ nước mới trong được. Cũng vậy, tâm chúng ta lăng xăng, điên đảo, cuồng loạn, hết nghĩ cái này lại tính cái kia vì sợ bị mất mát, thiệt thòi. Bây giờ biết tu rồi ta phải ngồi lại nhìn nó, thấy được từng tâm niệm lăng xăng chạy đôn chạy đáo, chạy ngược chạy xuôi, biết nó là vọng tưởng liền buông bỏ không theo, nhờ vậy dần hồi tâm bớt loạn động.
Muốn vượt ra ngoài biển khổ, sông mê thì chúng ta phải giác ngộ, giải thoát hoàn toàn mới được. Như hiện giờ trong tâm mỗi người mình nhớ cái gì nhiều nhất? Chắc chắn là không ngoài hai niệm thương và ghét, thương nhiều cũng nhớ mà ghét nhiều lại càng nhớ hơn, quý vị có thấy vậy không? Vì hai niệm thương-ghét này mà chúng ta phải đau khổ hoài, thương mà không được gần cũng khổ, ghét mà gặp nhau hoài càng khổ. Như vậy, trong lòng mình cứ luôn chất chứa cái thương-cái ghét, cái buồn-cái giận và đủ thứ hết. Những thứ đó là nhân sẽ đưa chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, gặp lại nhau để đền trả mãi không thôi. Nhà Phật gọi thương nhiều là ái, tức là yêu thích; từ ái sẽ dẫn tới luyến lưu trong đời này và đời sau gặp lại nhau tiếp. Ghét nhiều là tắng, tức là bực tức, thấy mặt là không ưa rồi, cũng là nhân dẫn tới đời sau phải gặp lại nhau. Muốn không nằm trong cái vòng lẩn quẩn thương-ghét đó ở mai sau nữa thì chúng ta phải dứt lìa hai niệm thương-ghét đó. Do không tỉnh giác hoặc thói quen tập khí quá sâu dày, nên chúng ta cứ ôm ấp những nhân đau khổ, vì vậy đời này khổ và đời sau càng khổ hơn. Thế cho nên, Phật dạy chúng ta tu là phải ngăn ngừa từ nhân, chừa bỏ những niệm xấu-ác để đời sau có mặt trên thế gian không gặp phiền muộn, khổ đau nữa. Đó là ta biết tu và có niềm tin nơi chính mình. Người Phật tử chân chính phải tập làm chủ bản thân ngay nơi từng ý niệm của mình. Một niệm vừa khởi lên ta tìm cách chuyển hoá, bỏ hoặc không bám víu theo thì tự động nó sẽ lặng xuống cho đến khi nào tâm mình lắng trong, thanh tịnh, sáng suốt; được như vậy ta mới sống đời giác ngộ, giải thoát.
Đức Phật dạy: “Chiến thắng vạn quân không bằng thắng chính mình. Thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất”. Cho nên, làm chủ chính mình mới là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Người Phật tử chân chính phải cố gắng, nỗ lực, quyết tâm chuyển hóa từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành động, làm sao chuyển hóa nghiệp xấu-ác trở thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, rồi chúng ta sẽ từng bước chuyển từ một phàm phu trở thành một Thánh nhân. Đó là quyền của mỗi cá nhân, ai cũng có thể làm được và ta phải tin chắc như vậy. Gốc của sự tu hành chính là tin nơi khả năng giác ngộ của mình, tin nơi trí tuệ sẵn có của mình, Phật có thì ta cũng có, vì Phật là con người mà ta cũng là con người.