Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 16

12 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 10321)
Quyển 16


THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

(CHƯ KINH YẾU TẬP)

No. 2123

thien_ac_nghiep_bao_0


QUYỂN 16

XXIV. DỐI TRÁ

Gồm sáu phần: Lời dẫn, Giả làm thân gần, Dùng độc mưu hại, Giả làm phú quý, Giả làm can đảm, Loài vật dối trá.

XXIV.1. Lời dẫn

Đạo lớn không ngăn cách, quý ở lời ngay. Cho nên, nói lời thiện thì xa nghìn dặm còn có người hưởng ứng, buông lời bất thiện thì gần trong gang tấc cũng chẳng ai nghe. Đời mạt pháp, người và pháp đều trở thành gian dối, hoặc dựa vào điều phải mà làm thành quấy, hoặc tô điều giả để biến thành thật. Do lòng người có chính tà, nên pháp có giả thật, vướng vào danh lợi thì nhơn ngã càng lớn. Người thân trước mắt còn không nương tựa được, huống là kẻ xưa nay xa lạ, vì thế mà khó kết bạn. Cho nên trong kinh có dạy: “Trực tâm là đạo tràng”, quả đúng như vậy!

XXIV.2. Giả làm thân gần

Kinh Tạp bảo tạng[43] ghi: “Tất cả sự gian trá, giả dối, mê hoặc, nhìn bề ngoài giống như ngay thẳng, nhưng bên trong lại ẩn chứa những điều bất chính. Thế nên, người trí phải phân rõ chân, ngụy.

Thuở xưa, có ông bà-la-môn tuổi đã già, nhưng lại cưới được vợ trẻ. Vì chê chồng già, nên người vợ nài nỉ chồng mở tiệc mời các bà-la-môn trẻ tuổi cường tráng đến dự. Nghi vợ có tà ý, nên người chồng không bằng lòng.

Ngày kia, đứa con trai riêng của ông chẳng may sẩy chân té vào đống lửa, người vợ trẻ nhìn thấy, nhưng [148b] không kéo ra, người chồng tức giận quát:

- Tại sao thấy con té mà không chịu kéo ra?

Người vợ liền đáp:

- Từ nhỏ tới giờ, tôi chỉ gần gũi với chồng, chứ chưa bao giờ qua lại với người đàn ông nào khác, thế thì tôi đâu thể kéo đứa con trai này?

Nghe vậy, người chồng già tin là thật, bèn mở tiệc lớn, mời các bà-la-môn trai trẻ đến dự. Bấy giờ, ông ta chứng kiến cảnh vợ mình tư tình với họ, nên rất giận dữ, liền lấy hết báu vật, bỏ vợ ra đi. Trên đường, ông gặp một người bà-la-môn và kết bạn. Đến tối, hai người ngủ chung, sáng lại lên đường. Bà-la-môn kia nói:

- Chỗ ngủ hôm qua có một lá cây dính vào áo của tôi. Từ nhỏ tới giờ, tôi chưa hề lấy một vật gì của ai, tôi muốn trả lại cho chủ nhân của nó. Ông hãy đợi ở đây, tôi trả xong sẽ trở lại.

Nghe lời này, bà-la-môn già càng tin tưởng và thương kính bội phần, nên bằng lòng đứng đợi. Người bà-la-môn kia dối đem lá cây vào trong khe rồi nằm chơi, một lát sau trở lại nói là đã trả xong. Khi đó, bà-la-môn già mắc tiểu, nên đem báu vật gởi cho bà-la-môn kia. Thời cơ đã đến, người kia ôm lấy của báu trốn đi. Biết người trộm lấy vật báu của mình, bà-la-môn già rất tức giận và tiếc nuối.

Sau đó lại lên đường, ông ta dừng nghỉ dưới một gốc cây. Nhìn thấy con chim sếu, miệng ngậm cọng cỏ, nói với các chim khác:

- Chúng ta thương yêu lẫn nhau, nên cùng tập hợp ở một nơi!

Bấy giờ, các loài chim khác đều tin thật, nên bay đến tụ tập. Đợi sau khi các loài chim rời khỏi tổ, sếu liền bay đến mổ trứng chim ăn. Khi thấy các chim kia về, thì nó lại ngậm cỏ. Biết được sếu gian, nên tất cả đều bỏ đi. Rồi cũng tại gốc cây ấy, ông lại thấy một người xuất gia ngoại đạo, thân mặc áo vá, bước đi chậm rãi, miệng nói:

- Chúng sinh, tránh ra!

Thấy thế, bà-la-môn già hỏi:

- Tại sao ông vừa đi vừa nói ‘tránh ra’?

Ngoại đạo đáp:

- Là người xuất gia, tôi thương xót tất cả. Sở dĩ nói vậy, là vì tôi sợ làm tổn thương trùng kiến.

Nghe thế, bà-la-môn già tin là thật, nên đến chiều tối tìm tới nhà ông ta. Đến nơi chỉ nghe tiếng ca múa và thấy một phụ nữ bước ra từ căn hầm trong phòng đến giao hoan với ngoại đạo xuất gia, trong tiếng đàn hát, đùa giỡn. Thấy vậy, bà-la-môn già suy nghĩ: ‘Muôn vật trong thiên hạ đều không đáng tin’, và nói kệ:

Chẳng chạm đàn ông khác

Đem cỏ trả lại chủ

Chim sếu giả ngậm cỏ

Ngoại đạo sợ hại trùng

Miệng luôn nói tránh ra

Dối trá như thế đấy

[148c] Đều không đáng tin cậy

Đời sau khổ khôn lường”.

Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật dạy: Như bài kệ ngày xưa Ta từng nói:

Tất cả dòng sông,

Đều có khúc quanh,

Tất cả rừng cây,

Đều có gỗ quí.

Tất cả người nữ,

Đều có gian dối,

Tất cả không vướng.

Liền được an vui.

XXIV.3. Dùng độc mưu hại

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Đề-bà-đạt-đa dùng đủ mọi cách để sát hại Phật, nhưng không được. Gặp lúc một bà-la-môn người Nam Thiên Trúc rất giỏi chú thuật, pha chế thuốc độc đến, Đề-bà-đạt-đa liền nhờ ông ta pha chế, rồi tự tay mình rải lên Đức Phật, nhưng bị gió thổi ngược rơi trở lại trên đầu, nên bất tỉnh, ngã lăn ra đất sắp chết, không phương cứu chữa.

A-nan bạch Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Đề-bà-đạt-đa trúng độc sắp chết!

thương xót, Đức Phật nói thật với A-nan:

- Từ lúc hành đạo Bồ-tát cho đến khi thành Phật, ta thường thương xót Đề-bà-đạt-đa, không hề oán ghét. Nếu đúng như vậy, thuốc độc sẽ tự tiêu.

Vừa dứt lời, thuốc độc liền được giải. Thấy vậy, các thầy tì-kheo thưa:

- Hi hữu thay! Bạch Đức Thế Tôn! Đề-bà-đạt-đa luôn khởi lòng ác đối với Như Lai, vậy mà tại sao Như Lai còn cứu sống?

Đức Phật nói:

- Không chỉ ngày nay Đề-bà-đạt-đa có ác tâm với Ta, mà quá khứ cũng vậy.

Các thầy tì-kheo lại hỏi:

- Bạch Đức Thế tôn! Ngày xưa, Đề-bà-đạt-đa có ác tâm với Ngài như thế nào?

Đức Phật kể: ‘Vào đời quá khứ, trong thành Ba-la-nại, nước Ca-thi có hai vị tể tướng: một vị tên là Tư-na, vị kia tên là Ác Ý. Tư-na thường làm theo luật pháp, còn Ác Ý luôn làm việc ác, thích dèm pha. Một hôm, Ác Ý tâu với nhà vua:

- Tư-na muốn tạo phản.

Nhà vua liền cho người bắt nhốt Tư-na. Lúc ấy, các vị trời và thiện thần ở giữa hư không nói:

- Người hiền này quả thật không có tội, cớ sao lại bắt ông ta?

Lần thứ hai, Ác Ý cướp kho nhà vua, rồi đổ oan cho Tư-na, nên nhà vua không còn tin tưởng nữa, bèn ra lệnh bắt Ác Ý giao cho Tư-na định tội. Tư-na liền khuyên Ác Ý đến sám hối nhà vua. Biết mình có tội, Ác Ý liền trốn sang nước của vua Tì-đề-hê, làm một chiếc hộp báu đựng hai con rắn độc. Nếu người thấy rắn này thì sẽ bị khí độc làm hại. Thế nên Ác Ý nhờ vua Tì-đề-hê sai sứ giả đem hộp báu này dâng cho vua nước Ca-thi và Tư-na, và dặn: ‘Chỉ cho hai người này xem, không cho người khác thấy’. Nhìn chiếc hộp báu trang sức quá đẹp, vua rất vui mừng, liền sai Tư-na mở hộp ra xem. Tư-na thưa:

- Vật từ xa đem đến thì không nên tự mở xem, [149a] thực phẩm từ xa đem lại cũng không nên ăn vội. Vì sao? Vì nước kia có kẻ ác, có thể dùng vật độc để hại chúng ta.

Vua nói:

- Nhưng trẫm quyết muốn xem!

Tư-na ân cần can gián đến ba lần, nhưng nhà vua vẫn một mực đòi xem. Thấy vậy, Tư-na nói:

- Tâu đại vương! Nếu không tin lời hạ thần, thì đại vương tự mở xem, hạ thần không dám!

Vừa mở hộp ra, nhà vua bị chất độc làm mù hai mắt. Tư-na vô cùng đau buồn, xót thương, liền cho người đi khắp bốn phương tìm thuốc hay về chữa trị cho vua. Vua được bình phục như cũ.

Nhà vua bấy giờ là Xá-lợi-phất, Tư-na chính là Ta, còn Ác Ý là Đề-bà-đạt-đa vậy”.

XXIV.4. Giả làm phú quý

Luật Tăng-kì[44] ghi: “Phật bảo các tì-kheo:

- Vào thời quá khứ tại thành Ba-la-nại, nước Ca-thi, có bà-la-môn học rộng tên Phất-lô-hê, là thầy của vua, có năm trăm học trò. Bấy giờ, bà-la-môn nuôi một nô bộc tên là Ca-la-ha, có nhiệm vụ cung cấp đồ dùng cho các đồng tử. Nô bộc này căn tính lanh lợi, nghe nhớ tất cả các lời dạy.

Một hôm, nô bộc xích mích với các đồng tử, liền đến nước khác, giả xưng là con của bà-la-môn Phất-lô-hê nước Ba-la-nại[45], tên là Da-nhã-đạt-đa. Nô bộc đến nói với quốc sư nước này:

- Tôi là con của bà-la-môn Phất-lô-hê, quốc sư nước Ba-la-nại, cố ý đến đây học pháp bà-la-môn.

Quốc sư bảo:

- Được!

Nô bộc này thông minh, vốn đã từng nghe, hôm nay nghe lại, nên ghi nhớ tất cả. Quốc sư này rất vui mừng, liền bảo dạy cho năm trăm học trò của ông. Ông nói:

- Ngươi hãy dạy thay ta, ta phải lo việc triều chính.

Vị quốc sư này không có con trai, chỉ có một người con gái, nên bảo nô bộc:

- Này Da-nhã-đạt-đa! Nếu ngươi nghe lời, đừng trở về nước, ta sẽ gả con gái ta cho ngươi.

Thưa:

- Con xin vâng lời.

Thế rồi, họ cùng ở chung một nhà, cuộc sống rất đầy đủ, sung sướng. Là người khó tính, mỗi khi người vợ làm thức ăn, Da-nhã-đạt-đa thường chê sống chín, không vừa miệng. Người vợ suy nghĩ: ‘Nếu có người từ nước Ba-la-nại đến, ta sẽ hỏi họ cách thức ăn uống của nước ấy để cung phụng cho chồng’.

Bấy giờ, bà-la-môn Phất-lô-hê của nước kia nghe việc này liền nghĩ: ‘Nô bộc Ca-la-ha của ta trốn sang nước ấy, ta nên đến đó để gặp’. Bà-la-môn liền sang nước ấy. Khi đó, nô bộc đang dạo chơi trong vườn với các học trò. Từ xa nhìn thấy người chủ cũ, nô bộc sợ hãi, nói nhỏ với các học trò:

- Các con hãy trở về, [149b] mỗi người tự học thuộc.

Sau khi học trò đi về, nô bộc đến trước người chủ cũ, lễ bái và thưa:

- Con đến nước này, nói đại gia[46] là cha của con, rồi theo vị quốc sư ở đây học thông các kinh điển. Quốc sư gả con gái cho con. Hôm nay, mong ngài đừng kể việc của con, con sẽ làm đúng bổn phận nô bộc, hầu hạ đại gia.

Bà-la-môn chủ là người hiểu rành việc đời, liền bảo:

- Ngươi thật là con ta, hãy mau đứng dậy!

Nô bộc liền về nhà vợ, nói với mọi người trong nhà:

- Cha tôi đã đến.

Nghe chồng nói vậy, người vợ vui mừng, làm các thức ăn uống. Dọn thức ăn xong, người vợ thừa lúc rảnh rỗi, âm thầm lễ bái bà-la-môn và thưa:

- Con hầu hạ chồng, nấu nướng thường không vừa ý. Mong cha dạy con biết, khi còn ở nhà, anh ấy thường ăn những gì để con làm thức ăn uống như thế.

Bà-la-môn khách liền nổi giậnsuy nghĩ: ‘Như thế thật là khốn khổ cho con gái người ta’, rồi bảo:

- Con hãy mau đứng dậy. Trước khi trở về, ta sẽ dạy con một bài kệ để chồng con không còn nói nữa.

Nghe vậy, người vợ vui mừng, từ biệt lui ra, rồi về nói với chồng:

- Cha của chàng từ xa cố ý đến đây, phải trở về sớm.

Người chồng suy nghĩ: ‘Như lời vợ nói, nên để ông ta về sớm, chớ cho ở đây lâu, e rằng nói năng sơ hở, tiết lộ làm tổn hại lớn cho ta’. Người chồng liền đưa nhiều tiền, bảo vợ làm thức ăn, rồi hầu hạ bà-la-môn. Người chồng là tào chủ[47], bận họp bạn bè, nên không có ở nhà. Dâng thức ăn xong, người vợ lạy chào từ biệt, xin cha nói kệ.

Thế là, bà-la-môn liền nói:

Không cha, đến xứ khác,

Dối trá gạt mọi người,

Thường ăn các thứ dở,

Sao lại chê món ngon?

- Nay ta cho con bài kệ này. Mỗi khi chồng con nổi giận, chê thức ăn dở, con đứng một bên, quay lưng lại, đọc nhỏ bài kệ đủ để cho chồng con nghe.

Chỉ dạy xong, bà-la-môn trở về nước. Nô bộc ra tiễn chủ về. Sau đó, mỗi khi đến giờ ăn, chồng lại nổi sân. Người vợ đứng bên cạnh, đọc thử bài kệ. Người chồng nghe bài kệ này, trong lòng không vui, thầm nghĩ: ‘Ôi! Lão già này đã nói điều xấu của ta ra rồi!’

Kể từ ngày đó, người chồng thường nói nhẹ nhàng, mong vợ đừng giận, sợ vợ sẽ nói với người khác những điều bí mật của mình.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Bà-la-môn Phất-lô-hê, người chủ cũ nay chính là Ta, nô bộc Ca-la-ha thuở ấy nay là tì-kheo Xiển-đà. Xiển-đà trước đây đã từng cậy thế lực của Ta dối gạt người khác, nay cũng lại như thế”.

XXIV.5. Giả can đảm

[149c] Luận Đại tđ ghi: “Tất cả các pháp đều không thật. Vì ngu si nên chúng sinh không nhận ra người quen kẻ lạ, đến nỗi giận mắng, sát hại, gây nhiều tội nặng, nên đọa vào ba đường ác[48], chịu khổ vô lượng.

Như tại căn phòng của một ngôi chùa trong núi, ma thường đến quấy phá, khiến tăng chúng không dám ở. Bấy giờ, một vị khách tăng đến xin ngủ nhờ, thầy duy-na[49] xếp cho ở ngay căn phòng trống này và nói:

- Căn phòng này có ma quỷ ưa hại người, thầy ở được thì ở.

Tự cho mình là người trì giới, đa văn, vị khách tăng tuyên bố:

- Tiểu quỷ này thì có thể làm được gì? Ta sẽ thu phục nó.

Nói xong, vị khách tăng liền vào phòng. Chiều tối, có thêm một vị khách tăng đến chùa xin ngủ, thầy Duy-na cũng lại đưa vị này đến căn phòng kia và cho biết là có ma thường đến hại người. Vị khách tăng này cũng nói:

- Tiểu quỷ này thì có thể làm được gì? Ta sẽ thu phục nó.

Vị tăng đến trước vào phòng, đóng cửa, ngồi yên chờ ma. Đêm tối, vị tăng đến sau gõ cửa xin vào. Vị tăng trước cho là ma nên không mở cửa, vị tăng sau dùng toàn lực phá cửa. Vị ở trong cố sức chống lại, vị ở ngoài mạnh hơn nên xô được cửa xông vào. Thế là đánh nhau đến sáng, hai vị này mới nhận ra là bạn học cũ, cả hai đều hổ thẹn, xin lỗi nhau. Mọi người tụ tập cười chê”.

Chúng sinh cũng như thế, năm ấm không thật, không nhân không ngã, do chấp tướng mà sinh ra tranh đấu, rồi tàn hại lẫn nhau. Nếu mang ra mổ xẻ thì cũng chỉ có xương, thịt mà thôi, không nhân, không ngã. Thế nên, bồ-tát dạy chúng sinh: “Nơi nguồn gốc trống rỗng chớ đấu tranh, thân người còn không có, huống chi muốn gặp Phật”.

XXIV.6. Loài vật dối trá

Kinh Cựu tạp thí dụ[50] ghi: “Xưa, có một phụ nữ giàu có tư tình với một người nam khác, rồi gom hết vàng bạc của cải, cùng nhau bỏ trốn. Khi đến bờ sông, nước đang chảy xiết, người đàn ông nói:

- Cô đưa của cải đây, tôi qua sông trước, rồi quay lại đón cô.

Người đàn ông qua sông, nhưng không quay trở lại. Người phụ nữ ngồi một mình sầu khổ, không người cứu giúp, thì thấy một con chồn bắt được con chim nhạn. Thấy cá dưới sông, con chồn liền bỏ chim nhạn lao xuống nước bắt cá, đã không bắt được cá mà còn mất luôn chim nhạn. Người phụ nữ nói với chồn:

- Sao ngươi ngu quá, tham bắt hai con, nên chẳng được con nào.

Con chồn mắng lại:

- Tôi ngu còn ít hơn bà!

Luật Tăng-kì ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Vào thời quá khứ, có một năm nọ mưa trái mùa liên tục bảy ngày, [150a] các loài gia súc không được chăn thả. Lúc ấy, có con sói đói đi tìm thức ăn, lê la khắp bảy làng mà không tìm được, nên tự trách mình: ‘Sao ta bạc phận, đi giáp hết bảy làng mà không có gì ăn, chi bằng ở trong núi rừng này mà trì trai’. Nghĩ thế rồi, sói ở trong hang và phát nguyện: ‘Mong cho tất cả chúng sinh đều được an ổn’. Sau đó, sói giữ thân ngồi thẳng, nhắm mắt.

Đến ngày trai, Đế Thích[51] cưỡi voi trắng Y-la[52], đi xem xét những ai giữ giới, phá giới trong nhân gian. Khi đến hang núi kia, thấy sói nhắm mắt tư duy, Đế Thích suy nghĩ: ‘Ôi chao! Con sói này thật là kỳ lạ, loài người còn không có tâm này, huống gì là sói?’. Bấy giờ, muốn thử xem hư thật thế nào, Đế Thích liền biến làm một con dê đứng trước hang, lớn tiếng gọi đàn. Thấy dê, sói nghĩ: ‘Lạ thay! Phúc báo giữ trai giới đã ứng nghiệm. Mình đi khắp bảy làng tìm thức ăn không được, nay chỉ tạm giữ trai giớithức ăn ngon tự dâng tới miệng. Mình ăn xong rồi sau giữ trai giới cũng được’.

Nghĩ vậy, sói liền ra khỏi hang, đến chỗ của dê. Thấy sói đến gần, dê kinh hãi tháo chạy. Sói rượt đuổi theo, nhưng không bắt được. Chạy một đoạn xa, dê lại biến thành con chó, miệng rộng tai to, quay ngược lại sủa vang và đuổi sói. Thấy chó hung hãn, sói sợ hãi chạy. Chó đuổi theo, nhưng không kịp, sói mới thoát. Về tới hang, sói nghĩ: ‘Mình muốn ăn thịt nó, mà nó trở lại muốn ăn thịt mình’.

Bấy giờ, Đế Thích lại biến làm con dê què đứng trước mặt sói kêu gào. Sói liền suy nghĩ: ‘Hồi nãy là con chó, vì đói quá hoa mắt nên mình thấy là dê. Bây giờ, con này đây mới đúng là dê’. Nhìn kỹ từ tai, sừng cho đến lông thì quả thật là dê. Sói liền ra đuổi, dê lại hoảng chạy. Rượt đuổi đoạn xa, dê liền biến thành chó, quay ngược lại đuổi cắn sói. Cảnh tượng lại giống như trước. Đế Thích liền biến thành con dê non kêu đàn, gọi mẹ, đứng trước mặt sói. Sói tức giận nói:

- Ngươi có biến thành miếng thịt, ta cũng không thèm ra, huống là con dê non mà muốn lừa ta ư!

Sói trở lại giữ trai giới, tĩnh tâm, tư duy như trước. Khi ấy, Đế Thích biết tâm niệm sói giữ trai giới, nhưng vẫn biến làm dê non đứng trước mặt sói.

Lúc ấy, sói liền nói kệ:

Nếu đúng thật là dê,

Còn chẳng muốn bước ra,

Huống chỉ là giả dạng,

Dọa ta sợ như trước,

Thấy ta giữ trai giới,

Lại còn đến thử ta,

[150b] Cho dù là miếng thịt,

Ta cũng vẫn không tin,

Huống nữa là dê non,

dối trá gọi đàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu có người xuất gia,

Trì giới, tâm loạn động,

Không xả bỏ lợi dưỡng

Giống như sói trì trai”.

Luật Ngũ phần[53] ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Thuở xưa, có một ma-nạp[54] thường tụng kinh sách của Sát-đế-lợi[55] trong hang núi. Bên cạnh có một con chồn luôn nghe tụng kinh, nên cũng hiểu được nghĩa lý. Con chồn suy nghĩ: ‘Ta hiểu được lời của kinh này, xứng đáng làm vua trong các loài thú’. Suy nghĩ như vậy, chồn liền bắt đầu chuyến du hành. Gặp con chồn ốm yếu khác, nó bèn muốn giết. Con chồn ốm hỏi:

- Vì sao lại giết tôi?

- Ta là vua của loài thú, ngươi không phục ta thì phải chết.

- Xin đừng giết, tôi sẽ theo ông! Chồn ốm van xin.

Thế là hai con chồn cùng đi. Lại gặp một con chồn khác, nó toan muốn giết, hỏi đáp cũng như vậy, con chồn ấy tình nguyện xin theo. Cứ như vậy, chồn ta lần lượt thu phục hết tất cả loài chồn, rồi dẫn bầy chồn đi thu phục hết tất cả voi, lại dẫn đàn voi đi thu phục hết tất cả hổ, lại dẫn đàn hổ đi thu phục hết tất cả sư tử, cuối cùng được làm vua.

Khi làm vua rồi, nó suy nghĩ: ‘Nay ta làm vua trong các loài thú, chẳng lẽ lấy thú làm vợ’. Bấy giờ, nó cưỡi voi trắng dẫn vô số đàn thú bao vây quanh thành Ca-di đến mấy nghìn vòng. Nhà vua sai sứ hỏi:

- Tại sao đàn thú các ngươi làm như thế?

Chồn trả lời:

- Ta là vua loài thú, phải cưới con gái nhà vua. Nếu gả cho ta thì tốt, bằng không thì ta sẽ diệt nước của ngươi!

Sứ về tâu như vậy, nhà vua triệu tập quần thần cùng bàn. Chỉ có một vị đại thần không đồng ý, còn tất cả đều cho là nên gả. Vì sao? Hiện nay cả nước chỉ nhờ vào voi, ngựa để chiến đấu, nhưng chúng lại có sư tử. Voi, ngựa nghe tiếng sư tử ắt kinh hoàng té ngã, nếu đánh ắt bị loài thú ấy tiêu diệt. Tiếc gì một người con gái mà mất cả quốc gia.

Bấy giờ, một đại thần thông thái tâu vua:

- Từ xưa tới giờ, thần chưa từng nghe con gái của vua lại gả cho súc sinh. Tuy là ngu muội, nhưng thần sẽ giết được con chồn này, khiến cho các đàn thú bỏ chạy tan tác.

Nhà vua hỏi:

- Kế sách thế nào?

Đại thần đáp:

- Chỉ cần đại vương hẹn ngày chiến, trước đến gặp con chồn kia đưa yêu sách: ‘Xin cho sư tử đánh trước, rống sau’. Chúng cho rằng ta sợ, nên chắc chắn sẽ bảo sư tử rống trước, đánh sau. Đến ngày giao chiến, đại vương ban sắc lệnh cho người và gia súc trong thành đều [150c] bịt tai.

Nhà vua áp dụng phương kế này, ra lệnh cho sứ giả đưa chiến thư và yêu sách. Đến ngày giao chiến, vua lại sai đưa thư yêu cầu lần nữa rồi mới xuất quân. Lúc cánh quân tiên phong sắp giao chiến, con chồn quả nhiên cho sư tử rống trước. Chồn nghe tiếng rống vang trời của sư tử, tim vỡ thành bảy mảnh, từ lưng voi rơi xuống đất, cả đàn thú kia đồng loạt bỏ chạy. Từ câu chuyện này, Đức Phật nói kệ:

Chồn kia rất kiêu mạn,

Muốn tìm cầu vợ đẹp,

Liền đến thành Ca-di,

Tự xưng là vua thú,

Người kiêu mạn cũng thế,

Ưa thống lãnh đồ chúng,

Tại nước Ma-kiệt-đà[56],

Tự xưng là pháp chủ.

Vua Ca-di bấy giờ chính là Ta, còn vị đại thần thông minh là Xá-lợi-phất, con chồn kia chính là Điều-đạt.

Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Xưa kia, Điều-đạt đã dối làm quyến thuộc, ngày nay cũng như vậy.

Đức Phật nói kệ:

Cùng thiện dễ tụ hội,

Thiện, ác thật khó thân,

Cùng ác dễ tụ hội,

Ác, thiện cũng khó gần”.

Kinh Phật bản hạnh[57] ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:

- Ta nhớ thuở xưa có một dòng sông tên Ba-lợi-da-đa. Lúc ấy, bên bờ sông có một người làm nghề kết tràng hoa và là chủ của một khu vườn bên cạnh con sông. Một hôm, có con rùa từ sông nổi lên, đến vườn hoa tìm thức ăn. Rùa đi đến đâu thì cỏ hoa đều bị phá nát. Thấy rùa phá hoa, ông chủ bắt nhốt trong cái giỏ tre, định mang về làm thịt. Rùa suy nghĩ: ‘Làm sao thoát được nạn này, tìm cách nào để gạt ông chủ vườn?’. Nghĩ xong, rùa liền nói:

Tôi từ nước lên, thân lấm bùn,

Ông dẹp hoa đi, rửa thân tôi,

Thân này vấy bùn thật nhơ nhớp,

Sợ làm bẩn hết giỏ và hoa.

Bấy giờ, ông chủ vườn nghĩ: ‘Tốt quá! Con rùa này khéo chỉ bày cho ta. Nay ta nên nghe theo, tắm rửa cho nó để bùn không bẩn giỏ hoa’. Nghĩ vậy, ông ta đem con rùa xuống sông để rửa. Ông lấy rùa ra khỏi giỏ, đặt lên tảng đá, rồi múc nước định rửa. Lúc ấy, rùa ta dồn hết sức lao mình xuống nước. Thấy vậy, ông thợ kết tràng hoa nói:

[151a] - Lạ quá! Con rùa này có thể gạt ta như thế, nay ta phải gạt nó lên bờ. Ông liền nói kệ:

Rùa ngoan hãy lắng nghe lời ta,

Cùng ngươi quen biết đã lâu mà,

Ta kết vòng hoa tặng ngươi đó,

Về gặp người thân vui lắm a!

Nghe vậy, rùa suy nghĩ: ‘Ông thợ kết tràng hoa này nói dối để gạt ta. Mẹ của ông đang bệnh nằm liệt giường, vợ ông hái hoa về kết thành tràng đem bán để kiếm sống. Nay ông ta nói thế thì nhất định là muốn ăn thịt ta, nên dụ ta lên bờ’. Rùa bèn nói kệ:

Nhà ngươi nấu rượu họp người thân,

Làm nhiều món ăn đầy cả mâm,

Ngươi trở về nhà và hãy nói,

Đầu rùa nấu cháo, thịt mỡ hầm.

Đức Phật bảo các tì-kheo: Các ông nên biết, con rùa lúc đó chính là Ta, ông thợ kết tràng hoa là ma Ba-tuần. Ma Ba-tuần lúc ấy muốn dối Ta mà không được, nay lại muốn gạt nữa, làm sao được!

Lại nữa, Đức Phật bảo các tì-kheo: Ta nhớ xưa kia có con rồng lớn sống trong biển cả. Vợ nó đang mang thai, bỗng nhiên muốn ăn tim khỉ. Vì thế, thân nó gầy ốm, vàng vọt, đi đứng không vững. Thấy vợ như thế, rồng chồng hỏi:

- Này nàng! Lo lắng điều gì, hay muốn ăn gì? Sao ta không thấy nàng đòi ăn gì cả?

Rồng vợ im lặng, không trả lời. Rồng chồng lại hỏi:

- Sao hôm nay nàng chẳng nói gì?

Rồng vợ đáp:

- Nếu phu quân cho thiếp được như ý, thiếp mới chịu nói. Nếu không thì thiếp chẳng nói!

Rồng chồng đáp:

- Nàng cứ nói xem, nếu lo được, ta sẽ tìm mọi cách kiếm cho.

Rồng vợ liền nói:

- Nay thiếp muốn ăn tim khỉ. Chàng tìm được không?

Rồng chồng trả lời:

- Món nàng đòi hỏi thật là khó tìm. Bởi vì, chúng ta sống trong biển lớn, còn khỉ ở rừng xanh thì làm sao có được?

Rồng vợ nói:

- Vậy bây giờ phải làm sao? Nếu không tìm được tim khỉ, thì sẽ trụy thai, mạng sống của thiếp cũng chẳng còn bao lâu.

Nghe nói vậy, rồng chồng trả lời:

- Này nàng! Hãy ráng chờ đợi. Nay ta đi tìm. [151b] Nếu thành công, thì ta và nàng đều vui, không còn gì hơn.

Thế rồi, rồng chồng liền vào bờ. Cách bờ không xa, có một cây lớn tên là Ưu-đàm-bà-la. Trên cây ấy, có một con khỉ lớn đang hái quả ăn. Thấy vậy, rồng chồng từ từ tiến đến gốc cây, dùng lời ngon ngọt, hỏi thăm:

- Lành thay, lành thay! Này Bà-tư-sư-tra! Ngài đang làm gì trên cây thế? Có vất vả, cực nhọc chăng? Tìm thức ăn dễ được, không mệt nhọc lắm chứ?

Khỉ đáp lời:

- Đúng thế, nhân giả! Tôi nay không có gì khổ cực cả!

Rồng lại hỏi:

- Ở đây, anh ăn những thứ gì?

Khỉ trả lời:

- Tôi ăn quả Ưu-đàm-bà-la.

Rồng lại nói:

- Nay gặp anh, tôi rất vui, không nén được lòng, nên muốn kết bạn với anh. Chúng ta thương yêu lẫn nhau. Anh nhận lời tôi, thì không cần ở đây, bởi quả trên cây này không nhiều, đâu thể vui được? Anh nên xuống đây, đi theo tôi. Tôi sẽ đưa anh vượt biển, đến bờ kia có khu rừng lớn, đủ các loại cây, hoa quả sung túc.

Khỉ hỏi:

- Làm sao tôi qua được bờ kia? Biển sâu rộng, khó qua, làm sao có thể qua được?

Rồng trả lời:

- Tôi sẽ cõng anh đưa sang bờ kia. Chỉ cần anh xuống đây, leo lên lưng tôi.

Khi ấy, tâm còn do dự, nhưng bởi ngu si, nên khỉ vui mừng, liền nhảy xuống đất, leo lên lưng rồng. Khi ấy, rồng suy nghĩ: ‘Hay lắm, hay lắm! Điều ta mong muốn đã thành’. Rồng liền đưa khỉ đến chỗ ở của mình, cả hai cùng lặn xuống biển. Thấy lạ, khỉ hỏi rồng:

- Này anh bạn! Vì sao chúng ta lại lặn xuống nước?

Rồng trả lời:

- Vợ tôi mang thai, muốn ăn tim ông. Vì vậy, tôi đưa ông đến đây.

Nghe điều này, khỉ suy nghĩ: ‘Than ôi! Ta nay thật xui xẻo, tự chuốc họa vào thân. Giờ phải làm sao để vượt qua nguy ách, bảo toàn tính mạng?’. Khỉ lại nghĩ: ‘Vậy ta phải gạt rồng’. Suy nghĩ xong, khỉ nói với rồng:

- Này anh bạn tốt! Tim tôi để trên cây Ưu-đàm-bà-la, không mang theo. Sao hồi nãy [151c] anh không nói thật. Biết anh cần quả tim, tôi đã mang theo rồi. Giờ anh hãy đưa tôi trở về lấy tim, rồi sẽ quay trở lại.

Nghe nói vậy, rồng đưa khỉ trở về chỗ cũ. Thấy rồng sắp đến bờ, khỉ dùng hết sức, từ trên lưng rồng nhảy xuống, rồi phóng lên cây Ưu-đàm. Đứng đợi một hồi dưới gốc cây, thấy khỉ trì hoãn không xuống, rồng gọi:

- Này bạn thân! Anh mau xuống đây, cùng về nhà tôi!

Khỉ im lặng, không chịu xuống. Thấy khỉ đã lâu vẫn không xuống, rồng nói kệ:

Bạn khỉ thân ơi, lấy tim rồi!

Mau xuống lưng tôi, ta đi thôi.

Tôi đưa bạn đến khu rừng ấy,

Hoa trái dồi dào, ngọt lịm môi.  

Khi ấy, khỉ suy nghĩ: ‘Con rồng này thật ngu’, liền nói kệ:

Rồng ngươi mưu kế tuy khá sâu

Nhưng trí xem ra thật ngu đần

Ngươi hãy nghĩ suy cho thật kỹ

Hết thảy muôn loài, ai không tâm (tim)?

Rừng kia hoa trái nhiều thật đấy

Cho đến quả ngọt như Yêm-la

Nhưng ta chẳng muốn đi cùng nữa

Thà rằng ăn quả ưu-đàm-bà.

Phật bảo các tì-kheo:

- Con khỉ lớn thuở ấy chính là Ta, rồng là ma Ba-tuần. Ma Ba-tuần trước đây đã từng dối gạt Ta mà không được, nay lại muốn dùng năm dục thế gian để dụ dỗ, nhưng đâu thể lay động chỗ ngồi này của Ta?”

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Thuở xưa, quạ và cú rất ghét nhau. Quạ đợi ban ngày cú không nhìn thấy, đến tàn sát bầy cú. Cú thì lợi dụng ban đêm quạ không thấy, lại tấn công bầy quạ, mổ ruột, xé xác ăn. Như vậy, kẻ này sợ ngày, kẻ kia sợ đêm, kéo dài mãi như thế.

Bấy giờ, có một con quạ thông minh nói với bầy quạ:

- Chúng ta và loài cú đã kết thù hận, không mong gì hòa giải, rốt cuộc tàn hại lẫn nhau, cả hai đều diệt tận. Chúng ta nên tìm cách diệt hết bầy cú, sau đó chúng ta mới được yên thân. Nếu không, cuối cùng chúng ta cũng bị loài cú tiêu diệt.

Bầy quạ hỏi:

- Bằng cách nào để diệt kẻ thù?

Con quạ thông minh nói:

- Này các bạn! Hãy nhổ lông cánh và mổ vào đầu tôi, tôi sẽ lập kế để tiêu diệt bọn chúng.

Bầy quạ liền nghe lời, làm cho thân hình nó đầy thương tích. Sau đó, [152a] nó đến hang cú, kêu rên thảm thiết. Nghe tiếng quạ kêu, bầy cú hỏi:

- Vì sao hôm nay ngươi bị thương tích đầy mình, bay đến chỗ chúng tôi?

Quạ trả lời:

- Bầy quạ ghét tôi, không cho sống chung, nên tôi đến đây nương nhờ để tránh oán ghét.

Nghe quạ nói, bầy cú thương xót, nuôi dưỡng nó, thường cho thịt dư. Ngày tháng trôi qua, lông cánh bình phục. Quạ bèn lập kế, đem củi khô và cỏ vào trong hang cú, như để báo ơn. Cú hỏi quạ:

- Đem củi vào làm gì?

Quạ đáp:

- Ở trong hang toàn là đá lạnh, dùng cây cỏ này để chống gió lạnh.

Cú cho là phải, nên im lặng. Từ đó, quạ cứ tha vào hang, giả dạng báo ơn nuôi dưỡng. Bấy giờ, gặp lúc giá rét, tuyết phủ dày đặc, toàn bộ bầy cú nấp vào trong hang. Cơ hội thuận tiện đã đến, quạ rất vui mừng, ngậm đốm lửa của kẻ mục đồng đốt cháy hang. Bầy cú đồng loạt bị chết cháy trong hang. Khi ấy, chư thiên nói kệ:

Đã có hiềm khích trước

Chớ nên tin tưởng nhau

Như qụa dối thân thiện

Thiêu chết bầy cú kia”.

Lục độ tập kinh ghi: “Ngày xưa, lúc bồ-tát làm vua loài khổng tước[58], có năm trăm chim vợ, nhưng đều bỏ, lại lấy thanh tước[59] làm vợ. Thanh tước chỉ uống nước ngọt, ăn quả ngon. Vì thương vợ, hàng ngày khổng tước đi kiếm đem về.

Bấy giờ, hoàng hậu nước ấy bị bệnh, nằm mộng thấy thịt khổng tước có thể trị bệnh. Tỉnh dậy, hoàng hậu tâu vua. Vua sai thợ săn mau đi tìm bắt. Hoàng hậu nói:

- Ai bắt được khổng tước, ta sẽ gả con gái út và thưởng cho một nghìn cân vàng.

Các thợ săn trong nước chia nhau đi tìm, thấy khổng tước thường từ chỗ thanh tước bay đến lấy thức ăn, họ liền dùng mật trộn với gạo rang, bôi khắp thân cây. Khổng tước bèn lấy đem về cho vợ. Hôm sau, thợ săn lại bôi lên người, rồi ngồi đợi. Khổng tước đến lấy, thì liền bị bắt. Khổng tước nói với thợ săn:

- Ông chịu khó nhọc, ắt vì lợi lộc. Tôi chỉ cho ông núi vàng là của báu vô tận. Xin ông tha mạng cho tôi!

Thợ săn trả lời:

- Bắt được ngươi, nhà vua sẽ ban cho ta một nghìn cân vàng và gả con gái út, sao tin lời của ngươi được. Ta phải dâng ngươi cho vua thôi!

Trước mặt vua, khổng tước nói:

- Đại vươnglòng từ thấm nhuần tất cả, mong hãy nghe lời kẻ hèn này. Cho xin chút nước, tôi sẽ dùng lòng từ chú nguyện, rồi cho hoàng hậu uống, thì bệnh sẽ khỏi; nếu không hiệu nghiệm, chịu tội cũng chưa muộn.

Vua thuận theo. Hoàng hậu uống vào, bệnh tật đều lành, [152b] dung nhan diễm lệ, mọi người trong cung cũng như thế. Cả nước khen vua lòng từ rộng lớn, không giết khổng tước để trị bệnh cho mọi người. Khổng tước nói:

- Xin được ngâm mình vào hồ lớn và chú nguyện vào nước ấy để khắp cả muôn dân, ai có bệnh đều được trị lành. Nếu sợ dối gạt, thì hãy lấy gậy đánh vào chân tôi.

Vua nói:

- Được!

Khổng tước chú nguyện rồi, người dân uống nước đều được khỏe mạnh, điếc thì nghe được, kẻ mù nhìn thấy, câm thì nói được, chân què được thẳng, các bệnh đều hết. Hoàng hậu lành bệnh, người dân trong nước cũng hết bệnh. Bấy giờ, vua không có ý hại khổng tước. Biết rõ điều đó, khổng tước đến trình bày:

- Nhờ ơn vua tha mạng, tôi cứu sống mọi người cả nước; báo đáp xong, xin được lui về.

Vua nói:

- Được.

Khổng tước liền vỗ cánh bay thẳng lên cây, lại nói với vua:

- Trong thiên hạ có ba người ngu.

Vua hỏi:

- Là những người nào?

Khổng tước nói:

- Một là tôi, hai là thợ săn, ba là vua.

Vua nói:

- Ngươi hãy giải thích.

Khổng tước nói:

- Giới trọng của chư Phật cho sắc đẹp là lửa dữ, thiêu thân mất mạng đều là do ham muốn sắc đẹp. Tôi bỏ năm trăm chim vợ ngày đêm hầu hạ, vì thích thanh tước, tìm thức ăn cung cấp cho nó như kẻ đầy tớ, nên bị sa lưới, nguy hại đến thân mạng. Đó là tôi ngu. Thợ săn ngu là tôi thành thật muốn đổi mạng bằng cả núi vàng, mà kẻ kia lại bỏ của báu vô tận, tin lời hư dối của phu nhân, mong cưới công chúa làm vợ. Xét người đời cuồng ngu đều giống như vậy. Bỏ lời răn chân thành của Phật, mà tin lời dối trá của quỷ mị, vui trong rượu chè dâm loạn, hoặc chịu họa tan nhà nát cửa, hoặc chết đọa vào Thái Sơn[60], chịu khổ vô cùng, sau trở lại làm người, như chim không cánh, muốn bay lên trời, há chẳng khó sao? Phụ nữ mê hoặc ví như yêu quái, khiến cho mất nước hại thân, mà người ngu lại xem trọng. Muôn lời không một câu thành thật, mà thợ săn lại tin theo. Còn nhà vua được thuốc trời, chữa lành bệnh cho muôn dân, các độc đều hết, dung nhan như hoa, lớn nhỏ đều vui mừng, mà vua lại thả đi. Đây gọi là vua ngu.

Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Từ đó về sau, khổng tước vương đi khắp nơi, dùng thuốc thần và với lòng từ bố thí, chữa lành bệnh cho chúng sinh. Khổng tước vương thuở ấy chính là Ta, quốc vương là Xá-lợi-phất, thợ săn là Điều-đạt[61], hoàng hậu là vợ Điều-đạt.

Bồ-tát có lòng từtrí tuệ ba-la-mật đã thực hành bố thí như vậy”.

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Đức Phật bảo:

- Vào thời quá khứ, trong một ao sen kia có rất nhiều loài chim nước cư ngụ. Trong đó, cũng có một con chim sếu, nó bước đi một cách thảnh thơi. [152c] Các chim khác đều nói: ‘Chim này đi đứng an tường, không quấy nhiễu loài thủy tộc[62]’. Khi ấy, ngỗng trắng nói kệ:

Cất bước đi thong thả

Tiếng hót thật dịu êm

Lừa dối cả thế gian  

Ai chẳng biết xảo trá.  

Chim sếu đáp:

- Sao nói như vậy? Chúng ta kết bạn với nhau đi!

Ngỗng trắng trả lời:

- Tôi biết anh dối trá, quyết không kết bạn thân.

Đức Phật bảo:

- Tì-kheo nên biết, ngỗng trắng bấy giờ chính là Ta. Chim sếu thuở ấy nay là Đề-bà-đạt-đa”.

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Đức Phật dạy:

- Vào thời quá khứ, bên dãy Tuyết sơn[63] có một gà rừng chúa, mồng nó đỏ rực, toàn thân màu trắng, có đàn gà tùy tùng rất đông. Gà chúa nói với cả đàn:

- Các ngươi nên xa rời thành ấp, xóm làng, chớ để dân chúng bắt ăn thịt. Chúng ta bị nhiều kẻ oán ghét, phải cẩn thận tự bảo vệ.

Khi ấy, trong xóm có một con mèo, biết núi kia có gà. Nó liền đến, đi chậm rãi nơi gốc cây, mặt cúi xuống, nói với gà chúa:

- Tôi là vợ anh, anh là chồng tôi. Thân anh đoan chính, đáng yêu, đầu có mồng đỏ, thân thể toàn trắng. Tôi đến đây để cùng anh an hưởng vui thú.

Gà chúa liền nói kệ:

Mèo kia mắt vàng, loài ngu si  

Lòng muốn ăn thịt chẳng ngại chi

Chưa thấy cô vợ nào như thế

Mà chồng sống thọ chẳng hiểm nguy.  

Gà chúa bấy giờ chính là Ta, con mèo thuở ấy là Đề-bà-đạt-đa. Ngày xưa, Đề-bà-đạt-đa đã từng dụ gạt Ta, nay cũng lại như thế để chia rẽ đồ chúng của Ta”.

Bài kệ tổng kết:

Lòng gian trá, ngu si  

Khiến người tin, không nghi

Giả hiện làm thân thiện  

Vờ nhận nương tựa nhau.

Ngoài thân, trong ngầm hại

Sớm tối giết lẫn nhau

Nếu ở chung lâu ngày

Mới biết rõ mối nguy.  

XXV. LƯỜI BIẾNG VÀ KIÊU MẠN 

Gồm ba phần: Lời dẫn, Dẫn chứng, Lập chí.

XXV.1. Lời dẫn

Hành giả sở dĩ không đạt đạo là do tâm trí lười biếng, ngu muội. Tâm trí [153a] lười biếng, ngu muội phần nhiều là do bị ngoại duyên quấy nhiễu. Sự quấy nhiễu này do ba nguyên nhân: danh lợi lôi cuốn, sắc đẹp quyến rũ và ham đắm vị ngon.

Danh lợi tuy gặp phải hàng ngày, nhưng dần dần mới chất chứa nơi tâm. Sắc đẹp yêu kiều vừa chạm đến thì lòng đã sâu nặng. Vị ngon càng đậm thì ràng buộc càng chặt. Tất cả những việc khác đều là cành lá của ba điều này thôi.

Bậc thánh biết rõ: “Nếu không đoạn trừ ba điều này, thì không thể chứng đắc đạo quả”. Như đặc tính của nước, khi hội tụ, thì sức rất mạnh; khi phân tán, thì thế yếu kém. Đặc tính của lửa cũng như vậy. Nên luận nói: “Chất càng nhẹ thì thế càng mạnh, chất càng nặng thì thế càng yếu”. Từ đó suy xét, thật nhờ sự chuyên cầnngộ đạo. Người lười biếng, kiêu mạn do tham đắm thanh sắc sẽ làm chướng ngại quả Thánh. Vì vậy, Thế Tôn gióng trống pháp ở vườn Nai, Khổng Tử[64] truyền lẽ đạo nơi nước Lỗ, có tai mắt còn chẳng thể thấy nghe, thì tâm thức đâu thể khế ngộ.

XXV.2. Dẫn chứng

Luận Tát-bà-đa ghi: “Giới (Ba-la-đề-mộc-xoa), nếu nói theo năm đường[65], chỉ có người đắc giới, còn bốn đường kia thì không. Trong đó, cõi trời vì đắm trước lạc thú sâu nặng, nên không thể đắc giới.

Ngày xưa, vì đệ tử bệnh, ngài Mục-kiền-liên[66] lên cung trời Đao-lợi để hỏi Kì-bà[67]. Gặp lúc chư thiên vào vườn Hoan Hỷ[68], ngài Mục-kiền-liên đứng đợi bên đường, tất cả chư thiên đều không nhìn, chỉ có Kỳ-bà đi sau, trông thấy ngài Mục-kiền-liên, đưa một tay chào, rồi cưỡi xe đi qua.

Thấy vậy, Mục-kiền-liên suy nghĩ: ‘Người này khi ở nhân gianđệ tử của ta, nay hưởng phúc trời, vì đắm trước lạc thú cõi trời, nên đã đánh mất bản tâm’. Ngài liền dùng thần lực chận xe dừng lại. Kì-bà xuống xe, đỉnh lễ Mục-kiền-liên. Mục-kiền-liên quở trách đủ điều. Kì-bà thưa:

- Khi ở nhân gian, con là đệ tử của ngài, nên mới đưa tay chào, chứ các thiên tử khác đâu có làm như thế!

Bấy giờ, Mục-kiền-liên mới đến khuyên Thích-đề-hoàn-nhân.

- Phật ra đời rất khó gặp, sao không thường đến hầu cận, lãnh thụ chính pháp?

Đế Thích muốn phân tích cho Mục-kiền-liên, nên sai sứ bảo một thiên tử đến. Gọi ba lần, thiên tử vẫn không đến, sau bất đắc dĩ mới đến. Đế Thích thưa với Mục-kiền-liên:

- Thiên tử này chỉ có một thiên nữ và một loại nhạc để tự vui, nhưng vì tâm dục nhiễm sâu nặng, tuy vâng mệnh, cũng không dứt bỏ được, cho nên không chịu đến. Huống gì là thiên vương có rất nhiều cung điện, vô số thiên nữ, [153b] cần ăn thì tự có trăm vị, lại có trăm nghìn âm nhạc để vui, nên nhìn đông thì quên tây. Tuy biết Đức Phật ra đời rất khó gặp, chính pháp khó nghe, nhưng vì lạc thú trói buộc, nên không được tự tại.

Lại biết ba đường ác thống khổ thế nào rồi, nên không có nhân duyên đắc giới. Còn trong cõi người, chỉ có ba châu đắc giới, riêng Bắc Uất-đơn-việt không có Phật pháp, không đắc giới, là vì người cõi này ngu siphúc báo ngăn che, nên không thụ trì chính pháp”.

Luật Thiện kiến[69] ghi: “Lục quần tì-kheo[70] ngồi chỗ thấp, thuyết pháp cho những người ngồi chỗ cao, là xem thường pháp.

Đức Phật quở trách họ và bảo các tì-kheo:

Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại, có một cư sĩ tên Xa-ba-gia. Người vợ mang thai muốn ăn xoài, nên nói với chồng:

- Thiếp muốn ăn xoài, chàng có thể tìm cho thiếp được không?

Người chồng trả lời:

- Lúc này không phải mùa xoài, ta làm sao tìm được?

Người vợ nói:

- Nếu chàng không tìm được, chắc thiếp sẽ chết.

Nghe vợ nói vậy, người chồng suy nghĩ: ‘Chỉ trong vườn nhà vua mới có xoài trái mùa, ta sẽ đến hái trộm’. Nghĩ xong, đợi đêm đến, người chồng lẻn vào vườn nhà vua để hái trộm. Chưa hái được quả nào thì trời đã sáng, không thể ra khỏi vườn, nên anh ta trốn trên cây.

Bấy giờ, vua cùng bà-la-môn vào vườn, vua muốn ăn xoài. Bà-la-môn ở dưới thấp, thuyết pháp cho vua ngồi trên tòa cao. Đang núp trên cây, người trộm quả nghĩ: ‘Việc ta trộm quả đáng bị chết, nhưng nhờ vua nghe bà-la-môn thuyết pháp, nên nay ta được thoát. Ta đã không đúng pháp, vua cũng không đúng pháp, bà-la-môn cũng không đúng pháp. Vì sao? Ta vì vợ mà trộm xoài của vua, vua vì kiêu mạn nên để thầy ngồi chỗ thấp mà mình ngồi tòa cao nghe pháp, bà-la-môn vì tham lợi dưỡng nên tự ngồi chỗ thấp, thuyết pháp cho vua. Nay cả ba người đều không đúng pháp, nên ta được thoát’. Suy nghĩ xong, anh ta leo xuống, đến trước vua và nói kệ:

Hai người không biết pháp

Hai người không trọng pháp  

Người dạy không y pháp

Người nghe không hiểu pháp

Vì ăn cơm gạo ngon

Và các thức thượng vị

Chỉ vì sự uống ăn

Tôi nói không đúng pháp

Cũng chỉ vì danh lợi

Phá hủy phép tắc riêng.  

Nghe bài kệ này, vua tha tội cho người trộm quả.

Đức Phật bảo:

- Khi là phàm phu, Ta còn biết đó là việc không đúng pháp, huống nữa nay đã thành Phật. Các ông là đệ tử hãy thuyết pháp cho người ngồi chỗ thấp. Người trộm quả thuở ấytiền thân của Ta”

Luận Đại trí độ ghi: “Vào thời Phật Ca-diếp, [153c] có hai anh em cùng xuất gia học đạo. Một người chuyên trì giới, tụng kinh, tọa thiền, còn người kia chuyên khuyến hóa đàn-việt, làm phúc thiện.

Đến khi Phật Thích-ca ra đời, một người sinh trong nhà trưởng giả, một người làm voi trắng to lớn, sức mạnh có thể đánh tan quân giặc. Con của trưởng giả xuất gia học đạo, được sáu thần thông[71], chứng quả A-la-hán[72], nhưng do kém phúc nên khất thực khó được. Một hôm, vị này ôm bát, vào thành khất thực, đi khắp nơi mà không được; khi ngang qua chỗ voi trắng, thấy nhà vua cho nó ăn đủ thứ, nên nói với voi:

- Ta và ngươi đều có tội.

Voi trắng cảm nhận được, ba ngày liền không ăn. Người giữ voi lo sợ, tìm gặp vị tăng và hỏi:

- Ngài làm cách gì khiến cho voi trắng của vua bị bệnh, bỏ cả ăn uống?

Vị tăng đáp:

- Con voi này đời trước là sư đệ của tôi, cùng xuất gia học đạo vào thời Phật Ca-diếp[73]. Lúc đó, tôi chỉ trì giới, tụng kinh, tọa thiền, không thực hành bố thí; còn sư đệ chỉ khuyến hóa đàn-việt, bố thí, không giữ giới, không tu học. Vì thế, nên nay sư đệ làm thân voi, nhưng nhờ hành bố thí nên ăn uống sung túc, đủ các món ngon. Còn tôi thuở ấy chỉ lo tu học, không chịu bố thí, nên nay tuy chứng quả, nhưng khất thực khó được. Vì nhân duyên sai khác, nên tôi tuy gặp Phật ra đời mà vẫn bị đói khát”.

Kinh Bách dụ[74] ghi: “Thuở xưa, tại một nước nọ, vào ngày lễ hội, tất cả phụ nữ đều dùng hoa sen xanh trang sức. Bấy giờ, trong một nhà nghèo, người vợ nói với chồng:

- Nếu chàng tìm được hoa sen xanh cho em, thì em sẽ làm vợ chàng. Nếu không tìm được thì em sẽ bỏ chàng ra đi.

Người chồng vốn có tài giả tiếng uyên ương[75], nên lẻn vào ao của vua giả tiếng uyên ương để trộm hoa sen xanh. Khi ấy, người giữ ao hỏi:

- Ai đó?

Anh ta giật mình, buộc miệng đáp:

- Tôi là chim uyên ương.

Người giữ ao liền bắt anh ta đưa đến chỗ vua. Giữa đường, anh ta giả tiếng uyên ương. Người giữ ao nói:

- Hồi nãy sao anh không kêu, bây giờ kêu có ích gì?

Người ngu trên thế gian cũng vậy, trọn đời giết hại, tạo các nghiệp ác, không chịu tu tâm cho thuần thiện; khi sắp chết, mới nói ‘tôi nay muốn tu thiện’, thì đã bị ngục tốt[76] bắt giao cho vua Diêm-la[77], dù muốn tu thiện cũng không kịp. Giống như anh chàng ngu kia gần đến chỗ vua mới giả tiếng uyên ương”.

Kinh Bách dụ ghi: “Ngày xưa, có trưởng giả rất giàu. Vì muốn được lòng ông, nên những người chung quanh đều cung kính. Mỗi khi trưởng giả khạc đàm, những người hầu lấy chân chà đạp. [154a] Bấy giờ, có người hầu ngu không tranh kịp, nên nghĩ: ‘Nếu đợi đàm rơi xuống đất, thì người khác đạp hết. Vậy khi ông ấy gần khạc, ta hãy đạp trước’. Lúc ấy, Trưởng giả sắp khạc đàm, người ngu liền đưa chân đạp vào miệng trưởng giả, làm ông ta bị dập môi, gãy răng. Trưởng giả hỏi:

- Tại sao ngươi đạp miệng ta?

Người ngu trình bày lý do:

- Khi ông vừa muốn khạc, tôi đưa chân đạp trước, mong được lòng ông!

Phàm làm việc gì cũng phải đợi thời cơ. Thời cơ chưa đến mà cố sức gượng ép thì ngược lại sẽ chuốc lấy khổ não. Vì vậy, người đời nên biết đúng lúc và không đúng lúc”.

XXV.3. Lập chí  

Kinh Tạp thí dụ[78] ghi: “Ngày xưa, có một người tên Tác-bạc, nghe ở nước ngoài có nhiều của báu lạ, muốn đến đó để mưu sống, nhưng giữa hai nước có nạn quỷ la-sát[79], không thể qua được. Một hôm, Tác-bạc đi khắp nơi, bỗng thấy cửa tây của chợ có một vị tăng ngồi trên chiếc giường trống, rao bán năm giới[80]. Tác-bạc hỏi:

- Năm giới là gì?

Vị tăng trả lời:

- Năm giới không hình tướng, miệng trao tâm nhận trực tiếp, đời sau được sinh lên trời, hiện đời thì thoát khỏi nạn quỷ la-sát.

Nghe vị tăng nói vậy, Tác-bạc muốn mua, liền hỏi:

- Bán bao nhiêu tiền?

Đáp:

- Một nghìn đồng tiền vàng.

Tác-bạc liền thọ năm giới. Sau đó, vị tăng lại dặn dò:

- Sang bên kia biên giới, nếu gặp quỷ la-sát, ông chỉ cần nói: ‘Tôi là đệ tử năm giới của Đức Phật Thích-ca’ là thoát nạn.

Không bao lâu, Tác-bạc đến ranh giới hai nước, thấy một con quỷ la-sát thân cao một trượng ba thước[81], đầu vàng, mắt đỏ, mình đầy vảy cứng, miệng há rộng, đi nhanh như én bay, chân đạp đất lún tới gối, miệng phun máu nóng. Cả bọn mấy nghìn la-sát vây bắt Tác-bạc. Tác-bạc liền nói:

- Tôi là đệ tử năm giới của Phật Thích-ca.

Nghe vậy, la-sát vẫn quyết không chịu buông. Tác-bạc liền dùng hai tay đấm la-sát, thì tay dính chặt vào vảy của nó, rút không ra; lại dùng chân đạp đầu, thì chân cũng mắc cứng. Đến lúc này, năm phần thân thể của ông đều dính chặt trong vảy của nó, chỉ còn lưng cử động được. La-sát nói:

Thân và tay chân ngươi

Đều đã bị dính chặt  

Chỉ nên đành chịu chết

Vùng vẫy có ích gì?  

Tác-bạc vẫn kiên trì, nói với la-sát:

Thân và tay chân tôi

Tạm thời bị cột trói

Tôi giữ tâm vàng đá

Ắt không bị ngươi hại.

La-sát lại nói với Tác-bạc:

[154b] Ta là vua loài quỷ,

sức mạnh phi thường,

Xưa nay ăn cả người,

Số nhiều không tính xiết,

Ngươi hãy nên chịu chết,

Sao còn tự khoe khoang?

Tác-bạc nổi giận, muốn mắng nhiếc, nhưng suy nghĩ: ‘Thân này luân hồi trong ba cõi, chưa từng thí cho ai ăn. Nay ta sẽ thí cho quỷ la-sát này một bữa no nê’. Nghĩ xong, Tác-bạc nói kệ:

Thân ta lắm tanh hôi

Từ lâu muốn bỏ rồi

Nay gặp phải la-sát

Xin bố thí thân này

Chí ta cầu Đại thừa  

Thành tựu Nhất thiết trí[82].  

La-sát thông minh, hiểu lời Tác-bạc, nên cảm thấy hổ thẹn, thả Tác-bạc ra, quỳ xuống, chắp tay sám hối:

Ngài là thầy độ người

Hiếm có trong ba cõi

Chí cầu pháp Đại thừa

Không lâu sẽ thành Phật

Thế nên, tôi quy y

Cúi đầu thành kính lễ.

Sau khi sám hối, la-sát đưa Tác-bạc sang nước ngoài lấy nhiều châu báu, rồi đưa ông ta về nhà. Nhờ huân tu công đức, nên Tác-bạc chứng quả Dự lưu”[83].

Nên biết, năng lực của giới không thể nghĩ bàn. Khuyên các hành giả nghiêm trì giới cấm, lập chí dõng mãnh giống như người này.

Luận Đại trí độ ghi: “Một con rồng độc nọ có sức mạnh phi thường. Khi nó nhìn, hễ người yếu thì chết ngay; khi nó thổi khí độc, dù người mạnh cũng chết. Bấy giờ, rồng thọ giới một ngày, ra khỏi hang, vào rừng tư duy. Hồi lâu, rồng mỏi mệt, nên ngủ thiếp đi.

Khi rồng ngủ, thân khoanh tròn như rắn, da nó ánh lên màu bảy báu. Thấy vậy, thợ săn vui mừng và nghĩ: ‘Đây là bộ da hiếm có lại khó được, đem dâng lên vua để làm vật trang sức, không phải là việc đáng làm sao?’ Nghĩ xong, thợ săn liền lấy gậy đè đầu rồng, rồi lấy dao lột da.

Rồng liền nghĩ: ‘Sức ta có thể làm nghiêng đổ cả một nước, người bé nhỏ này đâu làm gì được ta! Nay ta trì giới không nghĩ đến thân, vâng lời Phật mà nhẫn chịu’. Nghĩ rồi, rồng nhắm mắt không nhìn, ngậm miệng không nhả khí, thương xót người ấy, nằm yên để thợ săn lột da, không khởi ác ý. Vì vậy, rồng không có da che thân, chỉ còn khối thịt đỏ, đau đớn quằn quại trên đất.

Khi ấy, trời nắng gắt, rồng muốn bò đến sông lớn, nhưng bị các côn trùng rỉa thịt ăn. Vì trì giới, [154c] rồng không dám cựa mình. Rồng lại nghĩ: ‘Nay đem thân này bố thí cho các loài trùng để cầu Phật đạo, dùng thịt này bố thí để chúng được no; sau này thành Phật, dùng pháp bố thí để tâm chúng được lợi ích’. Đến khi thân khô, rồng mạng chung, sinh lên cõi trời Đao-lợi.

Rồng độc thuở ấyĐức Phật Thích-ca Mâu-ni, thợ săn bấy giờ là lục sư và Đề-bà-đạt-đa… Các loài trùng là tám vạn chư thiên đắc đạo khi Đức Phật vừa chuyển pháp luân.

Loài vật còn nghiêm trì cấm giới như thế, đến chết vẫn không phạm, huống nữa là con người, đâu được cố phạm”.

Luật Ngũ phần ghi: “Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ, có một con rắn đen cắn con nghé, rồi bò vào hang. Bấy giờ, một thầy chú thuật niệm thần chú Cổ Dương[84] cho rắn bò ra, nhưng không linh nghiệm. Thầy chú thuật bèn đốt lửa trước con bò nghé, niệm chú hóa thành con ong lửa bay vào hang đốt rắn. Rắn đau đớn chịu không nổi, nên bò ra khỏi hang. Thấy vậy, dê đen dùng sừng hất rắn đến trước thầy chú thuật. Thầy chú thuật nói:

- Ngươi hút nọc độc ở con nghé đi; nếu không, ta sẽ quăng vào lửa.

Nghe vậy, rắn đen nói kệ:

Tôi đã phóng độc ra

Nhất định không thu lại

Nếu có phải bị chết

Mạng này cũng chẳng cần.

Thế là rắn không chịu thu độc lại, tự gieo mình vào lửa.

Đức Phật bảo:

- Rắn đen thuở ấy chính là Xá-lợi-phất, trước đây chấp nhận nỗi khổ bị chết như thế mà không thu độc lại, huống gì nay lại lấy thuốc đã vứt bỏ”.

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Đức Phật dạy: Vào thời quá khứ, giữa hai nước Ca-thi và Tì-đề-hê có một cánh đồng trống. Nơi ấy, có một ác quỷ tên Sa-tra-lư thường chặn đường đi, tất cả dân chúng không ai qua lại được.

Bấy giờ, có vị thương chủ tên là Sư Tử, dẫn theo năm trăm thương buôn, muốn đi qua đường này. Mọi người lo sợ không thể qua được, vị thương chủ nói:

- Yên lòng, chớ sợ, cứ đi theo tôi.

Thế rồi, vị thương chủ đi trước dẫn đường, đến chỗ quỷ và nói:

- Ngươi không nghe danh ta ư?

Quỷ đáp:

- Tôi nghe danh ông, nên đến đây giao chiến.

Quỷ lại hỏi:

- Ngươi có tài cán gì?

Khi ấy, vị thương chủ liền giương cung bắn quỷ. Năm trăm mũi tên bắn ra đều chui vào bụng quỷ; lại dùng dao, gậy đánh, thì cũng dính vào bụng hắn. Vị thương chủ xông tới, lấy tay trái đánh, tay trái cũng dính vào; lấy tay phải đánh, tay phải cũng dính vào; dùng chân phải đạp, chân phải cũng dính vào; dùng chân trái đạp, chân trái cũng dính vào; lại dùng đầu húc, đầu cũng bị dính. Khi ấy, quỷ nói kệ:

Tay, chân và cả đầu

Hết thảy đều bị dính

Người, vật nào chẳng dính?

[155a] Thương chủ đáp lại bằng kệ:

Tay, chân và đầu của tôi đây

Tất cả tiền tài và dao gậy

Tất cả vật ấy tuy đã dính

Nhưng sức tinh tấn chẳng dính ngươi.

Tinh tấn vững mạnh không ngừng nghỉ

Giao chiến với ngươi quyết chẳng thua

Ta nay tinh tấn không ngừng nghỉ

Tuyệt đối chẳng hề sợ hãi ngươi.

Khi ấy, quỷ nói:

- Nay ta vì ngươi mà thả cho năm trăm thương buôn này.

Đức Phật bảo:

Sư Tử thuở ấytiền thân của Ta, Sa-tra-lư là quỷ ở đồng trống vậy”.

Luận Tạp-bà-sa ghi: “Thấy Bồ-tát ngồi dưới cây bồ-đề , thân ngay thẳng, bất động, phát nguyện chứng quả Vô thượng chính giác, Ma vương vội rời khỏi cung điện của mình, đến chỗ Bồ-tát và nói:

- Này người con dòng Sát-đế-lợi, hãy rời khỏi chỗ ngồi này. Nay thời ác trược[85], chúng sinh cương cường, nhất định không thể chứng đạo Vô thượng bồ-đề. Ông nên nhận lấy ngôi Chuyển luân vương[86], ta sẽ dâng cúng bảy báu.

Bồ-tát bảo:

- Lời ngươi vừa nói như dụ dỗ trẻ con. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú có thể rơi xuống; núi, sông, đại địa có thể bay lên hư không, nhưng không thể nào khiến Ta rời khỏi tòa này khi chưa chứng đạo Bồ-đề.

Sau đó, Ma vương dẫn theo ba mươi sáu câu-chi[87] ma quân. Mỗi con hiện ra hình thù đáng sợ, cầm các binh khí với nhiều màu sắc, bao vây khắp ba mươi sáu du-thiện-na[88], đồng loạt xông tới cội bồ-đề để quấy nhiễu Bồ-tát, nhưng không được. Bấy giờ, thân tâm Bồ-tát bất động, vững hơn núi Tu-di[89]”.

Kinh Tăng-già-la-sát ghi: “Xưa Bồ-tát hiện thân làm chim anh vũ[90] thường sống trên cây. Bấy giờ, gió thổi cây cối cọ xát nhau làm phát ra lửa. Lửa dần dần bốc cháy mạnh đốt cả vùng núi ấy.

Anh vũ suy nghĩ: ‘Như loài chim bay ngang qua đây, chỉ đậu trên cây giây lát mà còn khởi tâm báo ân, huống nữa ta đêm ngày sống ở đây mà không dập tắt lửa ư?’ Nghĩ thế rồi, anh vũ bay ra biển, dùng đôi cánh lấy nước đem về dập tắt lửa, lại còn dùng miệng để phun, chạy tới chạy lui. Thấy anh vũ lao nhọc, thiện thần động lòng, liền giúp anh vũ dập tắt lửa”.

Luận Đại trí độ ghi: “Ngày xưa, có con chim trĩ[91] sống ở trong rừng. Một hôm, khu rừng bỗng nhiên phát hỏa, một mình chim trĩ lao nhọc, bay đến sông lấy nước dập lửa. Nó bôn ba đến đi hết sức vất vả, nhưng không lấy làm khổ. Thấy vậy, trời Đế Thích hỏi:

- Ngươi làm gì vậy?

Thưa:

- Vì thương chúng sinh, nên tôi ra sức cứu khu rừng này. Trước đây, rừng này mát mẻ, che chở chúng tôi lâu nay sống yên ổn thoải mái. [155b] Tôi cùng họ hàng và nhiều loài khác đều nương náu ở đây. Nay tôi còn sức, vì sao không chữa cháy?

Đế Thích hỏi:

- Ngươi siêng năng như vậy, đến bao giờ mới thôi?

Trĩ đáp:

- Đến chết mới thôi!

Đế Thích hỏi:

- Ai làm chứng cho ngươi?

Trĩ liền phát nguyện:

- Nếu tâm tôi chí thành, niềm tin không hư dối, xin cho ngọn lửa này hãy tự tắt.

Bấy giờ, chư thiêncõi trời Tịnh Cư[92] biết chim trĩ phát thệ nguyện rộng lớn, nên dập tắt lửa. Từ đó về sau, khu rừng này trở nên xanh tốt, không bao giờ còn bị nạn lửa đốt cháy.

Cho nên, kinh ghi: “Người có nguyện lành, chư thiên ắt ủng hộ”. Lời này đã được chứng nghiệm.

Bài tụng:

Biếng học mê tam thừa[93]

Người hỏi chẳng biết một

Nụ hoa không có hạt

Khi nở sao được quả?

Tâm kiêu mạn chất đầy

Khinh người, nhân chẳng tốt

Đọa vào nơi tối tăm

Giam hãm trong ngục kín

Trải qua trăm nghìn năm

Chịu muôn ức thống khổ

Khổ mà không ăn năn

Do kiêu mạn, giải đãi

Thánh nhân khéo nói dụ

Lập chí cần hiểu luật

Phàm phu khinh thường pháp

Đâu biết hối hận ngay”.

Nguyên Ý-Nguyên Lộc dịch



[1] Tứ nhiếp pháp 四攝法 (S: catvāri saṃgraha-vastūni): bốn phương pháp bồ-tát dùng để nhiếp thụ chúng sinh, khiến họ sinh khởi tâm thân ái mà dẫn dắt họ vào Phật đạo để đạt ngộ. Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

[2] Luật Tứ phần (Tứ phần luật 四分律; S: Dharmagupta-vinaya): luật, sáu mươi quyển, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch ở Trường An vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, khoảng 410-412, được xếp vào Đại chính tạng, tập 22.

[3] Kinh Hoa thủ (Hoa thủ kinh 華首經; S: Kuśala-mūla-saṃgraha): kinh, mười quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 16. Nội dung kinh này thuật lại việc Đức Phật ở vườn tre Ca-lan-đà thành Vương Xá, giảng nói cho các bồ-tát ở mười phương nghe về quá trình đắc đạo của Đại thừa bồ-tát, quả báo khổ đau của việc hủy báng hành giả Đại thừacông đức hộ trì Phật pháp, tạo tượng v.v.

[4] Luận Đại trí độ (Đại trí độ luận 大智度論; S: Mahāprajñāpāramitaśastra): luận, một trăm quyển, do bồ-tát Long Thụ soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Hậu Tấn, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 25. Nội dung luận này giải thích kinh Đại phẩm bát-nhã.

[4] Kinh Báo Ân (Báo ân kinh 報恩經; Cg: kinh Đại phương tiện Phật báo ân): kinh, bảy quyển, chín phẩm, mất tên người dịch. Nội dung kinh này nói lúc Đức Phật ở núi Linh Thứu, A-nan nghe ngoại đạo chê trách Đức Phật không có hiếu, nên bạch Phật. Đức Phật liền phóng ánh sáng nhóm họp chư bồ-tát khắp mười phương, Ngài nói về nhân duyên thái tử Tu-xà-đề lấy thịt của mình để cứu cha mẹ, hoặc lên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho mẹ nghe.

[4] Thất thánh tài 七聖財: bảy thánh pháp để thành tựu Phật đạo. Đó là tín, giới, tàm, quí, văn, thí, tuệ. Vì bảy pháp được giữ gìn này có công năng trợ giúp cho việc thành Phật, nên gọi là tài.

[7] Dư báo 餘報: nghiệp báo đời trước còn sót lại.

[8] Luận Tát-bà-đa (Tát-bà-đa luận 薩婆多論): luận, chín quyển, mất tên người dịch, được xếp vào kinh sách đời Tần.

[9] Kinh Phân biệt nghiệp báo (Phân biệt nghiệp báo kinh 分別業報經): kinh, một quyển, bồ-tát Đại Dũng soạn, ngài Tăng-già-bạt-ma đời Tống dịch. Kinh này đều là kệ tụng; nội dung giải thích nghiệp báo của năm đường.

[10] Nhiếp Luận 攝論 (S: Mahãyãmã-Samparigraha-Sastra): luận, ba quyển, do ngài Vô Trước người Ấn Độ soạn, ngài Huyền Trang dịch, được xếp vào Đại chính tạng, tập 31. Nội dung luận này bao gồm tất cả yếu nghĩa pháp môn thánh giáo của Phật giáo Đại thừa.

[11] Kinh Niết-bàn (Niết-bàn kinh 涅槃經; Gđ: kinh Đại bát Niết-bàn; S: Mahã-parinirvãna-Sũtra): kinh, ba quyển, do ngài Pháp Hiển dịch vào đời Đông Tấn, Trung Quốc, Được xếp vào Đại chính tạng, tập 1. Nội dung kinh này giảng thuyết về giáo nghĩa Như Lai thường trụ, chúng sinh đều có Phật tính, hạng xiển-đề thành Phật.

[12] Luận Đại trang nghiêm (Đại trang nghiêm luận 大莊嚴論. Gđ: Đại trang nghiêm kinh luận): luận, mười lăm quyển, do ngài Mã Minh sáng tác; ngài Cưu-ma-la-thập dịch. Nội dung ghi chép rộng rãi những câu chuyện về tiền thân, hiện đời của Đức Phật, cho đến những chuyện liên quan đến việc thiện ác, nhân duyên, thí dụ vào thời đại của người biên soạn, với mục đích đưa con người vào chính tín.

[13] Kinh Tăng nhất A-hàm (Tăng nhất A-hàm kinh 僧一阿含經; S: Ekottari kãgama): kinh, năm mươi mốt quyển. Do ngài Tăng-già-đề-bà thời Đông Tấn dịch. Gồm nhiều bài kinh ngắn do Đức Phật tùy thời nói cho chư thiên và người nghe. Kinh này mang đậm tư tưởng Đại thừa.

[14] Kinh Xuất diệu (Xuất diệu kinh 出曜經; S: Dharmatrāta): kinh hoặc luận , ba mươi quyển, do tôn giả Pháp Cứu soạn, ngài Trúc Phật Niệm đời Diêu Tần, Trung Quốc dịch vào khoảng năm 351-417 đời Đông Tấn, được xếp vào Đại chính tạng, tập 4. Nội dung kinh này gồm 34 phẩm, được hình thành bởi những bài kệ tụng theo hình thức giáo huấn của Phật giáo và tập hợp các sự tích theo lối chú thích.

[15] Luật Thập tụng (Thập tụng luật 十誦律): luật, sáu mươi mốt quyển, do hai ngài Phất-nhã-đa-la và Cưu-ma-la-thập cùng dịch vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 23. Nội dung bộ luật này chia giới luật thành mười phần để giải thích.

[16] Diệt thụ tưởng định 滅受想定 (Cg: diệt tận định; S: nirodha-samāpatti): định diệt trừ tâm và tâm sở để trụ ở vô vi tâm, cùng với Vô tưởng định, gọi là nhị vô tâm định. Nhưng vô tưởng địnhquả vị chứng đắc của hàng dị sinh phàm phu. Còn định này là quả vị chứng đắc của Phật và các vị a-la-hán, bậc đã xa lìa định chướng, đầy đủ sự giải thoát.

[17] Ưu-bà-di 優婆夷 (S: upāsikā): người nữ tôn kính tam bảo, thụ tam qui, giữ năm giới, thực hành thiện pháp, là một trong hai chúng đệ tử tại gia của Phật.

[18] Ưu-bà-tắc 優婆塞 (S: upāsaka): người nam phụng thờ tam bảo, thụ trì năm giới, là một trong hai chúng đệ tử tại gia của Phật.

[19] Kinh Bách duyên: tức kinh Soạn tập bách duyên (Soạn tập bách duyên kinh 撰集百緣經; S: Avadāna-śataka), mười quyển, do ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô, được xếp vào Đại chính tạng, quyển 4. Nội dung bộ kinh này gồm mười phẩm, nói về nhân duyên nghiệp báo thiện ác của chúng sinh.

[20] Kinh Phó pháp tạng (Phó pháp tạng kinh 付法藏經; Cg: Phó pháp tạng nhân duyên truyện): kinh hoặc truyện, sáu quyển, do ngài Cát-ca-dạ và Đàm Diệu cùng dịch vào đời Nguyên Ngụy, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 50. Nội dung nói về sự tích truyền phápthế hệ truyền thừa của hai mươi ba vị tổ Ấn Độ.

[21] Kiền chùy 犍椎 (Cg: kiền trĩ): khí cụ để đánh báo giờ trong tự viện. Theo luật Ngũ phần 18 đại tì-kheo tam thiên uy nghi, quyển hạ, khi bố-tát hoặc tụng kinh, để tập hợp chúng tăng thụ trai.., các chùa đều có đánh kiền chùy, giống như đánh bảng trong tự viện ngày nay.

[22] Chính báo 正報: quả báo chính thể của hữu tình do nghiệp nhân quá khứ mà cảm được. Tức thân tâm của hữu tình hiện tại.

[23] Tập báo 集報: quả báo do tập khí ác quá khứ còn sót lại.

[24] Lục độ tập kinh 六度集經: kinh, tám quyển, do ngài Khương Tăng Hội dịch vào đời Ngô, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 3. Nội dung kinh này gồm chín mươi mốt câu chuyện bản sinh của Đức Phật, phối hợp với lục độ mà thành.

[25] Kinh Trường A-hàm (Trường A-hàm kinh 長阿鋡經; S: Dīrghāgama): kinh, hai mươi quyển, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào năm 413 đời Hậu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 1; là một trong bốn bộ A-hàm Bắc truyền.

[26] Kinh Tu hành đạo địa (Tu hành đạo địa kinh 修行道地經; S: Yoga-cārya-bhūmi-sūtra): kinh, bảy quyển, ba mươi phẩm, do sa-môn Chúng Hộ soạn, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Nội dung luận này nêu rõ pháp tướng của ngũ ấmhành pháp tam thừa.

[27] Câu-kỳ 拘耆: tên loài quạ mỏ đỏ.

[28] Kinh Tạp thí dụ (Tạp thí dụ kinh 雜譬喻經): kinh, một quyển, ba mươi chín dụ, ngài Cưu-ma-la-thập dịch. Nội dung chủ yếu là nêu các nhân duyên thí dụ để thuyết minh, lí luận về thiện ác nghiệp báo.

[29] Luật Tăng-kỳ (Tăng-kỳ luật 僧祈律; S: Mahāsaṅghavinaya): luật nói về hai trăm năm mươi giới tì-kheo và ba trăm bốn mươi tám giới tì-kheo-ni.

[30] Kinh Bột (Bột kinh 孛經): kinh, do cư sĩ Chi Khiêm dịch ở nước Nhục-chi vào đời Ngô. Bột là tên vị quốc sư nước Lam-đạt, tiền thân Đức Phật.

[31] Luật Thiện kiến (Thiện kíên luật 善見律; S: Samantapăsădikă.): luật, nói về sự kết tập kinh điển lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba và việc truyền trì luật tạng và việc con vua A-dục tên Ma-thẩn-đà đến Tích Lan truyền giáo. Từ quyển 4 trở về sau chủ yếu chú thích luật Tứ phần.

[32] La nghén chửa (la hoài nhâm 騾懷妊): con la sinh sản một lần rồi chết.

[33] Kinh Đại phẩm tức kinh Đại phẩm bát-nhã (Đại phẩm bát-nhã kinh 大品般若經; S: Pañcaviṃśati-sāhasrikā-prajñāpāramitā): kinh, hai mươi bảy quyển, chín mươi phẩm, ngài Cưu-ma-la-thập dịch (402-412). Nội dung nói về bát-nhã không quán thuộc thời kì đầu của Phật giáo Đại thừa.

[34] Kinh Bồ-tát Địa trì (Bồ-tát Địa trì kinh 菩薩地持經): kinh, hai mươi bảy phẩm, nêu rõ phương tiện tu hành của bồ-tát Đại thừa, chia làm ba phần: sơ phương tiện xứ, thứ pháp phương tiện xứ và tất cánh phương tiện xứ .

[35] Năm thứ lửa (ngũ hỏa 五火): lửa bốn phía và ánh nắng mặt trời.

[36] Kinh Nguyệt Quang đồng tử (Nguyệt Quang đồng tử kinh 月光童子經): kinh, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Nội dung kinh này nói về ông Thân Nhậtlục sư ngoại đạo mưu hại Đức Phật, dù cho con ông khuyên can mà ông vẫn không nghe. Ông Được Đức Phật dùng thần lực giáo hoá, cuối cùng ăn năn sám hốiqui y Phật.

[37] Lục sư ngoại đạo 六師外道: sáu phái ngoại đạothế lực lớn ở Trung Ấn Độ vào thời Đức Phật còn tại thế.

[38] Kinh Quán Phật tam-muội (Quán Phật tam-muội kinh 觀佛三昧經; S: Buddha-dhyāna-samādhisāgara-sūtra): kinh, nói về việc Đức Phật thuyết pháp để độ cho phụ vương là Duyệt-đầu-đàn và di mẫu là Kiều-đàm-di tại rừng Ni-câu-lâu-đà, thành Ca-tỳ-la-vệ.

[39] Kinh Tát-già ni-kiền tử (Tát-già ni-kiền tử kinh 薩遮尼乾子經; S: Bodhisattva-gocaropāya-viṣaya-vikurvaṇa-nirdeśa): kinh thuật lại việc lục sư ngoại đạo Đại Tát-già Ni-kiền-tử trả lời câu hỏi của bồ-tát Văn-thù về pháp Đại thừa thâm diệu, được Phật khen ngợi và thụ kí.

[40] Lục thân 六親: sáu loại người gần nhất với mình. Đó là cha, mẹ, anh, em, vợ, con.

[41] Bảy báu (Thất bảo 七寶; S: sapta ratnāni): bảy thứ đồ quý. Theo phẩm Thụ ký trong kinh Hoa nghiêm ghi: “vàng, bạc, lưu li, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi”. Theo kinh Vô lượng thọ: “Vàng, bạc, lưu li, pha lê, san hô, mã não, xa cừ”.

[42] Bốn diệu (tứ diệu 四妙; Cg: tứ đức): bốn đức của Chuyển luân thánh vương. Đó là trường thọ, không bệnh, dung mạo xinh đẹp và nhiều của báu.

[43] Kinh Tạp bảo tạng (Tạp bảo tạng kinh 雜寶藏經; S: Saṃyukta-ratna-piṭaka-sūtra): kinh, mười quyển, do ngài Cát-ca-dạ và ngài Đàm Diệu dịch vào đời Nguyên Ngụy, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 4. Nội dung nói về các sự tích liên quan đến Đức Phậtđệ tử cùng những duyên sự sau khi Đức Phật nhập diệt.

[44] Luật Tăng-kì (Tăng-kì luật 僧祇律; S: Mahāsaṅghavinaya): luật, nói về hai trăm năm mươi giới tì-kheo và ba trăm bốn mươi tám giới tì-kheo-ni. Đây là bộ luật của Đại Chúng bộ thuộc Phật giáo Bộ phái.

[45] Nước Ba-la-nại (Ba-la-nại quốc 波 羅柰國; S:Vāraṇasī, Varāṇasī, Varaṇasī): nước Ca-thi khi xưa, thời cận đại có tên Benares, nay là bang Varanasi của nước Ấn Độ. Đây là một trong sáu địa điểm lớn mà Phật đã từng đến thuyết pháp.

[46] Đại gia 大家: người giàu sang, quyền thế trong xã hội.

[47] Tào chủ 曹主: người phụ trách hoặc chủ trì một tổ chức nào đó.

[48] Ba đường ác (tam đồ 三塗): ba nơi thống khổ. Đó là hỏa đồ, đao đồhuyết đồ, đồng nghĩa với tam ác đạođịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

[49] Duy-na 維那 (S: karma-dāna): một chức vụ quản lí, điều hành, lo liệu các việc của đại chúng trong chùa. Ngày nay gọi là tri sự.

[50] Kinh Cựu tạp thí dụ (Cựu tạp thí dụ kinh 舊雜譬喻經): kinh, hai quyển, do ngài Khương Tăng Hội dịch vào đời Ngô, Trung Quốc. Ngài tập họp tất cả các thí dụ trong kinh, vì dịch sau đời Hán, nên gọi lạ cựu.

[51] Đế Thích thiên 帝釋天 (S: Śakra-devānām-indra): vua cõi trời Đao-lợi, là một trong mười hai vị trời trấn giữ phương đông, chuyên thủ hộ Phật pháp.

[52] Voi trắng Y-la (y-la bạch long trượng 伊 羅白龍象): voi trắng đầu đàn mà trời Đế Thích cưỡi, một trong mười bốn thứ báu do nhũ hải khuấy động sinh ra; cũng có thể do sấm động khiến mây biến hiện thành và nhân cách hóa mây này là động vật.

[53] Luật Ngũ phần (Ngũ phần luật 五分律): luật, ba mươi quyển, do ngài Phật Đà ThậpTrúc Đạo Sinh cùng dịch vào đời Lưu Tống, Trung Quốc.

[54] Ma-nạp 摩納 (Hd: tiên nhân): vị tiên trong đời quá khứ, là tiền thân của Đức Phật Thích-ca, khi còn ở địa vị tu nhân.

[55] Sát-đế-lợi (Sát-lợi 剎 利; S: kṣatriya): giai cấp thứ hai trong bốn giai cấp của Ấn Độ, là giai cấp vương tộc, quý tộc, sĩ tộc, nắm giữ việc quân sự, chính trị.

[56] Nước Ma-kiệt-đà (Ma-kiệt-đà quốc 摩 竭之國): một quốc gia thời xa xưa của Ấn Độ, tức là vùng Bihar ngày nay. Đây là một trong mười sáu nước lớn vào thời Đức Phật còn tại thế. Nước này có quan hệ rất sâu sắc với sự phát triển của Phật giáo.

[57] Kinh Phật bản hạnh (Phật bản hạnh kinh 佛本行經; S:Abhiniṣkramaṇasūtra): kinh, sáu mươi quyển, do ngài Xà-na-quật-đa dịch vào đời Tùy, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 3. Nội dung nói về sự tích đản sinh, xuất gia, thành đạo…. của Đức Phật, và nhân duyên giáo hoá các đệ tử của Ngài.

[58] Khổng tước 孔雀: chim công.

[59] Thanh tước 青雀: chim công xanh.

[60] Thái Sơn 太山: ở đây chỉ địa ngục.

[61] Đề-bà-đạt-đa 提婆達多 (S: Devadatta): vị tì-kheo phạm tội ngũ nghịch, phá hoại tăng đoàn, đối nghịch với Phật. Ông là con nhà chú bác của Phật.

[62] Loài thủy tộc (thủy tính 水性): loài động vật sinh sống trong nước.

[63] Tuyết Sơn 雪山: rặng núi vắt ngang phía tây bắc Ấn Độ.

[64] Khổng Tử 孔子: người nước Lỗ đời Chu, tên là Khâu, tự là Trọng Ni, từng làm quan nước Lỗ, sau một thời chu du thiên hạ, trở về nước, soạn lại kinh Thi, kinh Thư, định lại kinh Lễ, phê bình giảng giải kinh Dịch và soạn ra kinh Xuân Thu, đồng thời mở trường dạy học, khai sáng Nho giáo, học trò có tới hơn ba nghìn người, thọ 73 tuổi (551 – 479 trước TL).

[65] Năm đường (ngũ đạo 五道): năm nơi, chúng sinh tùy theo nghiệp duyên đã tạo mà được sinh về. Đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi ngườicõi trời.

[66] Mục-kiền-liên目犍連 (S:Maudgalyāyana ): vị a-la-hán có thần thông bậc nhất trong mười vị đại đệ tử của Phật.

[67] Kì-bà 耆 婆: danh y Ấn Độ, sống vào thời Đức Phật còn tại thế, làm ngự y cho vua Tần-bà-sa-la và vua A-xà-thế. Ông rất thành tâm tín ngưỡng Phật giáo, thường đến trị bệnh cho đệ tử Phật.

[68] Vườn Hoan Hỷ (Hoan Hỷ viên 歡 喜園): một trong bốn khu vườn của Đế Thích trên cung trời Đao-lợi. Khu vườn này nằm ở phía bắc thành Thiện Kiến, khi chư thiên dạo chơi trong đó, thì rất vui vẻ, nên gọi là vườn Hoan Hỷ.

[69] Luật Thiện kiến (Thiện kiến luật 善見律; Cg: Thiện kiến luật tì-bà-sa): luật, mười tám quyển, do ngài Tăng-già-bạt-đà-la dịch vào đời Nam Tề, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 24. Đây là một trong năm bộ luận của luật bộ Tiểu thừa, chú thích luật tạng do Thượng Toạ bộ của Tích Lan truyền.

[70] Lục quần tì-kheo 六 群比丘 (S: ṣaḍ-vargīka-bhikṣu): sáu tì-kheo thường làm việc phi pháp thời Phật còn tại thế. Sáu vị này cấu kết thành bè đảng, không giữ luật nghi, thường làm những việc xấu. Đức Phật căn cứ vào những hành vi của họ mà chế giới.

[71] Sáu thần thông (lục thần thông 六神通; S: ṣaḍ abhijñāḥ): sáu năng lực thù thắng của bậc thánh tam thừa. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thônglậu tận thông.

[72] A-la-hán 阿羅漢 (S: arhat): quả vị cao nhất trong bốn quả vị thanh văn.

[73] Phật Ca-diếp (Ca-diếp Phật 迦葉佛; S: Kāśyapa Buddha): Đức Phật thứ sáu trong bảy Đức Phật thời quá khứ, cũng là Đức Phật thứ ba trong một nghìn Đức Phật thuộc kiếp Hiền.

[74] Kinh Bách dụ (Bách dụ kinh 百 喻經; S: Kāśyapa Buddha): kinh, bốn quyển, do ngài Tăng-già-tư-na người Ấn Độ soạn vào thế kỷ thứ V, đệ tử của ngài là Cầu-na-tì-địa dịch ra chữ Hán vào thời Nam Tề (429), được xếp vào Đại Chính tạng tập 4. Kinh này sưu tập các câu chuyện thí dụ, nói về thiện ác, tội phước, báo ứng bằng hình thức ngụ ngôn. Nội dung kinh này gồm một trăm thí dụ, dùng để thuyết minh giáo nghĩa của Phật giáo.

[75] Uyên ương 鴛鴦: tên loài chim thuộc giống vịt trời, con trống là uyên, con mái là ương, lúc nào đi cũng có đôi.

[76] Ngục tốt 獄卒 (S: naraka-pāla): loài quỷ ở địa ngục, hiện các thứ hình tướng đáng sợ như đầu trâu, đầu ngựa để trị những người phạm tội.

[77] Diêm-la vương 閻羅王: vua của thế giới ma quỷ, vị tổng quản cõi U Minh và cũng là vị chủ thần địa ngục.

[78] Kinh Tạp thí dụ (Tạp thí dụ kinh 雜譬喻經): kinh, một quyển, do ngài Đạo Lược gom tập, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Diêu Tần, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 4. Gồm ba mươi chín dụ, chủ yếu nêu các nhân duyên thí dụ để thuyết minh, lý luận về thiện ác, nghiệp báo.

[79] La-sát 羅剎 (S: rākṣasa): loài ác quỷ trong thần thoại Ấn Độ, có sức thần thông, bay nhanh trong hư không hoặc đi nhanh trên mặt đất.

[80] Năm giới (ngũ giới 五 戒; S: pañca śīlāni): năm giới của hàng nam nữ tại gia thọ trì. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu.

[81] Một trượng ba thước (nhất trượng tam xích一丈三尺): khoảng 3,3m.

[82] Nhất thiết trí 一切智 (S:sarvajña): trí biết rõ tất cả pháp tướng trong ngoài.

[83] Quả Dự lưu (Dự lưu quả 預流果; S: srotāpanna): quả vị dự vào hàng thánh vô lậu, một trong bốn quả vị của thanh văn (Dự lưu, Nhất lai, Bất hoànVô sinh).

[84] Cổ Dương 羖羊: con dê đực màu đen.

[85] Trược ác 濁惡: là năm thứ cặn đục khởi lên trong kiếp giảm. Đó là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược.

[86] Chuyển luân vương 轉 輪王 (S: cakra-varti-rājan): vị vua làm cho chính pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu chung quanh núi Tu-di. Cõi nước vị vua này rất giàu đẹp, nhân dân an lạc.

[87] Câu-chi 俱胝 (S: koṭi): đơn vị chỉ số lượng của Ấn Độ, là số nghìn vạn hoặc ức của Trung Quốc.

[88] Du-thiện-na 踰 繕那 (Cg: do tuần): đơn vị đo chiều dài thời xưa của Ấn Độ. Tính theo Trung Quốc một do tuần xưa tính 20km, theo Ấn Độ là 15km, trong Phật giáo là 8km.

[89] Núi Tu-di (Tu-di sơn 須彌山; S: Sumeru): vốn là ngọn núi trong thần thoại Ấn Độ, được Phật giáo sử dụng. Ngọn núi này rất cao, đứng sừng sững ở chính giữa một tiểu thế giới, có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc chung quanh, hình thành một thế giới.

[90] Chim anh vũ 鸚鵡: con vẹt hay con két.

[91] Trĩ 雉: tên một loài chim gần như con gà, nhưng lông nhiều màu và đuôi rất dài.

[92] Cõi trời Tịnh Cư (Tịnh Cư thiên 淨 居天): năm cõi trời thuộc đệ tứ thiền ở cõi Sắc, cũng là quốc độ mà các bậc thánh a-na-hàm sinh về. Đó là trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiệntrời Sắc Cứu Cánh.

[93] Tam thừa (tam giáo 三教): ba thừa. Đó là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32594)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6437)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30228)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30310)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12036)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12157)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34451)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52115)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10625)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10384)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10589)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16116)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9121)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11948)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12513)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14860)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13025)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20539)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20153)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant