Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14044)
Kinh Ưu Bà Di Đọa Xá Ca


PHẬT NÓI KINH ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0088 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ bản đời Tống

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật dừng chân ở phái Ðông thành, nước Xá vệ. Bấy giờ có một người con của nữ nhân tự là Vu da lâu, người đời gọi là Vu da lâu mẫu. Ðức Phật ngồi trên điện nhà của Vu da lâu mẫu. Có một người nữ phụng trì giáo giới tên tự là Ðọa xá ca, vào lúc sáng sớm ngày mười lăm trong tháng, thức dậy tắm rửa, cùng bảy người con, vợ đều tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, nhân buổi sáng ngày ăn cơm, ăn xong rửa tay, dẫn bảy người con, vợ đến trước đức Phật để đảnh lễ. Ðức Phật bảo ngồi xuống, tất cả đều ngồi xuống. Ðức Phật hỏi Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Tại sao hôm nay tất cả đều tắm rửa, mặc áo mới, cùng với con, vợ, đồng đến chỗ Phật.?

Ðọa xá ca thưa:

–Hôm nay là ngày mười lăm, chúng con trai giới. Con nghe một tháng phải trai giới sáu ngày, cho nên con cùng con, vợ, đồng trai giới, không dám giải đãi khinh mạn.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Trai pháp chơn chánh của Phật có tám giới khiến cho con người được độ thoát, không đọa vào ba chỗ ác, sanh ở đâu cũng thường có phước đức che chở, cũng nhờ nhân duyên tám giới bổn này mà đưa đến thành Phật.

Những gì là trai pháp chơn chánh của Phật? Thế gian có người hiền thiện giữ giới, một tháng có sáu ngày trai tịnh: ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày hai mươi ba, ngày hai mươi chín và ngày ba mươi. Ngày trai tịnh sáng sớm thức dậy bảo các người trong nhà:

–Ngày hôm nay ta trai tịnh, trong (một) ngày này cả nhà chớ có uống rượu, chớ có đấu tranh, chớ có nói chuyện tiền tài. Cả nhà, ý nghĩ miệng nói phải như A-la-hán. A-la-hán không có ý sát sinh, ngày trai tịnh giữ giới cũng phải như A-la-hán, không có ý sát sinh, không có ý đánh đập, nghĩ thương súc sanh và côn trùng, khiến cho thường phát sanh tâm ý như bậc A-la-hán.

Ðó là ý thứ nhất. Ngày và đêm hôm nay giữ gìn ý sát, khiến cho không sát, giữ ý như vậy là giới thứ nhất của Phật.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh giữ ý phải như A-la-hán không có tâm tham, không có tham luyến thế gian, không có ý tham dù đó là một sợi lông, cọng rau. như vậy ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán, người giàu có thường nghĩ đến việc bố thí, người nghèo khó chẳng có gì, vẫn luôn luôn nghĩ đến việc bố thí. Ðó là giới thứ hai.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán, A-la-hán không chấp chứa phụ nữ, cũng không nghĩ đến vợ, cũng không ham thích nữ nhơn, cũng không có ý dâm. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ ba.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh, giữ ý phải như A-la-hán, không nói dối, không có ý làm thương hại người. Khi nói là nói kinh Phật, lúc im lặng chỉ nghĩ đến các điều thiện. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ tư.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không uống rượu, không nghĩ đến rượu, không nhớ đến rượu, dùng rượu là xấu ác. Như vậy là ngày trai tịnh giữ ý như A-la-hán. Ðó là giới thứ năm.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. Ý A-la-hán không thích ca múa, dù có nghe cũng không thích tiếng âm nhạc, cũng không thích mùi hương hoa. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ sáu.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán không nằm giường cao đẹp, ý cũng không nghĩ đến việc nằm trên giường cao đẹp. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ bảy.

Ðức Phật dạy:

–Ngày trai tịnh phải giữ ý như A-la-hán. A-la-hán ăn đúng ngọ, sau giờ ngọ, đến sáng không được ăn lại. Ðược phép uống nước mật đường. Ngày trai tịnh giữ ý như vậy giống như A-la-hán. Ðó là giới thứ tám

Ðức Phật lại bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Thế gian có người đầu tóc dơ dáy, phải tự mình gội rửa đầu tóc. Gội rồi người đó liền vui mừng nói: “ Ðầu của ta đã hết cáu” Có người giữ tám giới này trong một ngày một đêm, trời sáng liền mừng, vui mừng liền nghĩ đến giới kinh của Phật như vậy. Nếu ở trong tâm con người có ý ác liền bỏ, thiện ý được sanh.

Ðức Phật dạy:

–Có người thân thể dơ bẩn phải vào nước để tắm rửa, thân thể đã được sạch sẽ, ra khỏi nước vui vẻ nói: “Thân ta hết bụi được nhẹ nhàng”. Nếu có người thọ trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng nghĩ đến lời chơn chánh của Phật, tự nghĩ khi nào được đắc đạo, khiến cho tâm ta được bất động không còn giong ruổi nữa, khiến cho tâm chí ta một lòng được đạo vô vi.

Ðức Phật dạy:

–Có người áo bị nhiều dơ bẩn, dùng nước tro để tẩy giặt sạch, người đó liền vui mừng. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, trời sáng liền vui mừng, bèn nghĩ đến tỳ kheo tăng: “Trong tỳ kheo tăng có Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán”. Niệm tỳ kheo tăng là như vậy.

Ðức Phật dạy:

–Như người có tấm gương bị dơ bẩn, lau chùi chất dơ bẩn đi thì gương liền sáng ra. Có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, có tâm từ bi đối với thiên hạ, tâm được mở ra như mặt trời, như gương sáng, không còn ý sân hận. Nếu có người thọ trì trai giới trong một ngày một đêm, xót thương thiên hạ, lắng lòng tự suy nghĩ, tự giữ ý cho ngay thẳng, tự nhớ nghĩ những điều xấu ác ở trong thân như vậy. Như vậy là không còn sân hận nữa.

Ðức Phật bảo Ưu bà di Ðọa xá ca:

–Giữ tám giới tịnh này trong một ngày một đêm đừng cho thất thoát còn hơn là đem vàng bạc châu báu cúng dường cho tỳ kheo tăng vậy. Trong thiên hạ có mười sáu nước:

1- Ương Ca

2- Ma kiệt

3- Ca Di

4- Câu Tịch La

5- Cưu Lưu

6- Bát Xà Trà

7- A Ba Da

8- A Hoan Ðề Du

9- Chỉ Ðề Du

10- Việt Kỳ Du

11- Tốc Ma

12- Tốc Lại Tra

13- Việt Ta

14- Mạt La

15- Du Nặc

16- Kiếm Thiện Ðề.

Nếu đem bảo vật châu báu của mười sáu nước này để cúng dường tỳ kheo tăng cũng không bằng giữ trai giới trong một ngày một đêm. Giữ trai giới khiến cho người được giải thoát cuộc đời, còn đem tài vật để bố thí không thể khiến cho người ta được đắc đạo. Nay ta được Phật đạo cũng nhờ tám giới này vậy.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Người trong thiên hạ phần nhiều lo việc gia đình, vì vậy ta đem pháp môn này khiến cho họ trong một tháng, sáu ngày trai tịnh giữ tám giới, nếu có người hiền thiện muốn mau được đạo A-la-hán. Nếu muốn mau đạt đạo A-la-hán, nếu muốn được sanh lên trời, phải tự ngay thẳng tâm mình, giữ ý cho chuyên nhất, một tháng mười lăm ngày trai tịnh cũng tốt, hai mươi ngày trai tịnh cũng tốt. Nhiều người lo việc gia đình cho nên mỗi tháng giữ sáu ngày trai tịnh, bảy ngày trai tịnh ấy, thí như nước biển không thể đong lường được. Nếu ai giữ trai giới trong một ngày một đêm, phước đức người đó không thể tính được.

Ðức Phật bảo Ðọa xá ca:

–Hãy đưa vợ, con trở về, tụng niệm tám giới trai pháp chơn chánh này.

Ưu bà di Ðọa xá ca đến trước đức Phật đảnh lễ rồi lui ra.

 

PHẬT NÓI KINH “ƯU BÀ DI ÐỌA XÁ CA”.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33290)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30444)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7993)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12216)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11615)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12846)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34807)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52281)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10761)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21861)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9634)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7136)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12779)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16246)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16545)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13876)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16611)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13845)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14338)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9223)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16349)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14365)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16210)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11805)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15004)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11971)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20738)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13246)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10975)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20725)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14378)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31868)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant