Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13641)
Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc


PHẬT THUYẾT HỌC KINH CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0075 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ vào Tống Lục.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


 

  Nghe như vầy:

 Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Hoàng Trúc, Tỳ Lan Nhã. Bấy giờ Bà la môn Tỳ Lan Nhã tuổi cao tác lớn, là bậc kỳ túc, tuổi thọ gần mãn, đã một trăm hai mươi tuổi, tay chống gậy, lúc xế trưa thong thả tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong cùng đức Thế Tôn chào hỏi, thăm viếng, sau khi chào hỏi thăm viếng đức Thế Tôn rồi, chống gậy đứng trước đức Thế Tôn, rồi Lan Nhã đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

 –Này Cù Ðàm, tôi nghe Sa môn Cù Ðàm tuổi còn quá trẻ, vừa mới xuất gia học đạo, thế mà nếu có Ðại Sa môn, Bà la môn nào đích thân đến vẫn không tùy thời cung kính, cũng không đứng dậy, không mời các vị ấy ngồi. Này Cù Ðàm, việc ấy tôi không thể chấp nhận được.

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, ta chưa từng thấy chư thiênthế gian, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài người đi đến mà khiến cho Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy mời các vị ấy ngồi. Này Bà la môn, đó là nếu đức Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy thì đầu của người ấy sẽ bể thành bảy mảnh.

 Bà la môn nói rằng:

 –Này Sa môn Cù Ðàm, đó chỉ là sự giải đãi, ngạo mạn.

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có sắc vị, thinh vị, hương vị, xúc vị, vật trơn mịn, thì những thứ ấy đã bị Như Lai dứt sạch, đã biết, đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự khủng bố ở tương lai nữa. Này Bà la môn, đó là điều khiến ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có sợ hãi?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, lại có điều kiện khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói. Ðó là nếu có sự sợ hãi các sắc, sợ hãi thinh, sợ hãi hương, sợ hãi vị, sợ hãi sự xúc trơn mịn, thì Như Lai đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai nữa. Này Bà la môn, có điều kiện này khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có đầu thai nữa chăng?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta không đầu thai, nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có Sa môn, Bà la môn phải đầu thai trở lại thì ta đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, thì ta nói không đầu thai. Này Bà la môn, đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác không còn đầu thai trở lại nữa, Ngài đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, ta không đầu thai nữa. Này Bà la môn, đó là có trường hợp khiến cho ta không đầu thai nữa, chứ nhưng không phải như lời ông nói.

 Lại nữa, này Bà la môn, ta ở trong đời này có sự ngu si tham đắm sự ngu si bị ngu si che lấp trói buộc, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, đối với chúng sanh, ta là bậc nhất. Này Bà la môn, giống như gà mái sanh trứng, hoặc mười hoặc hai mươi trứng, nó tùy thời, đúng thời ấp trên trứng. Nó đúng thời, tùy thời ấp trứng; nó đúng thời, tùy thời chuyển bên này bên kia. Nếu con gà mái ấy có đi đâu, các gà con ở trong trứng dùng mỏ, dùng chân mổ và chọi, phá vỡ trứng chui ra an ổn, nó là những con gà con bậc nhất. Cũng vậy, này Bà la môn, ta bị ngu si trói chặt, bị ngu che lấp, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, với các chúng sanh ấy, ta là bậc nhất.

 Này Bà la môn, ta ôm cỏ khô đi đến dưới gốc cây đạo tràng, đến dưới gốc cây đạo tràng rồi, rải cỏ ngồi xuống gốc cây, trải Ni sư đànngồi kiết già, quyết không đứng dậy, cho đến khi dứt sạch hữu lậu. Này Bà la môn, ta không đứng dậy, cho đến khi chấm dứt hữu lậu. Này Bà la môn, ta đã giải thoát dâm dục, giải thoát các pháp ác bất thiện, tự giác, tự hành, được ái hỷ, đạt được Sơ thiền, thành tựu an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta đạt được pháp tư duy thứ nhất, thấy pháp, an lạc trụ, có lạc hạnh, không mất sự an trụ yên ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, sau khi ta chấm dứt tự giác hành, bên trong có tin vui, ý được chuyên nhất, không giác không quán, có sự hoan hỷ do định sanh, đạt đến Nhị thiền, chánh thọ an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tâm tư duy thứ hai, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta không đắm trước ái hỷ, thủ hộ ý, niệm đẳng tri, thân được an lạc, đó gọi là điều Thánh quán, điều Thánh hộ niệm, trú trong an lạc, đạt đến Tam thiền, thành tựu an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tư duy thứ ba, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta diệt lạc, diệt khổ, bỏ sự hoan hỷ, diệt ái ở trước, không khổ không lạc, giữ ý thanh tịnh, đạt được Tứ thiền, an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, lúc đó ta đạt được sự tư duy thứ tư, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, nhờ Tam muội này, ý ta thanh tịnh, trong sạch, không có kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, nhờ Túc mạng trí đã chứng đắc để tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhớ vô lượng đời trước đã qua, có hành động và có lời nói thế nào. Nghĩa lại ta nhớ lại một lần sanh, hai lần sanh, trăm lần sanh, ngàn lần sanh, hoặc một kiếp, nửa kiếp, vô lượng kiếp, các chúng kia tên này, họ này, tánh tình như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, thọ mạng dài, ngắn, chết ở đây sanh ở kia, chết ở kia sanh ở đây. Tại đó ta tên này, họ này, ăn món ăn như vậy, thọ mạng dài ngắn như vậy. Này Bà la môn, ngay lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng Thánh trí minh đạt thứ nhất. Nhờ không phóng dật, nên được đắc định, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh. Tối tăm tiêu trừ, ánh sáng xuất hiện, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc trí Túc mạng minh.

 Lại nữa, này Bà la môn, nhờ vào Tam muội, ý thanh tịnh, trong trắng, không kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng đắc Thiên nhãn trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhờ vào Thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người thường. Ta thấy chúng sanh lúc sanh, lúc tử, tốt đẹp xấu xí, hoặc sanh đến chỗ thiện hay chỗ ác, tùy theo nghiệp mà chúng sanh đã tạo, ta biết đúng như sự thật rằng: chúng sanh này với thân làm ác, miệng làm ác và ý nghĩ ác, phỉ báng bậc Thánh, tà kiến, do nhân đó duyên đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh nào thân làm việc thiện, miệng nói điều thiện và ý nghĩ điều thiện, có tín, có thiện hạnh, chánh kiến, cùng tương ưng với chánh kiến, do nhân đó duyên đó, khi thân hoại mạng chung được đến chỗ thiện, sanh lên cõi trời. Này Bà la môn, lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng trí minh đạt thứ hai này. Nhờ không phóng dật, nay được định hạnh, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh, mê ám tiêu tan và ánh sáng thành tựu, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc Trí Thiên nhãn minh.

 Này Bà la môn, ta nhờ Tam muội này, ý được thanh tịnh trong sáng, không trói buộc, trừ các trói buộc, thực hành nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng được hữu lậu tận trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta biết như thật rằng: “Ðây là khổ”, biết như thật rằng: “Ðây là khổ tập”, “Khổ tận”, “Khổ tận trụ xứ”. Biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu”, biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu tập”, “Hữu lậu tận”, “Hữu lậu tận xứ”. Ta biết như thế, thấy như thế, tâm giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và si lậu. Sau khi giải thoát thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ danh sắc đời trước”. Này Bà la môn, bấy giờ vào đêm đó ta chứng được ba Minh. Nhờ không phóng dật nên nay được định hạnh, vô trí diệt và trí phát sanh, vô minh dứt và minh xuất hiện. Nghĩa là ta chứng đắc được Minh đạt hữu lậu tận trí.

 Lại nữa, này Bà la môn, đó là nếu có ai với sự thuyết giảngthuyết giảng không có ngu si, đối với chúng sanh sanh ra ở thế gian, ở giữa tất cả chúng sanh vị ấy là tối thắng, thoát ly khỏi khổ lạc. Này Bà la môn, nên biết rằng, vị thuyết giảng chơn chánh ấy là ta. Vì sao này Bà la môn, ta là người không ngu si, xuất hiệnthế gian, đối với chúng sanh trên thế gian này ta là tối thắng, không bị khổ lạc chi phối.

 Bấy giờ Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã bỏ gậy xuống đất, cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, ở trước đức Thế Tôn, tán thán đức Thế Tôn:

 –Thế Tôn là tối thắng, Thế Tôn là tối diệu, Thế Tôn là tối vi diệu, Thế Tôn là không ai bằng, không ai sánh bằng Thế Tôn. Thế Tôn không có tai hoạn, Thế Tôn không sân hận với người, trời. Bạch Thế Tôn, nay con tự quy y PhápTỳ kheo tăng. Mong đức Thế Tôn ngày hôm nay nhận con làm Ưu bà tắc, bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời con xin xa lìa sát sanh... ngày hôm này con xin tự quy y.

 Ðức Phật thuyết như vậy, Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT THUYẾT KINH HỌC CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33154)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6536)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12163)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12237)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12791)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34728)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52247)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10728)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10496)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10457)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13063)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21818)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9605)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11733)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16286)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12685)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11790)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12614)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14985)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11951)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20668)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13206)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10930)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20681)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20355)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17645)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant