1. Thượng Sĩ đi giữa cuộc đời
2. Hình ảnhDuy Ma Cật và Bàng Long Uẩn trong con ngườiTuệ Trung Thượng Sĩ
3. Thượng SĩNgữ Lục
4. Hình ảnhvô nghĩa trước những Thiền Sư
I. THƯỢNG SĨ ĐI GIỮA CUỘC ĐỜI
Tuệ Trung Thượng Sĩ người có được một phong thái siêu việt độc đáo, sống
giữa cuộc đời trong sự tự dophóng khoáng không hề bị lệ thuộc. Ông bước vào trần gian sống như tất cả mọi người nhưng, với phong thái Thiền
Sư vượt ra ngoài những hệ lụy, không đắm chìm trong danh sắc, cởi tung những triền phược mà con ngườibình thường không thể lãnh hội và làm được.
Thượng Sĩ có tất cả, như tất cả những con ngườicư ngụ trên mặt đất đã có, nhưng Thượng Sỹ lại có cái “không” mà những người cư ngụ trên mặt đất không hề có. Cái không ấy là bản năngtuyệt luân vượt ra ngoài định kiến, phán đoánsuy luận, gò bó trong mọi định thước. Hành hoạt một cách
siêu dị không câu nệchấp trước, chỉ tìm thấy trong những con ngườiđạt
được sự chứng ngộgiải thoát ở nội tâm.
Tuệ Trung đi vào vuộc đời, sống với cuộc đời với con người để từ đó hoán
chuyển mọi tăm tối, hành động nầy là việc làm của những Bồ Tát mang đại
nguyện trùm kín cả vũ trụ, hy sinhthân mạng để xoa dịu những thống khổ
đang bao phủ trời tâm linh mà con người đang trực diện. Giá trị đó được
tiềm ẩn qua con ngườiThượng Sĩ, ông đã từng đem bản thân mình ngăn chận những cuộc xâm lăng của nhà Nguyên. Đã từng được phong tước Hưng Ninh Vương. Nhưng ông vứt tất cả còn lại phong cách Thiền Sư, đối diện với trần thế bằng tình thươngbao dung, không bị giới hạn. Trộn lẫn với cuộc đời hay không, vượt thoát hay đắm chìm trong tử sinh, bỏ tung tất cả hay gánh trọn trên đôi vai. Đối với những người giác ngộ, thực chứng thì hành động nào cũng đều ung dungthanh thoát giữa dòng đời trôi nổi. Với những kẻ siêu việt nầy, tất cả chỉ là ảo ảnh, phù vân một trò đùa được dựng nên từ hý trường, đâu đó bỗng chốc phiêu bồng như chính cái hiện hữuphi thực của nó. Những tăm tối trầm luân tạo đau khổ cho những ai trong cuộc. Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từ đó mà đi ra nên ung dungtự tại, vung tay là bóng tối liền tan, mở miệng là ngàn hoa phơi sắc, và nhắm mắt là tịch nhiên chiếu rọi.
Bóng dáng nào mà không bị đẩy lùi, hình ảnh nào mà không tan hủy. Nhưng,
con người và ảnh tượng của Tuệ Trung trở nên siêu thực, tồn tại trong hố thẳm ngàn hoa, nên mãi là biểu tượng cho những kẻ muốn đạt đến một thứ tự do siêu nghĩa, trong việc tìm ánh sáng chiếu rọi của thực chứng.
Sự tự do độc nhất mà Tuệ Trung có được, là vượt ra ngoài định mức tự do.
Ở đó còn duy nhất kẻ đứng chơ vơ giữa đất trời, không bóng dánghình tượng nào chung quanh, nếu có cũng chỉ là thể dụnghiển hiện của tâm thức vượt tung. Không bao giờ có thể đo lường ngăn ngại được tâm tư vĩ đại của Tuệ Trung, kẻ đã tự dorong chơi dạo khắp nẽo luân hồi, chưa một
lần chùng bước trước những thử thách.
Em gái Tuệ Trung là Hoàng Hậu Thiên Cẩm, một hôm thiết tiệc mời ông tham
dự, trong bàn tiệc có đầy đủ thịt cá, chay mặn. Gặp thịt cá ông cũng không từ tự nhiên gắp ăn, thấy thế Hoàng Hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được ?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải
thoát là giải thoát đó sao ?”
Con người Tuệ Trung không phải điển hình sựphóng khoáng nầy là đủ, trong ông còn nhiều sự tự do. Ông đã là con người tùy tục làm giống như cuộc đời, những gì kẻ khác có ông cũng có nhưng, có nầy là lẽ của tương đồng, của tỉnh thức, và thực ngộ.
Khi mê thấy không sắc
Khi ngộ hết sắc không Sắc không và mê ngộ Xưa nay một lẽ đồng
Chính vì chúng taràng buộc trong những tính toán, nên hầu hết tạo thêm những triền phược lấp kín lối vào giác ngộ. Nhìn sắc sanh ra đắm nhiễm, ngửi nghe khởi lên muôn ngàn vọng tưởng, nên trần laotrở thành ngôi mộ vĩ đại nhốt kín con người. Với Thiền Sưđi vàotử sinh như đi trên thảm hoa, uống nước ái dục như uống cam lồ vị, sống giữa cuộc đời như sống với thực ngộ. Thì cuộc đời không phải là những hổ tương cần thiết cho thực chứng ấy vươn lên tận mây ngàn hay sao?
Tuệ Trung mất trong vòng tay yêu thương của thê thiếp, trong giọt nước mắt bi ai của nữ tỳ, trong sự khóc thương buồn đau chồng chất ai oán để tiễn đưa người yêu thương đến nghìn thu vĩnh biệt. Ông đã ung dung ra đi
với phong cách người rũ sạch nợ trần, như chưa một lần cột được con người ấy. Ông nghe tiếng khóc mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, trách nhẹ vài lời “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao buồn thảm luyến tiếc chi làm náo chân tánh ta.”
Trong khi sống, Thượng Sĩ đã tự do, nhưng khi sắp chết ta mới thấy cái phi thườngtự do của người giải thoát. Nếu con ngườibình thường hẳn đã không đủ tâm thầnbình tĩnh trách nhẹ kẻ khác, làm quấy giấc ngủ ngàn thu của mình. Thần chết bất lực trước những bản thểthực chứng về hiện tượngtử sinh, nên đành chào thua để Tuệ Trung tự do đến đi trong cuộc đời. Điểm khởi mà ngài đến chỉ là nhịp cầu gạch nối giữa hiện thực và phi thực. Hiện thực nầy là nguyên lý của những gì vượt ra khỏi sự chi phốitác động về thời gian và hiện thực nầy là kết quả thực chứng nên sự
tàn hủy chỉ là môi năng cho những sinh khởi. Với kẻ có được ý thức về thực ngộ, đã trông thấy đâu là ngọn ngành nên không vì đó khởi lên những
sai biệt.
Phi thực có thể tạo những triền miên thống hận cho những ai chưa khám phá ra bộ mặt nghìn đời của nó. Vì đối đãi tương duyên với có không nên nó hiện hữu. Nhưng với người uống được ngụm nước đầu nguồn, đến đi không
vướng gót giày, tất cả chỉ là mây giăng trên lối, thong dong trên đỉnh đồi trơ trụi với tuyết sương.
Ý lực nào đã đưa đẩy Tuệ Trung dám bỏ lại sau lưng những biến động của trần thế? Ý lực nào đã tạo nên một Tuệ Trung trác việt, siêu dị? Có phải
đó là kết quả do những khám phá, truy tầm, đạp tung và khơi dậy cái linh năng, tri giác, vốn đã tiềm ẩn trong mỗi con người ?
Muốn quật tung và hiển nở bản thểlinh diệu nầy trước hết phải ngắm nhìn
thực trạng sanh diệt bằng con mắt trí huệ, quán chiếu đến tận cùng vật thể. Những thành trì suy luậnlừa đảo phải đập vỡ ngay, vận dụng mọi cơ năng quyết chống lại, đẩy tung phiền trược. Chỉ còn lại cái vắng không tròn đầy linh diệu mà Tuệ Trung đã đạt được. May ra ta mới trở thành như
ông. Hình thức mà ông đang có đó, một con người không hề cạo tóc làm Sư, nhưng với tâm linh ông cao vút lên tận mây ngàn, hình thức có thể là
lớp son phấn bao bọc bên ngoài. Không cần thiết, nhất là hành trình tìm
đến giải thoát. Sự phân biệt giữa một người xuất gia với tại gia theo nghĩa thông thường, thì đó là điểm tựa để tạo nên môi giới, nhưng tìm đến thực chứng của những Thiền Sư thì không có ranh giới hữu hạn, mà là mấu chốt quật khởi tâm linh. Đạt được điều này thì đâu cũng là giải đất bằng mầu mỡ, ranh giới nào mà không bị san bằngtiêu hủy.
Tuệ Trung đã từng vứt bỏ những phê phán thị phi, vì đó là quan niệm cố hữu nằm trong lăng kính, với những mầu sắc lôi kéo. Nên không thể cảm nhận sâu xa về con người đã đạt được chiều sâu thực chứng. Ông đã từng liệng nó vào hố thẳm trần gian. Vì thế những ai gần ông đều qui phục, cảm cách.
Vua Trần Nhân Tông viết về Thầy mình (Tuệ Trung) như sau: “Thượng Sĩ sống giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm, trong mọi cuộc tiếp xúc, thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó ngài có thể làm tiếp nốihạt giốngchánh phápdìu dắt được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với ngài cũng được ngài chỉ dẫnsơ lược cho thấy phần cương yếu của đạo pháp khiến tâm họ có thể nương tựa. Thượng Sĩ không bị ràng buộc
bởi hình thức khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh từ.
II. HÌNH ẢNHDUY MA CẬT VÀ BÀNG LONG UẨN TRONG CON NGƯỜITUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Duy Ma Cật và Tuệ Trung hai con người ở hai phương trời cách biệt, ở hai
thời đại và bối cảnh xã hội khác nhau. Nhưng đã gặp nhau ở điểm, đó là hạnh nguyện và phong thái của những con người trác dị siêu nhân.
Duy Ma Cật, một cư sĩ vĩ đại, đã từng khai thị cho những đại đệ tử của Phật. Vì muốn độ chúng sanh nên ông thị hiện làm vị trưởng giảgiàu có để nhiếp độ các hạng dân nghèo. Vì đại nguyện cao cả ông thị hiện kẻ bạch yhộ Phápđắc lực cho đức PhậtThích Ca, hạnh nguyện của những bậc Bồ Tát là trong đờingũ trược làm kẻ tiên phongđi vào nhiếp độ chúng sanhlầm than. Và phong thái ông một người có vợ congiàu sangtột bực nhưng, không vì thế mà vướng bận tâm của người giải thoát.
Tư tưởngDuy Ma Cật là loại tư tưởng siêu thể, không nằm ở định mức, một
khi tung ra là chấn động cả càn khôn, có thể lấy núi tu di nhét vào trong hột cải, có thể lấy nước bốn biển cho vào lỗ chơn lông mà không khuấy động loài thủy tộc. Duy Ma Cật đã từng trong nhà Như Lai đi ra, nên mọi hành hoạt đều hướng đến tịch nhiênan lạc, giàu có vương giả, thê thiếp vợ con, có kẻ hầu hạ nhưng tu hạnh thanh tịnh, ngoài hiện tướng phàm nhưng trong là tâm Phật, đi vào nơi cờ bạc rượu chè nhưng là hạnh nguyện của đại Bồ Tátcứu độ muôn loài.
Ông đã từng khai thị cho Xá Lợi Phấtđại đệ tử của Đức Phật khi đang ngồi tọa thiềndưới gốc cây. “Thưa ngài Xá Lợi phất ! Bất tất ngồi sững đó mới ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý mới là ngồi yên lặng, không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi mới là ngồi yên lặng, không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu mới là ngồi yên lặng, tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng, đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng, không đoạn phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chổ Phật ấn khả vậy.
Có như thế những đại đệ tử của Phật như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại
Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La v.v… Và ngay cả những bậc Bồ Tát cũng không dám đối diện. Không một ai dám đương đầu nổi với Duy Ma Cật, ông quật tung ngã nhào tất cả. Với ông không phải ngồi yên lặng dưới gốc cây mà có thể thành Phật, muốn thành Phật phải lăn xả vào cuộc đời, hành động trong ý tưởng vượt thoát mới có cơ may đạt được chặng đường nầy. Không chấp vào đâu, dù đó là những lời dạy của Đức Phật, phải có cái tâm thanh tịnh không nhơ cấu đón nhận các pháp. Y vào kinh điểngiải nghĩa thì oan cho ba đời
chư Phật, mà rời bỏ một chữ thì đi vàocon đườngma quỷ. Ở trong đó tha
hồrong chơi dạo khắp, đừng mang tâm chấp trước. Hễ còn chấp thì rơi vào cửa ngõ triền miên điên loạn, vượt tung ra khỏi màng lưới chằng chịt
ngữ ngôn, đạt ý quên lời thì con đường nào không thênh thang rộng mở, lối nào có thể cột được tâm tư kẻ không nhiễm bụi trần. Vào chỗ đông người như vào chỗ không có ai.
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) sau Duy Ma Cật đã mấy ngàn năm nhưng phong thái trác việt của Tuệ Trung đi vàocuộc đờitương tự như Duy Ma Cật, những gì phiến động, đạp đổ trong con ngườiDuy Ma Cật với Tuệ Trung cũng đều có. Chỉ có những con người vĩ đại mới bắt gặp nhau ở một cấp độ mà con ngườimê muội không thể tìm gặp. Cấp độ đó tựa như dòng sóng khủng khiếp cuốn phăng những trì trệ trong hành trìnhđạt được thức
giác ở tâm linh. Cuốn đi những cặn bã bao phủ cuộc đời.
Thiền Tổ Trúc LâmTrần Nhân Tôngca ngợiTuệ Trung Thượng Sĩ như sau:
Ngóng càng thêm cao
Khen càng thêm bền
Bỗng sau lưng đó Xem lại trước liền
Đó là Thượng Sĩ
Vậy mới là Thiền
Tất cả những gì tuyệt độc nhất trong ngữ ngôn cũng không thể xưng tụng được trọn vẹncon ngườiThượng Sĩ, trông lên thì vời vợi, quay đầu nhìn lại thì Thượng Sĩ đã ở sau lưng. Ông chưa một lần đến nên chẳng để lại dấu vết khi ra đi, nhưng những tương quan nhìn ngắm về ông, đâu đóbóng dángsiêu việt ấy in tự bao giờ, chỉ cần quay đầu không dong ruổi thì lúc nào ông cũng hiện diện. Thượng Sĩ là cây đuốc rực sáng trong thời đại vàng son của Thiền học đời nhà Trần, vì thế những người có cơ duyênmuôn thuở gặp được ông đều thấm nhuầngiáo pháp. Nhưng nếu không thường nghiệm nơi tâm thức chính mình thì không thấy được sự có mặt của Thượng Sĩ. Ông chỉ khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu, yếu tố để được dậy hay không tùy thuộc vào chính kẻ đó.
Một nhân vật khác nữa có những tương quan, những nét độc dị, và đã lưu lại hình ảnh cũng như âm vang cao vút ở bên Tàu. Đó là Thiền SưBàng Uẩn, được kể như một trong những cư sĩ thượng thặng có khuynh hướng lập dị, tùy tục nhưng phong thái trác việt. Ông sống gần gũi với mọi người để tùy bịnh cho thuốc. Lương dược nầy nếu uống đúng cách thì tử sinh không bao giờ đụng đến. Và nếu có thì đó là đại nguyện. Thượng Sĩ được kể như có những nét tương đồng với Bàng Long Uẩn.
Bàng Uẩn một cư sĩThiền Sư vĩ đại, đệ tử của Mã Tổ một hôm hỏi Mã Tổ “Ai là người chẳng cùng vạn pháp làm bạn lứa” Mã Tổ đáp: “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước Tây Giang ta sẽ trả lời cho ông”. Lối trả lời nầy khiến cho Bàng cư sĩ chới với trước những thuật ngữ có không. Và sau những tháng ngày mài dũa công ánMã Tổ đã trao. Một hôm, Bàng Uẩn bỗng chốc vỡ tung ra, đạt được “Tâm không” và trình kệ cho Mã Tổ.
Mười phương cùng tụ hội
Người người học vô vi
Đây là chỗ tuyển Phật Tâm không thi đậu về
Bàng cư sĩ chủ trương Tánh Không “Đừng sợ rơi vào không, rơi vào không chưa phải chuyện dữ. Chỉ mong coi tất cả những cái có đấy là không, chứ đừng lấy cái không chi làm thật, vì bản tính của chúng là không.”
Ông là một trong những cư sĩThiền Sư mà ảnh hưởng rất đậm trong giới Thiền. Ông vẫn cóvợ con, và cả gia đình của ông đều là những người chứng đắc, nên khi ông sắp qua đời, con của ông thi nhau tịch trong tự tạian nhiên trước ông. Quả thật những con người siêu dị có khác kẻ chưa
đạt được chút gì an nhiên trong cuộc đời.
III. THƯỢNG SĨNGỮ LỤC
Nếu những lời khai thị của Duy Ma Cật làm cho đại đệ tử của Phật run sợ không dám đối đầu, thì những lời pháp của Tuệ Trung cũng làm cho kẻ đối diện khiếp đảm không ít. Lối nói Pháp của Tuệ Trung gần như phủ định sự có mặt của ngôn ngữ, để hiển lộ nên biểu tượng cho một sự thể đang nấp kín đàng sau ngôn từ, dù rằng đó là hiện hữutrừu tượng để từ đó tìm ra cái tuyệt đối của ngôn từ theo nghĩa đạt ý quên lời.
Có một vị Tăng hỏi:
Thế nào là đạo ? Thượng Sĩ đáp:
Đạo không có trong câu hỏi
Câu hỏi không có trong đạo
Nếu y cứ vào luận lý học thì lối trả lời này thuộc loại siêu nghĩa, không ăn nhập gì đến nguyên tắc luận lý, nhưng chính điều đó mới tạo nên
cái lửng lơ cho người hỏi, không một điểm tựa để bám vào – hễ còn bám được thì lại rơi vào sở tri chứng, ngăn ngại trí tuệ phát sinh. Nên hầu hết các vị Thiền Sư không nằm ở điểm nào, chúng ta không thể căn cứ vào đâu để tra vấn. Và nếu có thì sự tra vấn ấy không giải quyết gì cho con đườnggiác ngộ. Nếu không tự mình tra vấn với chính ta. Không khéo điều nầy đưa ta rơi vào cửa ngõ của chấp trước. Cần nhất đừng trụ bám vào dù không hay có. Tuệ Trung đề cập đến “muôn vật trở về” như sau đây:
Từ không khởi có, có không thông
Có có không không, rốt cuộc đồng Phiền nãobồ đề nguyên chẳng khác Chân nhưvọng niệm thảy đều không
Thân như cảnh giả nghiệp như bóng
Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng
Chớ hỏi tử sinh ma với Phật
Sao chầu hướng bắc nước về đông
Phiền não và Bồ Đề là hai thể đối lập nhau theo quan niệmcon người. Vì chúng ta đắm chìm trong phiền não không nhận ra được chân tướng nó, nên mới có đối tượng Bồ Đề để ta y cứ vào đó vượt thoát. Thật ra nó đều hỗ tươngvới nhau, bởi lẽ cái này lập nên cái kia cũng lập, vì thế trong phiền não vốn có Bồ Đề, chỉ cần ta nhích mạnh tay then chốt nầy vỡ tung ngay.
Xưa có vị khách đến hỏi Thiền Sư. Thế nào là Phiền Não; Thế nào là Bồ Đề? Thiền Sư bèn quát lên một tiếng và chê trách anh ta. Thế là vị khách
nổi giận rút gươm ra định chém. Thiền Sư từ tốn bảo: Phiền não là thế đó. Anh ta bỏ gươm xuống, Thiền Sư nói tiếp Bồ Đề là thế đó.
Tuệ Trung không thừa nhận việc tìm đến Chân Như mà dứt đi vọng niệm. Hễ còn mong ý cầu Chân tức là vọng rồi. Sự mong cầu nào cũng trá hình của dục vọng dù đó là Chân hay không. Nếu chúng tadụng công đúng với như thịchánh pháp thì không cầu nó cũng tới đó là kết quả tất nhiên của việc hạ thủcông phu, cần gì phải cầu ?
“Cầu chân như mà dứt vọng niệm, tợ hét to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết Bàn, như sợ bóng chạy vào nắng trốn.” Nếu không có được tâm thứcsinh động, chúng ta sẽ mù mờ trước những ngữ ngôn của Tuệ Trung. Đâu đó chỉ thấy những đập vỡ, cách mạng để lập nên hiển lộ những bí ẩn núp sau những vỏ khô cứng, ru ngủ ta trong những lâu
đài thành quách phong tỏa bởi trần lao. Phải bung ra để được vỡ tungmột lần, đi vào bụi hồng thể nghiệm tâm năng thực ngộ, phải vào vòng cát
bụi với những ca khúctuyệt diệu. Nhýng phải là tâm thức của không ô nhiễm. Chỉ có yếu chỉ nầy ta mới ðủ bản nãng rong chõi mọi nẽo không ai có thể ngãn trở býớc ði, và chẳng có gì có thể để cho bụi hồng vướng được. Vào chỗ đông người tợ đi vào rừng sâu, không bóng dáng che kín được nhãn quan mình, khởi lên lòng từ bi yêu thương không bờ bến, nhưng không một ai có thể núp mình trong quả tim vĩ đại đó. Bước vào tựa như nghe được khúc ca không khuất trong vô cùng, đôi chân nhịp nhàng theo điệu múa chưa bao giờ được cất lên.
Diễn tả những trạng huống nầy Tuệ Trung cho chúng ta một quan niệm vượt thoát như sau:
“Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa
Vàng óng bờ mi chớp chớp đùa
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa
Nhà đông vui bước nhập thai lừa
Roi vàng đuổi mất trâu bùn chạy
Gậy sắc lôi về cọp đá thua
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn Xuân xưa”
Sự giác ngộ vốn không tách khỏi những triền phược mà có, trong đó nếu khơi dậy dòng ý thứcluân lưu không ô nhiễm thì tất cả những tương quan bỗng chốc bùng lên ánh sáng quét sạch bóng tối ngàn năm trong chốc lát. Chưa một ai có thể từ chối cuộc đời mà đạt đượcgiải thoát và cũng chưa có ai trốn chạy khổ đau mà đạt đượccon đường thoát khổ. Cần nhất du hí trong đó với tâm lựctùy duyên bất biến. Phải mài dũa tâm ý trong dòng đời dông tố nhưng, không bị ràng buộc bởi những tháo gỡ. Với cái tâm linh diệu. Trong bài “Vui thích giang hồ” Tuệ Trung đề cập:
“Giang hồ tâm ấy chửa từng lau
Ngày tháng như thoi như bóng câu
Gió mát trăng thanh luôn vẫn đó
Non xanh nước biếc thiếu gì đâu
Chiều nghiêng sáo thổi sương lồng khói
Sáng quấn bườm phăng sóng bạc đầu
Tăm bóng Tạ Tam nay vẫn bặt
Thuyền không bỏ đó gối cồn nâu.”
Điểm nổi bật khi Thượng Sĩ đề cập về Tâm. Ở đó ta thấy được sự bất nhị mà ông muốn nói đến:
Tâm tức Phật
Phật tức Tâm Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông
Xuân đến tự hoa xuân mỉm miệng
Thu về, đâu chẳng nước thu trong
Và một đoạn khác:
Bỏ vọng tâm
Giữ chân tánh
Khác nào tìm ảnh mà quên kính
Nào hay ảnh vốn tự gương ra
Chẳng biết vọng do từ chân hiện
Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư
Gương nhận không tà cũng không chánh
Tâm con người vốn không chân cũng không vọng. Vì do những chấp trướcsai
biệt nên có chân, vọng. Hầu như trong chúng ta đều ghét vọng tìm chân. Có thể cái chân ta muốn tìm đến sẽ trở nên ngăn ngại chính ta, bởi lẽ vọng chân tuy hai là một, nương với nhau mà có, ngay trong vọng vốn đã có chân, chỉ cần vén bộ mặt nghìn đời của nó lên thì chân xuất hiện. Không cần phải tìm cầu đâu xa. Nó ở ngay trong cuộc đời và trong ta. Cũng như tấm gương chỉ in hình bóng dù là tà hay chánh, ô uế hay sạch. Có được như thế thì sự nghiệpgiác ngộ hẳn nhiên hiển lộ.
Vọng tưởng và ảo ảnh đã lừa dối tri thứccon người một cách phi lý, tạo cho cảm quan rơi vào trạng tháimặc nhiên để nó chi phối sai sử. Giống như khi ta nghe kẻ khác nói về một hiện tượng có vẻ quái lạ, thì ảo tưởng sẽ khiến cho ta duyên theo đó gắn thật nhiều những suy tưởng tô điểm thêm cho hiện tượng đó. Trước hết ta bị lôi cuốn bởi ý thức của kẻ khác. Và chính ý thức kẻ cung cấp cho ta dữ kiện đã là không thực, ta lại gắn thêm cái không thực nữa, thì làm sao Chân tánh của mình xuất hiện? Cần nhất từ đó chuyển hướng thì bóng tối liền tiêu, vén mở tâm linhtoàn giác.
IV. HÌNH THỨCVÔ NGHĨA TRƯỚC NHỮNG THIỀN SƯ
Thiền vốn quăng đi những hình tướngcâu nệtrói buộc ngăn ngại tâm linhgiác ngộ, với Thiền cần nhất khai quật nội tâm. Tất cả những hình tướng đều bị vỡ tung, vì tự nó vốn đã không thực. Đó chỉ là cái vỏ rỗng tuếch,
ngược lại nó là điểm quan trọng, hầu hết con ngườicăn cứ vào để phán xét và gắn những nhãn hiệu lố bịch một cách phi lý. Dù rằng trong tâm của họ mê mờ lừa đảo, nhưng ngược lại có bóng dáng “dễ coi” thì được kể như tốt rồi.
Với Thiền điều này hoàn toànvô nghĩa không thiết thực. Phải phơi bày nội tâm để hạt giốnggiác ngộ có cơ may bùng trỗi dậy, tuyệt đối không sơn phết cái vỏ bên ngoài. Vì thế có những Thiền Sư vượt ra khỏi cuộc đời với phong thái lạ lùng quái đản, quần áo tóc tai không màng trau chuốt, nhưng mở miệng là chứa đựng một nội tâmsiêu việt, coi thườngsống chết, có những vị dị hình kỳ tướng, nhưng là bậc kỳ tài trong thiên
hạ. Không cần phải cạo đầu mới gọi là tu, nếu không cạo sạch phiền não trong tâm.
Trong lịch sử Thiền những người như Thượng Sỹ đã chiếm một vị trí quan trọng. Miễn sao nội tâm cao vút lên tận trời cao là được. Trước Tuệ Trung có những Thiền Sưcư sĩ như Ứng Thuận thầy của Thiền Sư Tiêu Diêu,
thiền sư Giới Minh, thiền sư Giới Viên, và quốc sưNhất Tông. Trước đó có Thiền SưThần Nghi và Thiền Sư Thần Chiếu. Không một ai trong chúng ta có thể phủ nhận công nghiệptâm linh vĩ đại của những vị này.
Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng lúc được trao truyền y pháp vẫn còn là một cư sĩ, nhưng đã thống lãnh Đông Sơn pháp môn và cho đến bây giờ dòng suối vi diệu ở Tào Khê vẫn chảy mãi xuống cuộc đời. Đối với những con ngườisiêu việt nầy ngữ ngônthị phi như lời pháp, như chiếc dép cũ mòn cần quăng ngay vào bụi. Đứng đi trong cuộc đời như đi vào chỗ không có người, bởi lẽ dòng tâm của những vị đã ở trên cao điểm ngút ngàn thì sá gì vọng động của trần gian. Nếu không phải ngôn ngữ bế tắc trước những hành hoạt phi thường mà đối tượng khủng khiếp là những Thiền Sư hay sao?
Lúc nào các vị cũng cười lên những tiếng chấn động màng nhĩ, từ trên chót vót hùng vĩ những ngọn núi cô độc chơ vơ vọng xuống cuộc đời, tiếng
cười đinh tai nhức óc, xé cả hư khônglồng lộng, tạo nên mây mờ sấm sét
trút những trận mưa rào xuống tưới mát triền phược mà ta đang lặn hụp.
Tất cả hình tướng đều phải đổ ào trước khi đối diện với Thiền, có như thế những Thiền Sư mới đốt rụi cháy tan những gì mà con người ra sức tô son điểm phấn. Nếu không, điều này chỉ ngăn ngại chứ không giúp được gì trong việc hướng đến tỉnh ngộ. Nếu chúng ta không vượt ra khỏi hình thức
đã kèm giữ ta một cách phi lý, thì mộng trần gian mãi là bến bờ không thuyền đưa ta sang sông.
Đời nhà Trần đã tạo nên những Thiền Sư trác việt, hầu hết các vị là vua quan, nhưng công danh phú quý không vướng bận lòng. Nhờ thấm nhuần được chánh pháp nên thời đại nhà Trần một trong những thời vàng son nhất của Dân Tộc. Những đóng góp của các Thiền Sưtác động mãnh liệt trong mọi khía cạnh văn hóa, chính trị, xã hội – dựng nên thời vẻ vang cho dân tộc. Đến bây giờ mỗi khi đề cập đến thời kỳ này, ta có cảm nhận sự huy hoàng, thịnh vượng vẫn hãy còn phảng phất đâu đây.
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đi vào cõi vô cùng, nhưng ngữ lục của ngài vẫn còn chấn động mãnh liệt trong tâm thức mỗi người. Ngữ lụctrở thành bửu bối cho những ai muốn tìm về uyên nguyên giác ngộ. Để kết thúc bài nầy với những lời kính cẩn của Thiền Tổ Trúc LâmPháp Loa, tán dươngTuệ Trung Thượng Sĩ.
A !
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh
Ối !
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giảsơ phát tâmtu trìpháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng cônghành trìpháp môn niệm Phật.
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rốidựa trênviệc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng tathực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
Đạo Phậtxuất hiện ở thế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
Thực tậpthiền định và chánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
Trong quá trình nghiên cứukinh Đại thừa nói chung và pháp mônTịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức PhậtA Di Đà.
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hậncha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tửxa gần.
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dươngrực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngãcuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạngcăng thẳngtâm thần, các xúc cảm tiêu cực và cải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác độngtích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức PhậtA Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyệncứu độchúng sanh
Sống trong thời đạivăn minh, con ngườicần phảihọc hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấntu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thànhdưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựngcộng đồng nhơn loại...
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
Tinh thầntu chứng, cũng như phụng sựtha nhânxây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem nhưchính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phươngchúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
Đại LễPhật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.