KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bản Duyên, Kinh số 0189
Nguyên tác Hán ngữ [1] [2] [3] [4]
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, người Thiên trúc
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Quyển 1
Tôi được nghe
như vầy:
Một thời Phật
cùng chưTỳ-kheo trú ở vườn Trúc tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước
Xá-vệ. Các vị Tỳ-kheo mỗi sáng thường mặc ca-sa, ôm bình bát đi vào thành khất
thực, xong về thọ trai rồi mỗi vị lửa tay xếp y, cất bát. Hôm ấy chư vị cùng tụ
họp tại giảng đường bàn về nhân duyên trong quá khứ.
Bấy giờ, Đức
Thế Tôn bằng thiên nhĩ thanh tịnh siêu thế nghe được lời luận bàn của các
Tỳ-kheo, liền rời khỏi chỗ ngồi đến giảng đường, ngồi vào giữa đại chúng rồi
lên tiếng hỏi các Tỳ-kheo:
-Các ông họp
nhau ở đây muốn nói pháp gì?
Khi ấy các
Tỳ-kheo liền thưa với Phật:
-Bạch Đức Thế
Tôn, chúng con sau khi ăn xong, rửa tay chân rồi tập họp ở đây, ai cũng muốn
nghe nói về nhân duyên quá khứ.
Khi ấy Đức Thế
Tôn bảo các vị Tỳ-kheo:
-Các ông thích
nghe những việc nhân duyên trong quá khứ thì nên chăm chú lắng nghe và suy nghĩ
thật kỹ. Nay Ta sẽ vì các ông mà giảng nói.
Các Tỳ-kheo
thưa:
-Thưa vâng.
Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin vui thích lắng nghe.
Phật dạy:
-Này các
Tỳ-kheo, trong quá khứ vô số a-tăng-kỳ kiếp có vị Tiên nhân tên là Thiện Tuệ
chuyên tu phạm hạnh để cầu được Nhất thiết chủng trí, vì muốn thành tựu đại trí
này nên vui sướng ở trong cõi sinh tử dạo quanh năm đường, hễ thân này mất thì
thân khác sinh tử vô lượng, giả sử có người chặt hết cây cỏ trong thiên hạ để
tính số thân mà vị Tiên này đã trải qua cũng không hết được. Cứ một lần trời
đất trải qua một chu kỳ thành hoại là tính một kiếp, nhưng vị Tiên ấy đã trải
qua không biết bao nhiêu kiếp như thế, do vì thương chúng sinh đắm chìm trong
ái dục, trôi lăn trong biển khổ nên người phát tâm từ bi muốn cứu vớt tất cả.
Người thường nghĩ: “Chúng sinh chìm trong sinh tử không thể tự giải thoát được
đều do tham dục, giận dữ và ngu si, chìm đắm trong sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp. Ta nguyện dứt trừ căn bệnh ấy dù phải sinh vào các đường vẫn không quên
tâm niệm này”. Bằng tâm bình đẳng xem oán thân như nhau, vị Tiên nhân dùng hạnh
bố thí cứu kẻ bần cùng, dùng trì giới giáo hóa kẻ phá giới, dùng nhẫn nhục thu
phục kẻ hay giận dữ, dùng tinh tấn khích lệ kẻ biếng lười, dùng thiền định giáo
hóa kẻ tâm trí tán loạn, dùng trí tuệ khơi mở cho kẻ ngu si... Trong đêm dài
sinh tử, Ngài đã làm lợi ích cho chúng sinh như thế, khiến cho tất cả đều quay
về nương vào các Đấng Như Lai, cung kính cúng dường, ưa thích nghe pháp và
thường nói pháp cho người khác nghe. Đối với chư Tăng thì thường cúng đủ các
thứ nhu cầu, đốì với Phật pháp thì tôn trọng giữ gìn... Những hạnh như vậy
không biết bao nhiêu mà kể.
Lúc bấy giờ có vị vua tên là Đăng
Chiếu, thành của vua tên là Đề-bá-bà-để, nhân dân trong nước ấy thọ tám vạn
tuổi, cuộc sống vô cùng an ổn và thịnh vượng, muốn gì cũng toại ý chẳng khác gì
chư Thiên. Quốc vương nước ấy dùng chánh pháp để cai trị, không quấy nhiễu, hà
khắc người dân, không có những hình phạt như chém giết, đánh đập, luôn xem dân
như con một. Khi ấy vua Đăng Chiếu sinh được một Thái tử có hình tướng đoan
nghiêm không ai sánh bằng, uy đức đầy đủ với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp. Ngày Thái tử ra đời bỗng hiện ra ánh sáng rực rỡ khắp nơi át cả ánh mặt
trời, mặt trăng và những đèn lửa khác. Nhà vua thấy thế bèn họp quần thần bảo:
-Thái tử lúc
mới sinh đã có những điềm lạ như vậy, nên đặt tên cho Thái tử là gì?
Quần thần đáp:
-Nên đặt tên
cho Thái tử là Phổ Quang.
Vua còn mời
thầy tướng vào đoán tương lai cho Thái tử. Được mời đến hỏi, vị tướng sư đáp:
Thần nay xem
Thái tử nếu sau này ở tại gia sẽ lên ngôi Chuyển luân thánh vương thống trị bốn
châu thiên hạ, còn nếu xuất gia sẽ được trời người cung kính và thành Bậc Nhất
Thiết Trí.
Vua cùng phu
nhân và các cung tần mỹ nữ nghe thầy tướng nói thế càng sinh lòng yêu kính Thái
tử hơn nữa, lại được cả Thiên, Long A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân cung kính cúng dường, ngợi khen.
Khi còn ở chốn
hậu cung, Thái tử đã nói các pháp cho phu nhân và các thể nữ nghe. Khi được hai
vạn chín ngàn tuổi, Thái tử liền bỏ ngôi Luân vương, xin cha mẹ đi xuất gia,
nhưng không được phép. Thái tử xin đến ba lần cũng không được chấp nhận. Thái
tử là người giàu lòng từ bi, lại là người con chí hiếu nên thà chịu sự sai trái
nhỏ để thành tựu được việc lớn. Ngài liền vào rừng sâu, dưới một cội cây cạo bỏ
râu tóc, mặc pháp phục, tu hành khổ hạnh trải qua sáu ngàn năm thì chứng quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi vì trời người và tám bộ chúng vận chuyển bánh
xe pháp, thuyết pháp sâu xa mầu nhiệm mà tất cả thế gian, trời, người, ma quỷ
đều không thể chuyển được. Phật dùng pháp Tam thừa hóa độ chúng sinh làm cho
được lợi ích không sao kể xiết.
Khi vua và phu nhân cùng các cung tần
thể nữ biết được Thái tử Phổ Quang đã đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác thì rất vui mừng. Các quan trong triều, dân chúng và các vị Bà-la-môn nghe
tin Thái tử đắc đạo, mỗi người đều tự nghĩ: “Thái tử Phổ Quang đã bỏ ngôi vị
vua Chuyển luân, cạo bỏ râu tóc, vận pháp phục, xuất gia tu đạo nay đã thành
Bậc Chánh Giác. Chúng ta cũng nên xuất gia”. Suy nghĩ xong, tất cả đều đến chỗ
Phật Phổ Quang.
Đức Phổ Quang
Như Lai lúc ấy biết căn duyên của họ đã thành thục nên tùy duyên mà thuyết pháp
hóa độ khiến cho bốn ngàn người đắc quả A-la-hán. Nhân dân trong nước và của
các nước khác ở bốn phương cũng đến trong hội để nghe pháp, có đến tám vạn
người đạt Vô trước pháp nhẫn.
Bấy giờ Đức Như
Lai Phổ Quang cùng tám vạn bốn ngàn vị La-hán đến các nước để giáo hóa. Vua cha
nghe tin rất vui mừng liền ra lệnh cho nhân dân sửa sang đường sá, rưới nước
thơm trên đường, lại treo cờ, lọng, báu bằng gấm lụa, tung rải các loại hoa quý
dọc hai bên đường rất trang nghiêm suốt mười hai do-tuần, lại cho đánh trống
kêu gọi mọi người trong nước không được bán hoa mà nên đem đến cho vua cúng
dường Phật, vua cũng ra lệnh cho dân chúng không được cúng dường Phật trước
vua, lại cho một vị đại thần cùng các nhạc công tấu nhạc, đốt hương, tán hoa
rồi đến thỉnh Phật.
Tiên nhân Thiện
Tuệ lúc ấy đang ở trong núi ngủ mơ thấy năm giấc mộng đặc biệt: một là thấy
thân nằm trên biển cả, hai là thấy thân nằm gốì đầu lên núi Tu-di, ba là thấy
chúng sinh trong biển cả chui vào thân, bốn là thấy tay cầm mặt trời, năm là
thấy tay nắm mặt trăng. Những giấc mơ ấy làm cho Tiên nhân kinh ngạc tỉnh giấc,
trong lòng suy nghĩ: “Giấc mộng hôm nay của ta không phải chuyện bình thường
nhưng giờ biết hỏi ai? Ta nên vào kinh thành hỏi những bậc Thức giả”. Nghĩ xong
Tiên nhân liền khoác áo da nai, tay cầm bình nước, gậy, dù che đi vào thành.
Trên đường đi, ngang qua chỗ ở của năm trăm vị thượng thủ ngoại đạo, Thiện Tuệ
nghĩ: “Ta nên đem giấc mộng hỏi những người này, đồng thời xem họ tu hành thế
nào”. Nghĩ rồi liền vào cùng những người ngoại đạo ấy giảng luận đạo lý, phá bỏ
những ý kiến khác lạ làm cho năm trăm người chịu khuất phục xin làm đệ tử và
rất tôn kính Tiên nhân, mỗi người dâng cúng một đồng bạc, lại có năm trăm vị
ngoại đạo khác thấy Thiện Tuệ biện tài thông minh nên sinh tâm vui theo. Trong
lúc trò chuyện, họ cho hay nay có Đức Như Lai Phổ Quang ra đời. Tiên nhân Thiện
Tuệ nghe được lời đó toàn thân giật bắn, lông dựng đứng, lòng vô cùng vui mừng
vội chia tay với chúng ngoại đạo. Các vị ngoại đạo hỏi:
-Thầy muốn đi
đâu?
Tiên nhân đáp:
-Ta nay muốn
đến cúng dường Đức Phật Phổ Quang.
Họ đều nói:
-Nếu Thầy đi,
chúng tôi xin đi cùng.
Thiện Tuệ nói:
-Nay ta có
duyên sự cần phải đi trước.
Thiện Tuệ mang
năm trăm đồng bạc vội lên đường ra đi, các vị ngoại đạo buồn bã, bịn rịn từ giã
trở về.
Thiện Tuệ đến
nơi thấy người của nhà vua đang sửa sang đường đi, rưới nước thơm trên đất,
treo tràng phan bảo cái trang nghiêm, liền hỏi:
-Vì sao phải
chuẩn bị trang nghiêm thế này?
Người của nhà
vua đáp:
-Có Đức Phật ra
đời hiệu là Phổ Quang, nay vua Đăng Chiếu thỉnh Phật vào thành nên chúng tôi
phải gấp rút chuẩn bị, quét dọn, trang hoàng đường phố thật trang nghiêm.
Thiện Tuệ lại
hỏi:
-Ông biết ở đâu
bán hoa đẹp không?
Đáp:
-Vua Đăng Chiếu
đã cho đánh trống truyền lệnh các loài hoa quý trong nước không được bán mà
phải đem tất cả đến cho nhà vua.
Thiện Tuệ nghe
thế trong lòng rất buồn, nhưng ý định mua hoa không bỏ, vất vả đi hỏi khắp nơi
tìm chỗ bán hoa, tình cờ gặp được một thể nữ trong cung vì sợ lệnh vua nên dấu
kín bảy cành hoa sen trong bình đi ngang qua. Do lòng chí thành của Thiện Tuệ
những cành hoa bỗng trồi lên, vượt ra ngoài bình. Thiện Tuệ từ xa trông thấy
liền chạy vội theo kêu lớn:
-Xin chị dừng
chân, hoa đó có bán không?
Nàng thể nữ
nghe thế rất ngạc nhiên nghĩ: “Ta giấu hoa rất kín, tại sao người này thấy mà
hỏi mua?”, nhưng khi nhìn vào bình thấy quả là hoa đã ló ra ngoài, trong lòng
cảm thấy rất lạ, trả lời:
-Thưa anh, hoa
sen xanh này tôi đem vào cung để cúng Phật không thể bán được.
Thiện Tuệ nói:
-Cô nhường lại
cho tôi năm cành hoa với giá năm mươi đồng bạc được không?
Nàng thể nữ
trong lòng nghi hoặc, thầm nghĩ: “Hoa này chỉ đáng giá vài đồng thế mà chàng
trai này lại đòi mua năm cành với giá đến năm mươi đồng bạc”. Nên liền hỏi:
-Anh dùng hoa
này để làm gì?
Thiện Tuệ đáp:
-Nay có Đức Như
Lai ra đời, vua Đăng Chiếu thỉnh Phật vào thành nên tôi cần mua hoa này để cúng
dường Phật. Chị nên biết các Đức Phật, Như Lai rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm lâu
lắm mới nở một lần.
Cô gái lại hỏi:
-Anh cúng dường
Như Lai để cầu điều gì?
Thiện Tuệ đáp:
-Tôi cúng dường
Phật vì muốn đạt được Nhất thiết chủng trí để độ thoát vô lượng chúng sinh.
Lúc ấy cô gái
nghe Thiện Tuệ nói xong liền suy nghĩ: “Chàng trai này dáng mạo trang nghiêm,
thanh nhã, mặc áo da nai, có lòng thành kính đến nỗi không tiếc tiền bạc như
thế”. Liền nói với Thiện Tuệ:
-Nay tôi xin
tặng anh các đóa hoa này và nguyện đời đời được sánh duyên cầm sắc.
Thiện Tuệ đáp:
-Tôi tu Phạm
hạnh, cầu đạo giải thoát nên không thể hứa nhận việc nhân duyên sinh tử.
Nàng thể nữ
nói:
-Nếu không chấp
nhận lời tôi thì anh không có hoa.
Thiện Tuệ nói:
-Nếu cô khăng
khăng không chịu bán hoa thì tôi nhận lời cô, nhưng tôi có lập nguyện luôn bố
thí thuận theo ý muốn của người xin, nếu sau này có người đến xin tôi bố thí
đầu, mắt, xương, tủy, hoặc vợ con thì cô không được trái với hạnh nguyện của
tôi.
Cô gái đáp:
-Thật là tốt
lành! Xin tuân theo lời. Nay tôi là phụ nữ yếu ớt không đi nhanh được, nếu anh
đến trước, xin mang giùm tôi hai cành hoa này dâng lên cúng Phật, để Phật gia
hộ tôi đời đời không quên lời nguyện, dù đời sau anh có đẹp xấu vẫn không rời
xa, luôn ghi khắc trong lòng.
Bấy giờ vua
Đăng Chiếu cùng các con, quan lại, Bà-la-môn... đem đầy đủ hương thơm hoa đẹp
và nhiều thứ khác ra khỏi thành nghinh tiếp Đức Phật Phổ Quang, nhiều người dân
trong nước cũng đi theo. Lúc đó năm trăm đệ tử của Tiên nhân Thiện Tuệ cùng bàn
với nhau:
-Hôm nay đức
vua, các quan và dân chúng đều đến chỗ Phật, thầy chúng ta chắc cũng đi đến đó,
vậy chúng ta cũng nên đến đấy kính lễ Phật.
Bàn xong họ
liền khởi hành, đi được một đoạn không xa thì gặp Tiên nhân Thiện Tuệ. Thầy trò
gặp nhau vui mừng vô cùng, liền cùng nhau đến nơi Đức Phật Phổ Quang.
Đến nơi họ thấy
vua Đăng Chiếu đã đến, đang lễ bái và dâng cúng dường Phật đầu tiên, tiếp đến
là những đại thần cũng đến lễ và dâng cúng dường Phật. Những hoa quý mà vua
Đăng Chiếu và các quan dâng cúng khi rải lên đều rơi xuống đất cả. Lúc ấy Thiện
Tuệ và năm trăm đệ tử thấy mọi người cúng dường Phật xong, chàng chăm chú chiêm
ngưỡng dung nhan và những tướng tốt của Như Lai, lại càng muốn cứu vớt tất cả
nỗi khổ của chúng sinh và cũng mong thành tựu đầy đủ trọn vẹn Nhất thiết chủng
trí. Do ước nguyện đó nên khi năm cành hoa Thiện Tuệ rải ra liền trụ lại ở không
trung và biến thành một đài hoa, hai cành sen rải sau cũng trụ lại ở không
trung và chầu ở hai bên Đức Phật. Bấy giờ vua và quan, dân cũng như Thiên,
Long, Dạ-xoa, Càn-tbát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân
và Phi nhân... thấy điều kỳ lạ ấy đều ngợi khen cho là điều chưa từng có. Lúc
ấy Đức Phổ Quang Như Lai dùng trí tuệ vô ngại khen ngợi Thiện Tuệ:
-Quý hóa thay!
Này thiện nam tử, ông tu theo hạnh này trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp sau này
sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Khi Tiên nhân
Thiện Tuệ được Phật thọ ký, có vô lượng Thiên, Long, A-tu-la, Ca-lâu-la,
Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân... rải các loài hoa quý đầy trong
bầu trời rồi phát lời thệ nguyện: “Trong tương lai, khi Thiện Tuệ thành Phật,
chúng tôi đều nguyện làm quyến thuộc của người”. Lúc đó Đức Phổ Quang Như Lai
liền thọ ký cho họ đều sẽ được sinh ở quốc độ kia.
Sau khi Như Lai thọ ký xong, thấy Thiện
Tuệ để tóc của một Tiên nhân, thân mặc áo da nai, Ngài muốn làm cho Thiện Tuệ
bỏ các y phục ấy liền biến vùng đất thành một vũng bùn. Thiện Tuệ thấy Phật
muốn đi ngang vũng đất bùn dơ lấm, vội suy nghĩ: “Ta sao lại để cho bàn chân có
hàng ngàn đường vằn bánh xe của Như Lai phải bước đi trên vũng sình này ?” Nghĩ
thế nên chàng liền cởi chiếc áo da nai trải lên vũng lầy, nhưng không phủ kín
được hết, Tiên nhân liền xỏa tóc phủ kín chỗ đất bùn còn lại, Đức Như Lai liền
bước lên trên ấy đi qua, nhân đó lại thọ ký:
-Ông sau này sẽ
thành Phật trong cõi ngũ trược ác thế nhưng việc hóa độ trời người không vì thế
mà khó khăn, chắc chắn sẽ được như Ta vậy.
Khi ấy Thiện
Tuệ nghe Phật thọ ký như thế rất vui vẻ phấn chấn, mừng vui vô hạn, lập tức
liễu ngộ pháp Không, thành bậc Vô sinh nhẫn, thân vọt lên cao hơn bảy lần cây
Đa-la, nói kệ ngợi khen Đức Phật:
Nhờ có
bậc đạo sư
Khiến con được
tuệ nhãn
Dạy con pháp
thanh tịnh
Xa lìa mọi chấp
trước
Gặp đấng Thiên
nhân Tôn
Nên chứng vô
sinh nhẫn
Nguyện sau này
thành đạo
Được như Đấng
Lưỡng Túc
Thiện Tuệ nói
kệ ngợi ca Đức Phật xong, từ không trung hạ xuống đến trước Phật năm vóc cúi
sát đất cung kính đảnh lễ và thưa:
-Kính xin Đức
Thế Tôn thương xót châp thuận cho con được xuất gia.
Lúc ấy Đức Phổ
Quang Như Lai bảo:
-Quý hóa thay!
Lành thay Tỳ-kheo!
Râu tóc của
Thiện Tuệ tự rụng, cà-sa mặc lên thân mà thành Sa-môn. Lúc ấy có hai ông lão
nghèo, mỗi người này đều có một trăm người thân đi theo dự hội. Hai ông lão
thấy Phật tướng tốt, oai đức nghiêm trang, tự thấy khổ tâm vì quá nghèo không
có gì để cúng dường Phật. Đức Phật từ bi biết được tấm lòng chí thành của họ
nên biến vùng đất phía trước trở nên đầy cỏ rác dơ bẩn. Hai ông lão nhìn thấy
rất vui mừng phát tâm dọn quét, rưới nước sạch sẽ. Đức Như Lai Phổ Quang liền
thọ ký cho họ:
-Trong vô lượng
kiếp về sau, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất hiện tại thế gian, hai vị sẽ là
bậc Thanh văn đệ nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật ấy”.
Phật thọ ký cho
hai ông lão nghèo xong liền cùng với tám vạn bốn ngàn Tỳ-kheo và vua Đăng Chiếu
cùng tất cả dân chúng đi vào thành Đề-bá-bà-để. Vào thành xong vua Đăng Chiếu
cùng quyến thuộc phụng sự cúng dường Phật và tám vạn bốn ngàn vị Tỳ-kheo đủ các
nhu cầu cần thiết.
Đến năm bốn vạn
tuổi, nhà vua nhường ngôi cho con rồi cùng quyến thuộc của vua và phu nhân gồm
tám vạn bốn ngàn người cùng đến xin Phật xuất gia tu đạo và đều đạt được các
Tam-muội, Đà-la-ni.
Tỳ-kheo Thiện
Tuệ cũng đi theo Phật nhận sự cúng dường của nhà vua cho đến bốn vạn năm đốì
với các pháp đều đạt được Tam-muội sâu xa, hóa độ vô số chúng sinh. Một hôm
Thiện Tuệ thưa với Đức Phật:
-Bạch Thế Tôn,
trước đây, khi con còn tu trong núi đã thấy năm giấc mộng, xin Đức Thế Tôn giải
thích cho con hiểu.
Tỳ-kheo Thiện
Tuệ liền kể rõ năm giấc mộng. Phật dạy:
-Lành thay! Nếu
ông muốn hiểu ý nghĩa của các điềm mộng đó, ta sẽ nói rõ cho ông. Thấy nằm
trong biển cả tức là ông sẽ ở trong biển lớn sinh tử. Thấy nằm gối lên núi
Tu-di là điềm báo rằng ông sẽ ở trong sinh tử đạt Niết-bàn. Thấy chúng sinh
trong biển lớn chui hết vào thân ông tức là nhờ ông mà chúng sinh trong bể sinh
tử sẽ được quy y đạo pháp. Thấy tay cầm mặt trời tức là ông sẽ đạt trí tuệ, hào
quang chiếu khắp thế giới. Còn thấy tay cầm mặt trăng tức là ông sẽ đi vào cõi
sinh tử dùng các pháp phương tiện mát dịu hóa độ chúng sinh, khiến chúng sinh
thoát khỏi khổ não. Các giấc mộng ấy đều báo trước tương lai ông sẽ thành Phật.
Tỳ-kheo Thiện
Tuệ nghe Phật dạy xong, lòng vui thích vô cùng liền cung kính đảnh lễ Phật rồi
lui ra. Sau đó một thời gian ngắn, Đức Phổ Quang Như Lai nhập Niết-bàn, Tỳ-kheo
Thiện Tuệ giữ gìn chánh pháp trong suốt hai vạn năm, dùng giáo lý tam thừa hóa
độ, đem lại lợi ích cho chúng sinh nhiều không kể xiết. Sau khi mạng chung,
Tỳ-kheo Thiện Tuệ sinh lên cõi trời làm một trong bốn vị Thiên vương, cũng dùng
pháp tam thừa hóa độ Thiên chúng. Hết thọ mạng ở cõi trời thì sinh xuống nhân
gian làm Chuyển luân thánh vương trị bốn châu thiên hạ, có đủ báy thứ báu: một
là bánh xe báu bằng vàng, hai làvoi trắng, ba là ngựa báu lông xanh, bốn là
viên minh châu báu, năm là ngọc nữ báu, sáu là vị thần cai quản các kho báu ở
thế gian, bảy là vị thần tướng thống lãnh thần binh. Vua có một ngàn người con
đều rất mạnh mẽ oai hùng, có thể hàng phục mọi đoàn quân thù địch. Vua cai trị
bằng chánh pháp, khiến nhân dân không ai phải lo buồn, thường đem mười điều
thiện giáo hóa nhân dân. Sau khi vua qua đời được sinh lên cõi trời Đao-lợi làm
vị Thiên chủ nơi này. Khi hết thọ mạng trở lại làm Chuyển luân thánh vương, sau
đó lại sinh lên cõi trời Phạm thiên thứ bảy. Cứ thế, có lúc sinh lên trời làm
Thiên vương, khi lại sinh ở thế gian làm vua Thánh, trải qua ba mươi sáu lần
như thế, rồi có lúc làm tiên, có lúc làm ngoại đạo lục sư, có lúc sinh vào dòng
Bà-la-môn, có lúc làm vị vua nước nhỏ, cứ thế luân chuyển không thể kể xiết.
Khi đầy đủ công
hạnh đạt quả vị Thập địa, là Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, gần đắc Nhất thiết chủng
trí, Bồ-tát Thiện Tuệ sinh sang cung trời Đâu-suât, có tên là Thánh Thiện Bạch.
Bồ-tát giảng nói chánh pháp hóa độ các vị Thiên chủ và chư Thiên khiến họ biết
được hạnh nguyện của vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Bồ-tát cũng hiện vô số thân ở
các quốc độ mười phương tùy duyên thuyết pháp độ sinh. Đến khi sắp hạ sinh để
tu tập thành tựu Phật quả, Bồ-tát đã xem xét năm điều: một là xem chúng sinh
căn tánh đã thành thục chưa, hai là đã đến lúc giáng sinh chưa, ba là xem quốc
thổ nào phù hợp, bốn là xem các dòng họ nào cao quý, năm là xem nhân duyên
trong quá khứ ai thật xứng đáng là cha mẹ mình. Xem xét năm điều ấy rồi, Bồ-tát
suy nghĩ: “Những chúng sinh hôm nay chính là những chúng sinh mà khi Ta mới
phát tâm đã nguyện độ, nay căn tánh họ đã thành thục có thể thấu hiểu và tu
theo pháp vi diệu thanh tịnh. Trong Tam thiên đại thiên thế giới chỉ có vương
thành Ca-tỳ-la ở cõi Diêm-phù-đề là trung tâm, trong các dòng họ thì họ
Thích-ca là dòng họ đứng đầu trong dòng dõi của Thánh vương Cam Giá ngày xưa”.
Lại xét các đời quá khứ của vua Bạch Tịnh và phu nhân đều rất đoan chính, thật
xứng đáng làm cha mẹ của Ngài. Bồ-tát lại xem xét về thọ mạng dài hay ngắn của
Ma-da phu nhân thì thấy phu nhân mang thai Thái tử đủ mười tháng, sau khi sinh
Thái tử, bảy ngày sau qua đời. Bồ-tát lại nghĩ: “Nếu Ta giáng sinh ngay bấy giờ thì chư Thiên sẽ không được nhiều lợi ích”, nên liền hiện năm tướng
để chư Thiên biết đã đến lúc Bồ-tát sắp hạ sinh tu hành thành Phật: một là mắt
Bồ-tát máy động, hai là hoa trên đầu héo đi, ba là áo dính bụi, bốn là dưới
nách mồ hôi xuất ra, năm là vui thích rời tòa của mình. Bấy giờ, chư Thiên thấy
Bồ-tát hiện ra những tướng lạ nên lòng rất kinh sợ, các lỗ chân lông trên người
xuất huyết như mưa cùng nói với nhau chắc không bao lâu nữa Bồ-tát sẽ xa chúng
ta. Bồ-tát lại hiện ra năm điềm lành: một là phóng hào quang lớn chiếu khắp Tam
thiên đại thiên thế giới; hai là địa cầu hiện ra mười tám tướng chấn động, núi
Tu-di, nước biển, các cung điện của chư Thiên đều rung động; ba là cung điện,
nhà cửa của chúng Ma vương đều biến mất; bốn là mặt trời, mặt trăng cùng các vì
sao không sáng được; năm là tám bộ chúng trời, rồng... thân thể đều rung động
không tự kiềm chế được.
Lúc ấy chư
Thiên ở cung Đâu-suất thấy Bồ-tát hiện năm tướng lạ, rồi nhìn ra bên ngoài lại
thấy năm điều lành hy hữu nên cùng nhau đến trước Bồ-tát đảnh lễ, thưa:
-Thưa Tôn giả,
hôm nay chúng tôi thấy những điều lạ, thân thể rung động không tự chủ được, xin
Bồ-tát giảng giải cho biết điều gì đã xảy ra.
Bồ-tát đáp:
-Này các thiện
nam tử, mọi vật ở đời đều vô thường. Ta không bao lâu nữa sẽ rời khỏi cung trời
giáng sinh ở cõi Diêm-phù-đề.
Chư Thiên nghe thế buồn bã khóc lóc,
lòng rất lo phiền, toàn thân ửng đỏ như hoa Ba-la-xà. Có vị không còn ưa thích
chỗ ngồi của mình nữa, có vị bỏ hết tất cả đồ trang sức, có người lảo đảo ngã
ra đất mê man, có người than thở cho nỗi khổ vô thường. Lúc đó có một Thiên tử
nói kệ:
Bồ-tát ở nơi
đây
Cho chúng tôi
pháp nhãn.
Nay sắp đi xa
rồi
Chúng tôi như
mù mắt
Cũng như muốn
qua sông
Bỗng dưng mất
cầu thuyền
Chẳng khác nào
trẻ thơ
Bỗng mất đi mẹ
hiền
Chúng tôi cũng
như vậy
Không còn nơi
tựa nương
Trôi dạt theo
sinh tử
Mãi không được xuất ly
Chúng tôi trong
đêm tối
Chìm đắm trong
ngu si
Mất Bậc Đại Y
Sư
Chúng tôi, ai
sẽ cứu
Nằm trên giường
vô minh
Mãi trầm trong
biển ái
Hết nghe được
giáo ngôn
Biết bao giờ giải thoát.
Bồ-tát thấy chư
Thiên buồn thảm ảo não, lại nghe bài kệ bày tỏ lòng lưu luyến như thế, nên dùng
giọng Từ bi vỗ về chư Thiên:
-Này các thiện
nam, con người có sinh phải có chết; yêu thương, hội họp phải có ngày xa cách.
Từ cõi trời sắc cứu cánh đến địa ngục Vô gián, tất cả chúng sinh đều bị lửa vô
thường thiêu đốt, do vậy các vị không nên chỉ vì Ta mà sinh quyến luyến thảm
sầu. Nay Ta và các vị chưa thoát khỏi lò lửa sinh tử, mọi người dù giàu nghèo,
sang hèn cũng đều không thoát khỏi điều đó.
Bồ-tát liền nói
kệ:
Các hành vô
thường
Là pháp sinh
diệt
Hết sinh diệt
rồi
Tịch diệt là
vui.
Bồ-tát bảo với
chư Thiên:
-Bài kệ này
chính là lời của tất cả chư Phật trong quá khứ đã nói. Tánh tướng của các hành
đều như vậy, các vị chớ có buồn rầu. Ta đã ở trong cõi sinh tử vô lượng kiếp
đến nay, chỉ còn một lần sinh tử nữa, không lâu Ta sẽ thoát khỏi các hành. Các
vị nên biết nay là lúc phải độ thoát cho chúng sinh nên Ta xuống nước Ca-tỳ-la
nơi cõi Diêm-phù-đề, sinh vào dòng họ Cam Giá thuộc họ Thích-ca của vua Bạch
Tịnh, sau đó lìa xa cha mẹ, vợ con, bỏ ngôi Chuyển luân vương xuất gia học đạo,
siêng năng tu tập khổ hạnh, hàng phục ma quân, đạt Nhất thiết chủng trí, giảng
nói diệu pháp mà tất cả thế gian trời người, chư ma cũng không thể giảng nói
được. Lại theo cách thức chư Phật quá khứ đã làm để đem lại lợi ích cho tất cả
trời, người, dựng lên ngọn cờ chánh pháp, bẻ gãy cờ ma đạo, làm khô cạn biển
phiền não, đưa chúng sinh đi vào tám đường chánh, dùng các pháp ấy khai ngộ cho
họ, lập đại pháp hội mời chư Thiên nhân đến, lúc ấy các vị cũng sẽ có mặt trong
pháp hội ấy, được ăn cơm pháp. Do nhân duyên ấy các vị không nên buồn rầu nữa.
Bồ-tát lại nói
kệ:
Trong thời gian
ngắn nữa
Ta xuống cõi
Diêm-phù
Tại thành
Ca-tỳ-la
Nơi cung vua
Bạch Tịnh
Xa song đường
thân quyến
Bỏ ngôi vị Luân
vương
Xuất gia tìm
học đạo
Đạt Nhất thiết
chủng trí
Cờ chánh pháp
dựng cao
Biển phiền não
sẽ cạn
Đóng kín cửa ác
đạo
Mở rộng tám
đường chánh
Lợi ích cả trời
người
Nhiều không sao
kể xiết
Vì những nhân
duyên ấy
Các vị chớ sầu
khổ.
Khuyên nhủ
xong, Bồ-tát từ các lỗ chân lông phóng ra luồng hào quang rực rỡ. Chư Thiên vừa
nghe lời kệ lại thấy hào quang nên hết sức vui mừng, tiêu tan mọi buồn khổ. Mọi
người đều nghĩ không lâu Bồ-tát sẽ thành Bậc Chánh Giác.
Bấy giờ Bồ-tát
thấy thời điểm giáng trần đã đến, liền cưỡi voi trắng sáu ngà rời cung
Đâu-suất, có vô lượng chư Thiên tấu các loại nhạc, thắp các loại hương quý, rải
các thứ hoa đi theo Bồ-tát tràn đầy hư không, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp
mười phương. Đúng ngày tám
tháng tư, khi sao mai vừa mọc, Bồ-tát liền giáng thần nơi thai mẹ.
Lúc ấy Ma-da
phu nhân trong giấc điệp, mộng thấy Bồ-tát cưỡi voi trắng sáu ngà từ không
trung đến nhập vào hông bên phải, thân hiện ra như ngọc lưu ly, thân thể phu
nhân an ổn khoan khoái như uống nước cam lộ, nhìn lại thân mình thấy sáng rực
rỡ như có mặt trời mặt trăng chiếu rọi, trong lòng vô cùng vui mừng. Thấy điềm
mộng xong phu nhân giật mình tỉnh giấc cho là giấc mộng hiếm có, liền đến cung
vua Bạch Tịnh thưa với nhà vua:
-Thiếp vừa nằm
mộng thấy một giấc mơ thật lạ lùng.
Vua nói:
-Ta cũng mơ
thấy có một luồng ánh sáng lớn, lại thấy phu nhân dung mạo khác hẳn ngày
thường. Phu nhân hãy nói về giấc mộng của mình xem sao.
Phu nhân dùng
lời kệ nói về giấc mộng của mình cho vua nghe:
Thấy người cưỡi
voi trắng
Trong sáng như
trời trăng
Đế Thích và
Phạm thiên
Đều cầm những
cờ báu
Thắp hương rải
hoa trời
Lại tấu các
Thiên nhạc
Đầy rẫy khắp
không trung
Quây quần mà
giáng trần
Đi vào hông
phải thiếp
Giống như ngọc
lưu ly
Nay trình với
đại vương
Điềm gì xin bày
tỏ.
Nghe phu nhân
kể về các điềm tướng tốt đẹp trong giấc mộng, vua Bạch Tịnh vui vẻ vô cùng,
liền truyền sai người mời một vị Bà-la-môn giỏi thuật tướng số đến cúng dường
hương hoa, trai thực. Sau khi cúng dường xong, vua và phu nhân thuật lại các
điềm lành đã thấy trong giấc mộng của hoàng hậu. Vua nói với vị Bà-la-môn:
-Xin ngài giải
thích xem giấc mộng đó có gì lạ thường?
Vị Bà-la-môn
nghe qua giác mộng liền thưa:
-Hoàng hậu đang
mang thai một Thái tử có các tướng tốt không thể nói hết. Nay chỉ nói sơ lược
cho Đại vương rõ. Đại vương nên biết vị Thái tử mà phu nhân đang mang thai
trong bụng kia chắc chắn sẽ làm vẻ vang cho dòng họ Thích của ngài. Khi nhập
thai có ánh sáng rực rỡ; lại có Đế Thích, Phạm thiên quây quần-đưa tiễn, đó là
điềm lành của Bậc Chánh Giác. Nếu không xuất gia, Thái tử sẽ là một vị Chuyển
luân thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, bảy thứ báu tự đến, có đủ một ngàn
người con.
Vua nghe lời
đoán của thầy tướng tự cảm thấy mình thật là may mắn, hạnh phúc vui vẻ cùng
cực, liền dùng vàng bạc, châu báu, voi ngựa, xe cộ cúng dường và ban một thôn
ấp cho vị thầy tướng Bà-la-môn. Ma-da phu nhân cũng ban cho vị ấy các thể nữ và
đồ châu báu của mình.
Từ khi Bồ-tát
giáng thai, Ma-da phu nhân thường ngày tu tập sáu pháp Ba-la-mật. Bà chỉ dùng
những món ăn, nước uống của chư Thiên đem đến nên không còn ưa thích vị ngon
của các món ăn uống ở thế gian. Bấy giờ Tam thiên đại thiên thế giới đều sáng
rực luôn. Những nơi mặt trời, mặt trăng chưa rọi tới thì lúc đó cũng rực sáng
khiến chúng sinh trong những cõi tối tăm bỗng được nhìn thấy nhau, họ bàn luận:
“Sao ở đây bỗng nhiên lại có chúng sinh?”. Cũng vào lúc ấy khắp Tam thiên đại
thiên thế giới rung chuyển theo mười tám cách, gió mát lành và hương thơm thổi
đến từ bốn hướng, người bệnh tật được lành, kẻ nhiều tham, sân, si cũng đều
dừng bớt.
Bấy giờ ở cung
trời Đâu-suất có vị Thiên tử suy nghĩ: “Nay Bồ-tát giáng sinh vào cung vua Bạch
Tịnh, vậy ta cũng hạ sinh nhân gian để khi Bồ-tát thành Phật ta sẽ là người đầu
tiên làm quyến thuộc của người, cúng dường và nghe Phật thuyết pháp”. Nghĩ rồi
vị Thiên tử ấy liền hạ sinh vào gia tộc Minh Nguyệt ở thành Vương xá. Có nhiều
vị Thiên tử cũng phát nguyện hạ sinh và các tầng lớp từ Chiên-đà-la đến hàng
vương gia vọng tộc. Có vị Thiên tử sinh vào nhà vương tộc ở nước Xá-vệ, có vị
sinh vào nhà vương tộc ở nước Thâu-la-quyết-xoa, có vị sinh vào nhà vương tộc ở
nước Độc tử, có vị sinh ở nhà vương tộc nước Bạt-la, có vị sinh vào gia đình
vương tước ở nước Lola, có vị sinh vào nhà vương tước ở nước Xoa-thi-la, hoặc
có vị sinh vào nhà vương tộc ở nước Câu-la-bà, có vị Thiên tử sinh ở gia đình
Bà-la-môn, có những vị sinh vào nhà các tầng lớp Trưởng giả, Cư sĩ, Tỳ-xá, Thủ-đà-la;
lại có năm trăm vị Thiên tử sinh vào dòng họ Thích. Tổng cộng có chín mươi chín
ức vị Thiên tử sinh xuống nhân gian. Lại có chư Thiên ở cõi trời Tha hóa tự tại
cho đến cõi Tứ Thiên vương cũng sinh xuống trần gian, số lượng không sao kể
xiết. Các vị Thiên vương ở cõi sắc giới và quyến thuộc cũng sinh xuống nhân
gian làm Tiên nhân.
Ngay khi còn
trong thai, Bồ-tát vẫn đi đứng nằm ngồi không chướng ngại và cũng không làm cho
mẹ đau đớn. Bồ-tát ở trong thai mẹ buổi sáng thuyết pháp cho chư Thiên ở cõi
sắc giới, buổi trưa thuyết pháp cho chư Thiên ở Dục giới, buổi chiều thuyết
giảng cho các loài quỷ thần, ban đêm cũng thế... Bồ-tát đã làm lợi ích cho vô
số chúng sinh.
Lúc Bồ-tát còn
trong thai, nếu có vị phu nhân hay thể nữ nào đến lễ bái cúng dường mà cầu chúc
Thái tử sau này thành vị Chuyển luân thánh vương thì lòng Bồ-tát không vui, còn
người nào cầu chúc sau này thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí thì Bồ-tát rất vui
mừng. Bồ-tát ở trong thai đến tháng thứ mười thì thân thể hoàn bị, các tướng
tốt hiện đủ và cũng khiến cho Thánh mẫu các căn an tịnh, thích ở nơi vắng vẻ,
không thích ở chốn náo nhiệt, ồn ào.
Khi ấy vua Bạch
Tịnh suy nghĩ: “Phu nhân mang thai đã đủ ngày tháng rồi nhưng sao không có dấu
hiệu gì báo sự sinh nở cả”. Vua vừa nghĩ thế thì phu nhân cho người đến thưa
vua là người muốn đến vườn hoa ngoạn cảnh. Vua nghe thế trong lòng rất vui
mừng, lập tức truyền cho quan quân dọn dẹp sạch sẽ vườn hoa Lâm-tỳ-ni, lại cho
cắt tỉa, sửa sang và thêm nhiều hoa đẹp trong vườn. Các dòng suối, ao tắm đều
làm cho trong sạch. Các bao lơn tầng cấp đều được trang hoàng bằng bảy thứ báu.
Trong vườn có những giống chim quý như Phỉ thúy, Oan ương, Loan phụng, Phượng
hoàng và những giống loại chim lạ khác.
Lại treo cờ
phướn, dựng lọng tá lì, rải hoa đốt hương, tấu nhạc, làm cho khu vườn thật
giống như vườn Hoan hỷ của trời Đế Thích. Vua còn truyền làm sạch sẽ nghiêm
trang những lối đi trong vườn, sửa soạn trang sức mười vạn cỗ xe thất bảo, mỗi
xe được chạm khắc, trang trí toàn những hình ảnh trang nghiêm đẹp đẽ. Bên ngoài
vườn có bốn đội binh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh. Lại tuyển
trong cung những thể nữ có dung nhan đoan chánh, không già, không trẻ, tâm tính
hiền hòa, thông minh sáng suốt, số lượng ước tính có tám vạn bốn ngàn người để
hầu hạ Ma-da phu nhân. Lại truyền tám vạn bốn ngàn đồng nữ thanh tú đeo chuỗi
quý đẹp và cầm hương hoa đến trước chờ nơi vườn Lâm-tỳ-ni. Lại truyền cho phu
nhân của các quan trong triều cũng đi theo hầu. Lúc Ma-da phu nhân lên xe, tất
cả đại thần và thể nữ chỉnh tề vây quanh cùng đi theo đến vườn Lâm-tỳ-ni. Tám
bộ chúng trời, rồng... khi ấy cũng đi theo đầy trên không trung. Khi phu nhân
vào vườn, các căn của người đều thanh tịnh, lại đúng mười tháng mang thai.
Lúc đó là ngày
mồng tám tháng tư, khi mặt trời vừa lên, phu nhân thấy cây đại thọ Vô ưu trong
vườn đang nở hoa đẹp đẽ, tỏa hương thơm ngất, cành lá sum suê, vô cùng xanh tốt
bèn đưa tay phải lên muốn vịn cành để hái hoa, Bồ-tát liền rời khỏi thai từ
hông phải của mẹ. Dưới cội cây Vô ưu lúc đó xuất hiện bảy đóa hoa sen lớn bằng
bánh xe, Bồ-tát liền tự đi bảy bước trên những đóa sen, đưa tay phải lên, nói
tiếng nói như tiếng Sư tử oai vệ:
-Từ trên trời
đến cõi nhân gian, Ta là tối tôn tối thắng. Vô lượng kiếp trôi lăn trong sinh
tử đến đây đã dứt, Ta sinh ra đời để đem lại lợi ích cho tất cả trời người.
Khi Thái tử nói
những lời ấy xong, bốn vị Thiên vương lập tức dùng tấm lụa trời đỡ thân Thái tử
đặt lên ghế báu, có Thích Đề-hoàn Nhân cầm lọng báu, Đại phạm Thiên vương cầm
bạch phất đứng hầu hai bên. Các vị Long vương như Nan-đà Long vương,
Ưu-ba-nan-đà Long vương từ trên không tuôn xuống hai dòng nước thanh tịnh, một
dòng ấm áp, một dòng mát mẻ để tắm cho Thái tử. Lúc ấy thân Thái tử ánh lên màu
vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng, phóng ánh hào quang lớn soi thấu ba ngàn đại
thiên thế giới. Trời rồng cùng tám bộ chúng cũng ở trên không trung tấu nhạc,
ca hát, ngợi khen, đốt hương rải hoa, tung Thiên y và chuỗi anh lạc rơi xuống
đầy ngập, nhiều không thể đếm hết.
Ma-da phu nhân
từ khi sinh Thái tử, thân tâm an vui, không có các nỗi khổ, vui mừng phấn chấn.
Dưới cội cây Vô ưu, nơi Phu nhân hạ sinh Thái tử lần lượt tự nhiên hiện ra bốn
cái giếng, nước trong giếng thơm ngát và trong sạch, đủ tám công đức. Bấy giờ
Ma-da phu nhân cùng các quyến thuộc tùy theo nhu cầu mà sử dụng nước ấy để tẩy
tịnh thân thể. Lại có các thần Dạ-xoa bảo vệ Phu nhân và Thái tử.
Ngay lúc đó từ
loài người trong cõi Diêm-phù-đề đến chư Thiên ở cõi trời Sắc cứu cánh, tuy đã
xa lìa mọi cảm thọ hỷ lạc nhưng đều vui vẻ ngợi khen Bậc Nhất Thiết Chủng Trí
nay đã xuất hiện ở đời làm lợi ích cho vô số chúng sinh và mong Thái tử sớm
thành đạo Chánh giác, chuyển bánh xe Pháp độ khắp chúng sinh. Chỉ có Ma vương
là rầu rĩ ngồi không yên. Cũng trong lúc ấy trời đất bỗng sinh ba mươi bốn điềm
lành: một là mười phương thế giới đều sáng rực; hai là ba ngàn đại thiên thế
giới rung chuyển theo mười tám cách, gò đồi trở nên bằng phẳng; ba là tất cả
những cây khô đều xanh tươi, sum suê trở lại, trong vương quốc bỗng sinh ra
những loài cây lạ; bốn là trong vườn sinh trái ngọt lạ; năm là trên đất bỗng
sinh hoa sen báu lớn bằng bánh xe; sáu là những kho báu trong đất đều tự nhiên
hiện ra, bảy là những kho báu bỗng phát ra ánh sáng lớn; tám là những y phục
tốt đẹp của chư Thiên bỗng rơi xuống; chín là các dòng sông bỗng trở nên êm đềm
trong mát; mười là gió ngừng thổi, trời không mây, bầu trời trong xanh, tươi
sáng; mười một là mùi hương thơm ngát từ bốn phương bay lại, mưa nhỏ rơi xuống
thấm nhuần, làm sạch cát bụi; mười hai là những người bệnh tật trong nước bỗng
nhiên khỏe mạnh; mười ba là những đền đài trong nước không chỗ nào không sáng
sủa, ánh sáng của đèn đuốc đều bị lu mờ; mười bốn là mặt trời, mặt trăng, sao
trời đứng yên không di chuyển; mười lăm là sao Tỳ-xá-khư hiện ra trong nhân
gian để hầu Thái tử khi sinh ra; mười sáu là các vua trời cõi Phạm thiên cầm
lọng quý che trên cung vua; mười bảy là các bậc thầy của chư Tiên trong tám
phương đem những thứ quý báu đến để dâng cúng; mười tám là những thức ăn trăm
vị của chư Thiên tự hiện ra trước mặt; mười chín là bỗng hiện rất nhiều bình
quý chứa đầy nước cam lộ; hai mươi là xe quý của chư Thiên chở nhiều vật quý
báu đến; hai mươi mốt là rất nhiều voi trắng trên đầu cài hoa sen đến đứng
trước điện; hai mươi hai là đoàn ngựa báo lông xanh tự nhiên đến; hai mươi ba
là có năm trăm con Sư tử trắng từ Tuyết sơn xuất hiện nhưng đã dứt hết tính ác,
hiền lành sấp thành hàng trước thành; hai mươi bốn là các Thiên nữ ở cõi trời
tấu nhạc giữa hư không; hai mươi lăm là những ngọc nữ ở cõi trời đều cầm những
phất trần Khổng tước hiện ra trên tường của cung điện; hai mươi sáu là những
ngọc nữ ở cõi trời tay cầm bình vàng chứa đầy nước thơm đứng khắp trên không
trung; hai mươi bảy là chư Thiên khen ngợi công đức của Thái tử; hai mươi tám
là địa ngục dừng nghỉ, không hiện ra các cảnh đau khổ ác độc; hai mươi-chín là
các loại độc trùng đều biến mất, những loài chim dữ trở nên hiền lành; ba mươi
là những ác nghi thức, luật lệ ác độc đồng thời đổi thành yêu thương, hiểu
biết; ba mươi mốt là phụ nữ đang mang thai trong nước đều sinh con trai, có bao
nhiêu bệnh đều lành; ba mươi hai là tất cả thọ thần đều hiện thành hình người
đến hầu hạ lễ bái; ba mươi ba là các quốc vương khác đều mang công phẩm quý báu
đến thần phục; ba mươi bốn là tất cả trời người không nói những gì không hợp
lúc.
Khi ấy các thể
nữ thấy những điềm lành ấy đều vô cùng mừng vui, nói với nhau:
-Thái tử sinh
ra có những điềm tốt đẹp như thế, mong rằng người sẽ sống lâu, không tật bệnh
đau khổ để chúng ta khỏi phải buồn rầu. Nói xong, họ lấy khăn bông mềm đỡ bồng
Thái tử đến chỗ phu nhân, có Tứ Thiên vương trên hư không cung kính đi theo,
trời Đế Thích cầm lọng che, ở trên có hai mươi tám vị đại quỷ thần vương ở bốn
góc vườn để bảo vệ.
Lúc ấy có một
nàng cung nữ thông minh, lanh lợi từ vườn Lâm-tỳ-ni chạy về cung đến chỗ vua
Bạch Tịnh trình tâu:
-Đại vương có
uy đức nay lại càng tăng thêm vì phu nhân vừa sinh Thái tử dung mạo đoan chính,
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Lúc sinh ra người đi bảy bước trên
những đóa sen, tay phải chỉ lên trời thốt ra những lời như tiếng Sư tử: “Trên
trời cho đến cõi người, Ta là tối tôn, tối thắng. Vô số kiếp sinh tử đến đây đã
chấm dứt, Ta sinh ra đời để đem lại lợi ích cho tất cả trời người”, và còn bao
nhiêu điềm lành không thể kể hết.
Vua nghe tin ấy
vô cùng sung sướng, không thể kềm chế được liền cởi ngay xâu chuỗi ngọc đang
đeo nơi thân thưởng cho nàng cung nữ. Ngay lập tức vua truyền lệnh chuẩn bị bốn
đội binh cùng với vương quyến trong cung và mười vạn người trong họ Thích thẳng
đến vườn Lâm-tỳ-ni. Khi tới nơi thấy có đầy đủ Thiên long bát bộ chúng trong
vườn, đến chỗ phu nhân lại thấy thân tướng Thái tử tốt đẹp lạ thường, vua vô
cùng vui mừng phấn chấn, giống như sóng lớn trên sông, biển, ôm lòng sợ sệt lo
mạng mình sống ngắn ngủi, ví như núi chúa Tu-di vốn không thể rung động, nhưng
khi đại địa rung chuyển thì núi ấy mới rung động. Vua Bạch Tịnh tánh vốn trầm
tĩnh, nhưng nay thấy Thái tử thì lại nửa mừng nửa sợ, Ma-da phu nhân tính tình
vốn nhu hòa nay sinh Thái tử thấy có những điềm lành lạ nên càng hiền dịu hơn
nữa. Lúc đó vua Bạch Tịnh chắp tay lễ các Thiên thần rồi tiếp đến bồng Thái tử
đặt lên xe voi bảy báu rồi cùng các quan, thể nữ trong hậu cung, có chư Thiên
tấu nhạc trên không trung theo hộ vệ cùng đi vào thành. Vua và những người họ
Thích chưa biết Tam bảo nên đem Thái tử đến đền thờ chư Thiên. Thái tử vừa đến
đền thì tượng Phạm thiên liền rời khỏi chỗ ngồi xuống lễ dưới chân Thái tử và
nói với nhà vua:
-Đại vương nên
biết nay Thái tử là Bậc Tôn Kính trong cõi trời người, các vị Thiên thần trong
hư không đều kính lễ, đại vương không thấy sao mà đưa Thái tử đến đây lễ chúng
tôi?
Vua và các quan
cùng những người họ Thích trong ngoài đều nghe thấy thế càng ngạc nhiên cho là
điều chưa từng có, liền đưa Thái tử rời khỏi đền chư Thiên trở về cung.
Vào dịp này
trong dòng họ Thích có năm trăm người con trai được sinh ra cũng cùng một ngày
với Thái tử. Cùng lúc trong chuồng những con voi của nhà vua cũng sinh ra voi
trắng, ngựa sinh ngựa trắng, trâu dê sinh ra những con lông có năm màu... như
thế có đến năm trăm loài. Các cung nữ trong hoàng gia cũng hạ sinh năm trăm
người con trai. Năm trăm kho báu ẩn trong đất cũng tự nhiên hiện ra, mỗi kho
lại có bảy kho khác quây quần chung quanh. Thương gia từ các nước lớn đem đến
kinh thành dâng lên nhà vua những bảo vật lấy từ biển. Nhà vua hỏi các thương
nhân:
-Các người
xuống biển lấy những châu báu này chắc chỉ gặp thuận lợi, không gặp khó khăn phải không? Mọi người đều được đầy đủ, an ổn
trở về chứ?
Các thương nhân
thưa:
-Tâu đại vương,
trên đường đi rất yên ổn.
Vua nghe tâu
rất vui mừng liền cho mời các vị Bà-la-môn đến để cúng dường nhiều loại, nào
voi, ngựa, châu báu, ruộng vườn, tôi tớ. Sau khi cúng dường, vua liền đưa Thái
tử đến nhờ họ đặt tên.
Các vị
Bà-la-môn bàn với nhau rồi tâu vua:
-Lúc Thái tử
sinh, tất cả kho báu đều hiện ra, tất cả những điều hiện ra đều là điềm lành,
do vậy nên đặt tên cho Thái tử là Tát-bà Tất-đạt.
Các vị
Bà-la-môn vừa nói xong thì từ hư không chư Thiên đánh trống, đốt hương, rưới
hoa và cùng hô lớn:
-Lành thay!
Tát-bà Tất-đạt!
Lúc ấy có tám
vị vua cũng như vua Bạch Tịnh trong ngày ấy sinh được Thái tử, các quốc vương
ấy ai cũng vui mừng cho rằng nay ta sinh con có những điềm kỳ lạ mà không biết
đó là điềm lành của Thái tử Tát-bà Tất-đạt vậy. Họ đều mời các vị Bà-la-môn đến
để đặt tên cho các thái tử ấy, chẳng hạn thái tử ở thành Vương xá có tên là
Tần-tỳ-sa-la, thái tử ở nước Xá-vệ có tên là Ba-tư-nặc, thái tử ở nước
Thâu-la-câu-tra tên là Câu-yết-bà, thái tử nước Độc Tử tên là Ưu-đà-diên, thái
tử của nước Lư-la tên là Tật Quang, thái tử nước Đức-xoa-thi-la tên là
Phất-ca-la, thái tử của nước Ta-la-câu-la-bà tên là Câu-la-bà.
Bấy giờ vua
Bạch Tịnh ra lệnh các quan đi khắp nơi tìm mời những bậc thông minh, giàu kiến
thức, nhiều trí tuệ, biết xem tướng giỏi, là bậc có tri thức nhất trong đời.
Các quan được lệnh liền đi khắp nơi để tìm kiếm. Vua lại cho xây một tòa điện
lớn nơi vườn sau với cửa sổ, bao lơn, tầng cấp đều được trang hoàng đẹp đẽ bằng
bảy thứ báu. Các quan lúc bấy giờ mời được năm trăm vị Bà-la-môn thông minh,
xem tướng giỏi, đoán được điềm lành lạ. Họ vội tâu lên vua là các đạo sĩ đã
đến, vua vui mừng liền cho mời vào điện chuẩn bị cúng dường. Những đạo sĩ ấy
tâu với vua:
-Chúng tôi nghe
Bệ hạ vừa sinh Thái tử có đủ tướng tốt và những điềm lành, vậy xin cho phép
chúng tôi được gặp Thái tử.
Vua liền sai bồng Thái tử đến, các đạo
sĩ trông thấy những tướng tốt oai nghiêm của Thái tử cho là điều chưa từng có.
Vua hỏi họ xem tướng Thái tử thế nào, các đạo sĩ thưa:
-Tất cả chúng
sinh đều muốn có con tốt, nay đại vương sinh Thái tử là điều quý lạ trên đời,
chớ sinh lo sợ. Tâu đại vương, việc đại vương hạ sinh Thái tử, chúng tôi chỉ có
một lời: Thái tử chính là con mắt của cả thế gian và cõi trời.
Vua hỏi vì sao
mà biết, họ đáp:
-Chúng tôi xem
tướng của Thái tử thấy sắc thân của Thái tử như vàng ròng, lại có những tướng
tốt rất là trong sáng, sau này nếu xuất gia chắc sẽ thành Bậc Nhất Thiết Chủng
Trí, còn ở tại gia sẽ thành vị Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu thiên
hạ. Ví như trong các dòng nước thì biển là lớn nhất, giữa các rặng núi thì
Tu-di là núi cao to nhất, trong các ngôi sao thì mặt trời là sáng hơn hết,
những gì sáng mà trong mát thì mặt trăng là hơn hết. Trong thế gian và cả cõi
trời Thái tử là tôn quý nhất.
Vua nghe những lời ấy vô cùng sung
sướng, không còn lo ngại. Có vị Bà-la-môn tâu với vua:
-Trên ngọn
Hương sơn hiện nay có vị Tiên A-tư-đà đủ năm loại thần thông. Vị ấy có thể làm
dứt hẳn những mối nghi hoặc cho đức vua.
Các vị
Bà-la-môn ấy nói xong liền từ biệt ra về. Vua Bạch Tịnh lúc ấy suy nghĩ: “Tiên
A-tư-đà ở tận Hương sơn, đường xa mà hiểm trở khó đến được, phải làm cách nào
mới mời được vị Tiên ấy đến đây?”. Tiên A-tư-đà biết được ý nghĩ của nhà vua;
đồng thời trước đó đã thấy những điềm lành, biết rõ Bồ-tát vì muốn dứt trừ sinh
tử nên đản sinh. Ông liền dùng thần thông lướt trên không đến thẳng kinh thành.
Người giữ cổng thành thấy vị Tiên đến liền vào tâu lên tiên A-tư-đà từ không
trung đến, đang đứng ngoài cửa thành. Vua nghe tâu rất vui mừng liền tự thân ra
đón vị Tiên; đến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi hỏi:
-Nay Tôn giả
đến sao không vào ngay, phải chăng vì người giữ cửa không cho vào?
Tiên nhân đáp:
-Vì đến bất ngờ
không tiện vào nên phải báo trước.
Vua liền thỉnh
vào cung rồi mời vị Tiên ngồi và hỏi:
-Thưa Tôn giả,
ngài vẫn mạnh khỏe chứ?
Vị tiên đáp:
-Nhờ ân đại
vương nên vẫn bình yên.
Vua thưa:
-Tôn giả hôm
nay đến đây làm cho dòng họ chúng tôi được rạng rỡ, từ nay trở đi ngày nào cũng
gặp việc tốt đẹp. Phải chăng vì những việc đã qua nên ngài đến đây?
Tiên nhân đáp:
-Tôi ở Hương
sơn thấy nguồn sáng lớn và những điềm lạ hiện ra, lại biết đại vương có ý mong
được gặp, nên tôi đến đây. Trong khi dùng thần lực lướt không trung đến đây,
tôi nghe chư Thiên trên không trung bảo rằng Thái tử tương lai sẽ thành Bậc
Nhất Thiết Chủng Trí cứu thoát trời người. Thái tử sinh ra từ hông bên phải của
phu nhân, bước trên những bông sen báu, đưa tay lên, tiếng như Sư tử tuyên bố:
“Ta là tối tôn, tối thắng trong cõi trời người, vô lượng kiếp sinh tử đến đây
đã dứt, lần đản sinh này đem lại lợi ích cho cả trời người”, lại có chư Thiên
quây quần cung kính. Nghe những điều kỳ lạ ấy thật sung sướng thay. Thưa đại
vương giờ đây tôi có thể gặp Thái tử được chăng?
Nhà vua liền đưa Tiên nhân tới chỗ Thái
tử. Đến nơi vua bảo phu nhân bồng Thái tử đến và bảo làm lễ Tiên nhân, vị Tiên
ngăn lại, nói:
-Thái tử là
Đấng tối quý trong ba cõi, sao lại để Thái tử lễ tôi?
Nói rồi liền
chắp tay sụp xuống lễ Thái tử. Vua và phu nhân thưa:
-Xin Tiên nhân
đoán tướng Thái tử xem thế nào.
Tiên A-tư-đà
quan sát kỹ các tướng của Thái tử rồi bỗng nhiên không dằn lòng được, buồn bã
rơi lệ. Nhà vua và phu nhân thấy thế toàn thân giật bắn, lòng hoang mang kinh
sợ như chiếc thuyền nhỏ bị sóng lớn dồi, hoảng hốt hỏi:
-Lúc mới sinh
Thái tử có nhiều điềm lành, chẳng hay có điều gì không hay mà Tiên nhân buồn
khóc như vậy?
Tiên nhân rưng
rưng đáp:
-Tâu đại vương,
Thái tử có đủ những tướng tốt, không có gì xấu.
Vua lại hỏi:
-Chẳng hay Thái
tử thọ mạng như thế nào? Có thể lên ngôi Chuyển luân cai trị bốn châu thiên hạ
không? Tôi tuổi đã cao muốn giao phó việc trị nước cho Thái tử rồi vào núi tu
hành. Đó chính là chí nguyện của tôi. Xin Tôn giả xem kỹ cho.
Khi ấy tiên
A-tư-đà thưa với vua:
-Tâu đại vương,
Thái tử có đủ ba mươi hai tướng tốt, đó là:
1. Dưới bàn chân
bằng phẳng.
2. Dưới chân có đủ
một ngàn đường vằn như vòng bánh xe.
3. Các ngón tay,
ngón chân đều dài hơn người thường.
4. Tay chân đều
rất mềm mại.
5. Gót chân rộng,
đầy đặn.
6. Các kẽ ngón
chân ngón tay có màng như lưới, người bình thường không thể có được.
7. Mu bàn chân đầy
đặn, cao bằng gót chân.
8. Bắp chân như
chân Lộc vương.
9. Hai tay buông
xuống dài quá gối.
10. Nam căn ẩn kín
như Mã vương, Tượng vương.
11. Thân hình cao
lớn cân đối như cây Ni-câu-lư.
12. Ở mỗi chân lông
có sợi lông màu xanh mềm mại và đều xoay về bên phải.
13. Lông trên người
sắc xanh, mềm mại và đều rạp nghiêng về bên phải.
14. Có tướng sắc
thân màu hoàng kim vi diệu, đẹp hơn vàng Diêm-phù-đàn.
15. Ánh sáng quanh
thân chiếu xa một trượng.
16. Làn da mỏng và
mịn, bụi không thể bám, muỗi mòng không chích được.
17. Hai lòng bàn
tay, bàn chân, hai vai và đảnh đầu cả bảy nơi ấy đều đầy đặn.
18. Dưới hai nách
đầy đặn như ngọc Ma-ni.
19. Thân như Sư tử.
20. Thân thể ngay
ngắn, cân đối.
21. Hai vai tròn
trịa.
22. Miệng có bốn
mươi cái răng.
23. Răng trắng đều
khít, chân răng sâu chắc chắn.
24. Bốn răng cửa
lớn và trắng.
25. Hai má đầy đặn như Sư tử.
26. Nước bọt tiết
ra hai bên miệng có mùi thơm.
27. Lưỡi mềm và
mỏng, rộng dài, phủ cả mặt đến mí tóc.
28. Tiếng nói có âm
thanh vô cùng vi diệu như tiếng chim Ca-lăng-tần-già.
29. Màu mắt xanh
biếc.
30. Lông mi như
Ngưu vương.
31. Giữa hai hàng
lông mày có chòm lông trắng như gấm Đâu-la có thể phóng hào quang.
32. Trên đảnh đầu
có thịt nổi cao như hình búi tóc.
Thái tử có đủ
ba mươi hai tướng tốt như thế, nếu ở tại gia thì năm hai mươi chín tuổi sẽ lên
ngôi Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia sẽ thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí,
rộng độ trời người. Nhưng Thái tử chắc nhất định tu học và đắc đạo thành Bậc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Sau đó không lâu Ngài sẽ chuyển pháp luân thanh
tịnh làm lợi ích trời người và độ thoát cho chúng sinh. Tôi nay đã một trăm hai
mươi tuổi, không lâu nữa sẽ chết và sinh lên cõi trời Vô tưởng, không gặp được
Phật, không nghe được pháp nên buồn tủi mà khóc.
Vua lại hỏi
Tiên nhân:
-Tôn giả bảo có
hai đường: một sẽ làm Chuyển luân vương, hai sẽ là thành Bậc Chánh Giác, nhưng
sao lại quyết chắc là Thái tử sẽ thành Bậc Chánh Giác.
Tiên nhân đáp:
-Trong phép xem
tướng của tôi, nếu người nào có đủ ba mươi hai tướng nhưng không ở đúng chỗ,
không rõ ràng thì sẽ thành Chuyển luân vương, còn nếu ở đúng chỗ lại rõ ràng
thì chắc chắn sẽ thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí. Nay tôi xem thấy Thái tử có đủ
ba mươi hai tướng, mỗi tướng lại ở đúng vị trí và rất rõ ràng nên tôi quyết
chắc Thái tử sẽ thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí.
Vị tiên nói xong liền từ biệt ra đi. Vua
Bạch Tịnh nghe những lời đó, trong lòng rất lo buồn vì sợ Thái tử sẽ xuất gia
nên chọn năm trăm cung nữ thông minh, trí tuệ để chăm sóc, phục vụ Thái tử.
Trong số đó người thì cho bú, người thì bồng ấm, người thì tắm rửa, giặt giũ...
Vua lại xây dựng riêng cho Thái tử ba tòa cung điện ba mùa hợp với khí hậu mùa
lạnh, mùa nóng và mùa ấm. Các cung điện ấy được trang hoàng tô điểm bằng bảy
món báu, áo quần cũng mặc theo mùa. Vua lại sợ sau này Thái tử bỏ cung-đi xuất
gia nên ra lệnh bố trí các cổng thành sao cho mỗi khi đóng mở sẽ có tiếng động
lớn vang xa đến bốn mươi dặm. Vua lại chọn năm trăm cung nữ hình dung đoan
chánh, không gầy không béo, không cao không thấp, không trắng không đen lại
giỏi nhiều kỷ xảo, đều trang điểm bằng nhiều vật trang sức quý báu, mỗi phiên
một trăm vị, thay nhau chăm sóc Thái tử. Trước các cung điện ấy, vua cho trồng
đầy các loại cây có quả ngọt, cành lá sum suê, hoa nở tươi thắm; lại có ao tắm
trong mát, bờ ao mọc lớp cỏ thơm dày, trong ao có hoa sen đủ màu và nhiều vô số
kỳ hoa dị thảo khác, lại có hàng ngàn giống chim lạ trong vườn để làm đẹp mắt,
vui tai cho Thái tử.
Sau khi sinh
Thái tử được bảy ngày, Ma-da phu nhân qua đời và do công đức cưu mang Thái tử
nên được sinh lên cung trời Đao-lợi. Người dì là phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề
nuôi nấng Thái tử không khác gì mẹ hiền. Vua cha còn cho làm mũ bảy báu, chuỗi
anh lạc cho Thái tử. Thái tử càng lớn thì vua cho làm các loại xe như xe voi,
xe ngựa, xe dê, xe trâu, và đầy đủ tất cả các loại đồ chơi, không thứ gì không
có. Lúc ấy nhân dân cả nước đều sống an vui, mùa màng sung túc, thời tiết điều
hòa, không có trộm cướp... vô cùng an ổn, thái bình, đều là nhờ phước đức của
Thái tử. Vua lại truyền Xa-nặc, một trong năm trăm người con trai, con của các
thị nữ đến để hầu Thái tử.
Năm Thái tử lên
bảy tuổi, vua nghĩ Thái tử đã lớn nên lo việc học tập cho Ngài. Vua cho tìm
khắp trong nước những vị Bà-la-môn thông tuệ, am tường các loại sách quý, mời
đến để dạy Thái tử học. Lúc ấy có vị Bà-la-môn tên Bạt-đà-la-ni cùng với năm trăm
vị thân hữu Bà-la-môn khác đều nhận lời mời của vua cùng đến. Vua hỏi các vị
Bà-la-môn:
-Thưa các Tôn
giả, chư vị đều muốn làm thầy của Thái tử, nay các vị sẽ dạy thế nào?
Họ nói:
-Những gì chúng
tôi biết sẽ trao truyền hết cho Thái tử.
Vua liền cho
xây một trường học lớn, dùng các thứ báu để trang trí; bàn ghế và tất cả học cụ
đều đầy đủ và đẹp đẽ, rồi chọn ngày lành đưa Thái tử đến để các vị Bà-la-môn
dạy học.
Khi ấy các vị
thầy Bà-la-môn đưa ra bốn mươi chín loại sách để dạy Thái tử đọc. Thái tử thấy
như thế liền hỏi các thầy dạy:
-Đây là những
sách gì? Trong cõi Diêm-phù-đề có bao nhiêu loại sách?
Các thầy
Bà-la-môn đều im lặng không trả lời được. Thái tử lại hỏi riêng chữ A có bao
nhiêu nghĩa. Các vị thầy dạy cũng không đáp được, tự thấy xấu hổ, đứng dậy lễ
Thái tử mà khen ngợi:
-Lúc mới sinh
Thái tử đi bảy bước và tự nói rằng trong cõi trời người, Thái tử là tôn quý
nhất. Lời ấy quả thật không sai. Xin Thái tử cho biết trong cõi Diêm-phù-đề có
bao nhiêu loại sách.
Thái tử nói:
-Trong cõi
Diêm-phù-đề có sách Phạm ngữ, có sách Khư-lâu, có sách Liên hoa... có tất cả
sáu mươi bốn loại. Chữ A là âm tiếng Phạm, nghĩa của chữ này là không thể hư
hoại, cũng là đạo lý chân chánh vô thượng. Những nghĩa như thế rất nhiều, vô
lượng vô biên.
Khi đó, các vị
thầy Bà-la-môn trong lòng cảm thấy vô cùng xấu hổ nên đến tâu vua:
-Tâu đại vương,
Thái tử là vị thầy bậc nhất trong cõi trời người, chúng tôi làm thế nào dạy
được.
Vua nghe các vị ấy nói thế lại càng vui
mừng cho là việc chưa từng có, liền tùy theo sở thích của các thầy Bà-la-môn mà
cúng dường. Tất cả các môn học thuật sách vở, lý luận, thiên văn, địa lý, toán
số đến các môn kỹ nghệ như bắn cung, cưỡi ngựa, Thái tử đều tự mình thông tỏ.
Quyển 2
Năm Thái tử lên
mười tuổi, trong họ Thích có năm trăm đồng tử cùng tuổi với Ngài. Thái tử lại
có những người em như Đề-bà-đạt-đa, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà... Trong số ấy có
người có ba mươi tướng tốt, người có ba mươi mốt tướng, cũng có người đủ ba
mươi hai tướng nhưng không hiển lộ rõ; có người giỏi nhiều môn, có người sức
lực mạnh mẽ vô cùng. Đề-bà-đạt-đa nghe Thái tử các môn đều giỏi, danh tiếng
lừng lẫy khắp nơi nên bàn với năm trăm vị đồng tử:
-Thái tử tuy
thông minh trí tuệ, biết nhiều sách vở, biện luận giỏi nhưng sức mạnh chưa chắc
bằng chúng ta. Ta muốn thi sức mạnh với Thái tử.
Lúc bấy giờ vua
Bạch Tịnh cho người đi tìm những vị thầy dạy bắn cung giỏi trong nước đến
truyền nghề cho Thái tử. Một hôm vị thầy dạy Thái tử bắn cung, Đề-bà-đạt-đa
cùng năm trăm đồng tử cũng đi theo đến hậu viên của hoàng cung để tập luyện,
đích bắn là những chiếc trống bằng sắt. Vị thầy trao cho Thái tử một cái cung
nhỏ, Thái tử mỉm cười hỏi:
-Thầy trao vật
này cho con để làm gì?
Vị Xạ sư đáp:
-Ta muốn Thái
tử bắn trúng cái trống sắt đó.
Thái tử cho
rằng cung ấy yếu lắm, yêu cầu bảy cái cung như thế, vị thầy liền trao cho Thái
tử. Thái tử cầm cả bảy cánh cung bắn một mũi tên mà xuyên qua bảy chiếc trống
sắt. Khi ấy vị Xạ sư liền đến tâu lên vua.
-Tâu đại vương,
Thái tử đã tự biết thuật bắn cung, chỉ bắn một mũi tên xuyên bảy chiếc trống sắt.
Trong cõi Diêm-phù-đề này không ai hơn được Thái tử. Vậy sao bệ hạ còn truyền
cho thần làm thầy của Thái tử?
Vua nghe thế
rất mừng, thầm nghĩ: “Con ta rất thông tuệ, mọi môn học thuật sách vở, biện
luận, toán số đều giỏi, thì mọi người đều biết nhưng việc Thái tử giỏi bắn cung
thì ít người biết”. Nhà vua lập tức truyền lệnh bố trí các trống sắt, tổ chức
thi tài cho Thái tử và nhóm năm trăm người của Đề-bà-đạt-đa. Vua cũng thông báo
cho dân chúng biết bảy ngày sau Thái tử và Đề-bà-đạt-đa sẽ thi võ nghệ ở hậu
viên, ai là người giỏi võ nghệ đều có thể đến thi.
Đến ngày thứ
bảy, Đề-bà-đạt-đa cùng sáu vạn người trong thân quyến ra khỏi thành đầu tiên.
Bỗng có một con voi to đứng chặn ở cổng thành, quân lính không ai dám đi tới.
Đề-bà-đạt-đa thấy thế hỏi:
-Vì sao đứng
lại không tiến tới?
Quân thưa vì có
con voi lớn chặn ở cổng thành. Đề-bà-đạt-đa nghe xong liền một mình tiến tới
gần con voi, dùng tay đấm mạnh vào đầu voi, con voi quỵ ngã xuống đất chết
ngay. Khi đó quân lính mới lần lượt đi qua. Đến khi Nan-đà và quyến thuộc đi ra
thành, quân lính cũng lần lượt đi qua một bên, Nan-đà hỏi tại sao mọi người đi
chậm thế, có người thưa:
-Đề-bà-đạt-đa
dùng tay đắm chết voi, xác nằm ngay cổng thành, mọi người phải tránh sang một bên
nên không đi nhanh được.
Nan-đà nghe thế liền một mình đi đến đó
dùng ngón chân hất xác voi qua một bên lề đường để mọi người đi qua. Lúc đó
nhiều người xung quanh đều tụ tập lại để xem. Đến lượt Thái tử cùng mười vạn
quyến thuộc muốn ra khỏi thành, nhưng thấy mọi người đang tụ tập đông đảo, hỏi
ra mới biết Đề-bà-dạt-đa dùng tay đắm chết voi để xác ở cổng thành, Nan-đà dùng
ngón chân hất xác voi sang bên lề do vậy mọi người vây quanh để xem. Khi ấy
Thái tử nghĩ đã đến lúc thị hiện thần lực nên liền đến nâng xác voi ném ra
ngoài thành rồi lại đưa tay đỡ mà không làm cho voi bị tổn thương. Con voi bỗng
sống lại, mạnh khỏe như trước, không hề bị đau đớn, khổ não. Dân chúng thấy thế
khen là việc chưa từng có. Đức vua khi nghe việc ấy cũng cho là vô cùng lạ
thường.
Khi Thái tử, Đề-bà-đạt-đa, Nan-đà cùng
dân chung đến nơi hậu viên đã được sắp đặt trang nghiêm, bày sẵn các loại trống
bằng vàng, bạc, đồng, đá, sắt... mỗi loại đều có bảy chiếc. Đề-bà-đạt-đa bắn
trước xuyên thủng ba chiếc trống bằng vàng, Nan-đà bắn thứ hai cũng bắn xuyên
ba chiếc trống, dân chúng ai cũng khen ngợi. Lúc ấy các quan thưa với Thái tử:
-Đề-bà-đạt-đa
và Nan-đà đã bắn xong, nay đến lượt Thái tử. Xin Thái tử hãy bắn những chiếc
trống kia.
Các vị ấy thưa
đến ba lần như thế. Thái tử bảo:
-Nếu muốn bắn
những chiếc trống ấy thì cánh cung này yếu lắm, hãy tìm cho Ta cánh cung nào
cứng hơn.
Các quan thưa:
-Tiên vương có
một chiếc cung rất tốt, hiện ở trong kho, có thể đem đến cho Thái tử.
Khi cung được
đưa đến, Thái tử cầm lên, bắn một mũi tên xuyên qua tất cả trống và cắm xuống
ao làm nước trong ao bắn vọt lên, mũi tên còn xuyên suốt đến núi Thiết vi.
Lúc ấy
Đề-bà-đạt-đa và Nan-đà đùa giỡn vật nhau, nhưng cả hai đều ngang sức nên không
người nào thắng được. Thái tử bước tới dùng tay nắm chặt cả hai em vật ngã
xuống đất nhưng do lòng từ bi nên cả hai người đều không hề bị đau đớn. Dân
chúng thấy Thái tử có sức mạnh như vậy nên đồng thanh hô to:
-Thái tử con
vua Bạch Tịnh không những trí tuệ vượt hơn tất cả người mà sức mạnh cũng không
ai sánh bằng.
Không ai không
thán phục, càng cung kính Thái tử hơn. Lúc bấy giờ vua Bạch Tịnh truyền gọi các
quan đến để cùng bàn luận, vua nói:
-Nay Thái tử đã
lớn, đã có đầy đủ trí tuệ và sức lực. Nay trẫm cần phải lấy dùng nước bốn biển
để làm lễ Quán đảnh cho Thái tử.
Nói rồi vua
liền truyền lệnh cho tất cả các tiểu vương đến ngày tám tháng hai hãy tụ họp về
cung để dự lễ Quán đảnh của Thái tử. Đến ngày ấy, Quốc vương các nước khác và
các đạo sĩ Bà-la-môn đều tụ hội đông đảo. Hoàng cung lúc bấy giờ được trang
hoàng rực rỡ, treo dựng phướn, lọng, đốt hương, rải hoa, cử chuông trống, tấu
các khúc nhạc hay, dùng bình thất bảo đựng nước bốn biển. Các Tiên nhân, mỗi vị
đều đội bình nước trao cho các đạo sĩ Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn chuyền bình
nước trong chúng rồi trao cho các vị đại thần; các quan đều đội bình nước trao
cho nhà vua. Khi ấy nhà vua rưới nước lên đầu và trao ấn thất bảo cho Thái tử,
kế đó truyền đánh trống lớn, xướng lớn:
-Nay lập Tát-bà
Tất-đạt làm Thái tử.
Nơi không trung
lúc đó tám bộ chúng Trời, rồng... đều tấu nhạc đồng thanh ca ngợi:
-Lành thay!
Đúng vào lúc
Bồ-tát lên ngôi Thái tử, tại thành Ca-tỳ-la, tám vị vua của nước khác cũng lập
Thái tử.
Một hôm, Thái
tử xin vua cha ra ngoài thành du ngoạn. Đức vua bằng lòng, cùng Thái tử và quần
thần lần lượt ra thành đến thăm khu đất canh tác của hoàng gia. Đi tới cội cây
Diêm-phù, Thái tử dừng lại đứng xem nông phu cày ruộng. Bấy giờ vị Thiên tử ở
cõi trời Tịnh cư hóa thân thành trùng đất bị những con chim sà theo luông cày
mổ ăn. Thái tử thấy cảnh ấy, khởi niệm Từ bi thương xót: “Chúng sinh thật đáng
thương, loài này ăn thịt loài kia”. Rồi Thái tử chìm trong suy nghĩ: “Làm thế
nào để xa rời cõi ái dục”. Tâm Thái tử định tĩnh đi vào Tứ thiền. Ánh dương
quang chuyển dời, nhưng cây Diêm-phù vội uốn cành phủ lá che mát cho Thái tử
không rời.
Lúc đó nhà vua
không thấy Thái tử liền tìm kiếm khắp nơi, hỏi các quan, một vị thần thưa với
nhà vua: Thái tử đang ngồi dưới bóng cây Diêm-phù, vua liền cùng các quan đến
đó. Chưa đến nơi, từ xa, đức vua đã thấy Thái tử ngồi nhập định dưới bóng cây,
tuy trời chiều nhưng bóng cây không di chuyển, vẫn che cho Thái tử làm nhà vua
vô cùng kinh ngạc. Vua cha bước đến cầm tay Thái tử hỏi:
-Sao con lại
ngồi nơi đây?
Thái tử đáp:
-Con xem thấy
các loài chúng sinh ăn thịt nhau, thật là đáng thương.
Vua nghe lời
ấy, trong lòng lo sợ Thái tử xuất gia, liền nghĩ tới việc phải cưới vợ cho Thái
tử để Thái tử vui mà quên nghĩ ngợi. Nhà vua truyền bảo con trở về cung, nhưng
Thái tử lại tỏ ý muôn ở lại. Vua liên tưởng đến lời tiên A-tư-đà nên rơi nước
mắt, khuyên Thái tử nên về. Thấy vua cha có vẻ buồn bã, Thái tử thuận theo cha
trở về. Nhà vua luôn nghĩ đến việc Thái tử sẽ xuất gia nên truyền tăng thêm số
kỹ nữ để làm vui lòng Thái tử.
Năm Thái tử
mười bảy tuổi, vua triệu tập các quan để bàn việc hôn nhân của Thái tử. Các
quan tâu có một người Bà-la-môn họ Thích tên là Ma-ha-na-ma sinh được người con
gái là Da-du-đà-la dung nhan xinh đẹp, tính nết đoan trang, lại thông minh, trí
tuệ, tài đức hơn người, rất xứng đôi với Thái tử. Vua nghe xong bảo nếu thế thì
nên cưới cho Thái tử. Vua liền vào nội cung cho gọi một cung nhân lanh lợi
thông minh đến nhà trưởng giả Ma-ha-na-ma để xem xét dung mạo và đức hạnh của
nàng ấy. Vị cung nữ theo lệnh đến nhà vị trưởng giả trong bảy ngày quan sát kỹ
nàng Da-du-đà-la rồi về tâu với vua:
-Thần xem nàng
ấy dung mạo xinh đẹp, nết na đoan trang, đi đứng uy nghi, thật ít có ai bằng!
Vua nghe thế
rất mừng, lập tức sai người đến nói với trưởng giả Ma-ha-na-ma:
-Nay Thái tử đã
trưởng thành, nhà vua muốn cưới vợ cho Ngài. Đức vua nghe các quan trong triều
đều khen ngợi con gái của ông, nhà vua rất vừa ý nên sai tôi đến đây để bàn
việc hôn sự.
Ma-ha-na-ma
đáp:
-Xin tuân sắc
chỉ của đức vua.
Vua liền sai
các quan chọn ngày lành rồi truyền đưa một vạn cỗ xe đến để rước dâu. Khi rước
Da-du-đà-la về cung, nhà vua cho tổ chức đầy đủ các nghi thức hôn sự và cũng
cho tăng thêm kỹ nữ ngày đêm ca múa làm vui lòng Thái tử. Thái tử tuy cùng vợ
đi, đứng, nằm, ngồi không rời, nhưng hoàn toàn không vướng ý tình thế tục, đêm
nào Thái tử cũng chỉ tu tập thiền quán. Vua thường dò hỏi các thể nữ về đời
sống vợ chồng của Thái tử. Các thể nữ đều tâu:
-Không thấy
Thái tử có cử chỉ gì tỏ ra là đạo vợ chồng.
Vua nghe thế
lại càng sầu não, vội truyền các cung nữ bày thêm nhiều thú vui hơn nữa cho
Thái tử. Trải qua một thời gian, Thái tử vẫn tuyệt nhiên không gần gũi vợ nên
nhà vua có ý nghi ngờ, lo Thái tử không có khả năng nam nhi.
Một hôm, Thái
tử nghe các thể nữ ca vịnh phong cảnh xinh tươi của khu vườn rừng với nhiều cây
cối, hoa lá sum suê, suối khe trong mát nên muốn ra thành, đến đó thưởng ngoạn,
liền sai thể nữ tâu vua là Ngài ở trong cung cấm đã lâu, nay muốn được ra thành
du ngoạn. Vua nghe tâu trong lòng rất vui mừng nhưng rồi lại nghĩ: “Thái tử ở
trong cung, không vui thích với đời sống vợ chồng nên mới xin ra ngoài du ngoạn
mà thôi!”. Vua truyền lệnh cho các quan dọn dẹp đường phố, sửa sang hoa viên
thật sạch đẹp. Khi Thái tử đến lễ vua cha xin phép đi du ngoạn, vua liền sai
một vị cựu thần thông minh, giỏi tài biện luận theo hầu Thái tử. Thái tử cùng
các quan tùy tùng ra khỏi cửa thành phía Đông. Dân chúng trong nước nghe Thái
tử ra thành du ngoạn nên tụ hội đứng xem dầy đặc như thể mây trời. Lúc ấy vị
Thiên tử cõi trời Tịnh cư hóa thân thành một cụ già tóc bạc, lưng khòm chống
gậy lê bước đi, Thái tử thấy
thế liền hỏi người hầu:
-Đó là người gì
vậy?
Người hầu thưa:
-Đó là một
người già.
Thái tử liền
hỏi:
-Sao gọi là
già?
Người hầu thưa:
-Người ấy trước
đây từng là một đứa trẻ lớn dần lên theo năm tháng, đến nay thân thể đã già
cỗi, sắc hình suy nhược, tàn phai, ăn uống thật khó khăn, sức lực đã yếu nên
đứng ngồi cũng rất khó khăn, không còn sống bao lâu nữa nên gọi là già.
Thái tử lại
hỏi:
-Chỉ có một
mình ông ta như thế hay tất cả mọi người đếu như vậy?
Thưa:
-Tất cả mọi
người đều sẽ phải như thế cả.
Thái tử nghe
trả lời như vậy, lòng buồn rầu suy nghĩ: “Ngày tháng qua mau, già đến nhanh như
chớp; thế thì thân này đâu có gì chắc chắn. Ta tuy giàu sang cũng đâu thể nào
thoát được, sao người đời vẫn không lo sợ?” Từ trước tới nay, Thái tử vốn không
ham thích cuộc sống phàm tục, nay nghe điều ấy lại càng nhàm chán, muốn lìa xa
cõi đời, liền cho quay xe về cung mà trong lòng buồn lo, không vui. Vua nghe
biết việc ấy càng lo sợ Thái tử xuất gia nên truyền lệnh cho các cung nữ tăng
thêm những trò ca múa để làm khuây lòng Thái tử.
Một thời gian
sau, Thái tử lại xin ra ngoài du ngoạn. Vua nghe tâu trong lòng lo âu, thầm
nghĩ: “Lần trước dạo chơi, Thái tử đã gặp một người già nên trong lòng buồn bã,
không vui, sao nay lại xin đi dạo nữa?” Nhưng vì thương con nên vua không nỡ từ
chối, liền triệu tập các quan đến truyền lệnh:
-Lần trước Thái
tử rời cửa thành phía Đông đi dạo đã gặp một người già nên trở về cung lòng
buồn bực. Nay Thái tử lại muốn dạo chơi nữa, trẫm không thể không bằng lòng.
Các khanh có ý gì hãy tâu cho trẫm rõ.
Các quan tâu xin ra lệnh cho các quan
địa phương chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm, sửa sang, dọn sạch đường sá,
treo cờ, rải hoa, đốt hương và không cho bất cứ thứ gì dơ uế, không sạch và
người già cả hay bệnh hoạn nào lảng vảng trên đường.
Ở phía Nam ngoài thành Ca-tỳ-la lúc ấy
có một khu vườn, cây cối xanh tươi đang ra hoa, kết trái; lại có ao tắm và lầu
ngoạn cảnh, khung cảnh vô cùng trang nhã, xinh đẹp không đâu bằng.
Vua truyền hỏi
các vị đại thần:
-Phong cảnh của
khu vườn ở ngoài thành có gì đặc biệt?
Các quan đáp:
-Toàn cảnh quan
của khu vườn đó rất đẹp như khu vườn Hoan hỷ của Đế Thích.
Vua truyền các
quan hãy đưa Thái tử ra cửa thành phía Nam. Khi Thái tử và quan quân theo hầu
vừa ra khỏi thành, vị trời Tịnh cư lại hóa thân thành một người bệnh, thân thể
xấu xí, chỉ còn da bọc xương, bụng trướng to, hơi thở khò khè, sắc mặt nhợt
nhạt xanh xao, không thể tự đi được nên có hai người dìu đỡ đứng ở bên đường.
Thái tử nhìn thấy liền hỏi:
-Đó là người
gì?
Người hầu trả
lời:
-Đó là một
người bệnh.
Thái tử lại
hỏi:
-Sao gọi là
bệnh?
Tâu:
-Thường thì
bệnh đều bởi lòng tham mà ra, ăn uống không điều độ, bốn đại không quân bình
nên sinh ra bệnh, thân thể đau nhức, khí lực yếu đuối, ăn uống khó khăn, ngủ
nghỉ không yên, dù có chân tay nhưng không thể tự làm gì được, đi đứng ngồi nằm
đều phải nhờ người khác giúp.
Nghe thế Thái
tử buồn bã hỏi:
-Chỉ có người
ấy bệnh hay ai cũng mắc bệnh?
Thưa:
-Tất cả mọi
người, không phân sang hèn đều có thể mắc bệnh.
Thái tử nghe
thế liền suy nghĩ: “Như vậy nỗi khổ vì bệnh tật không chừa một ai, thế mà sao
người đời lại cứ ham vui không sợ”. Nghĩ xong, Thái tử trong lòng càng lo sợ,
thân tâm rúng động như thủy triều dâng lên khi trăng tròn. Thái tử nói với
người hầu cận:
-Thân này như
vậy chính là nơi tụ họp của các nỗi khổ. Người đời ngu si không biết, cứ mãi
vui say hoan lạc. Hãy quay về. Ta làm sao còn tâm trí để dạo chơi, ngoạn cảnh
vườn hoa nữa”.
Đoàn xa giá đưa
Thái tử hồi cung, về đến cung Thái tử luôn suy nghĩ, âu sầu. Vua hỏi những
người tùy tùng:
-Hôm nay Thái
tử ra thành dạo chơi có vui không?
Người hầu thưa:
-Vừa ra khỏi cửa
thành phía Nam, Thái tử gặp một người bệnh nên lòng Ngài không vui, truyền lệnh
lập tức quay xe về.
Vua nghe tâu
lại càng lo sợ Thái tử xuất gia, lập tức truyền gọi các quan đến quở trách:
-Lần trước Thái
tử ra cửa thành phía Đông đã gặp một người già nên trong lòng sầu não, không
vui. Ta đã ra lệnh cho các khanh dọn dẹp đường sá, không cho những người già
bệnh đến gần, sao lại có người bệnh ở đó để Thái tử trông thấy?
Các quan tâu:
-Chúng thần
vâng lệnh đại vương, đã cùng các quan địa phương chuẩn bị rất kỹ, luân phiên
thay nhau kiểm tra, không để cho bất cứ người già, bệnh hay hiện tượng dơ, xấu,
không đẹp mắt ở hai bên đường nhưng không biết người bệnh kia bỗng từ đâu xuất
hiện. Đó chẳng phải là tội của chúng thần. Xin đại vương minh giám.
Vua hỏi các
quân hầu nhưng họ đều không biết người bệnh đó từ đâu đến. Khi ấy nhà vua càng
lúc càng lo sợ Thái tử xuất gia nên truyền cho các cung nữ bày nhiều trò vui
cho Thái tử vơi sầu, cố ý ràng buộc Thái tử chìm đắm trong khoái lạc năm dục.
Lúc đó có một
người Bà-la-môn tên Ưu-đà-di là người rất thông tuệ, giỏi biện luận. Vua cho
triệu người ấy vào cung bảo:
-Thái tử hiện
nay không vui thích cuộc sống thọ hưởng năm dục ở đời. Trẫm chỉ sợ không bao
lâu, Thái tử sẽ xuất gia, học đạo. Khanh hãy kết thân để khuyên Thái tử không
nên xuất gia.
Ưu-đà-di tâu:
-Thái tử thông
minh học rộng, biện tài không ai bằng. Thần chưa thấy ai có thể sánh ngang với
Thái tử, làm thế nào thần có thể thuyết phục Thái tử được? Điều ấy chẳng khác
gì dùng sợi chỉ mà lật đổ núi Tu-di. Thần cũng như thế, quyết không thể lay
chuyển được ý chí của Thái tử. Nay đại vương đã truyền lệnh cho thần kết bạn
thân với Thái tử thật đúng là điều đang ao ước bấy lâu nay của thần.
Từ đó Ưu-đà-di
luôn theo gần Thái tử cả khi đi đứng nằm ngồi. Còn nhà vua thì truyền tuyển
những cung nữ có nhan sắc xinh đẹp, lại thông minh, giỏi ca múa, có sức mê hoặc
lòng người, trang điểm thật lộng lẫy để theo hầu Thái tử.
Đến một ngày kia Thái tử lại xin vua
cha ra ngoài du ngoạn, vua suy nghĩ: “Nay có ưu-đà-di làm bạn, nếu Thái tử có
đi dạo chơi chắc là khác trước, không sợ Thái tử sinh tâm chán cõi đời, muốn
xuất gia”. Nghĩ thế nên vua bằng lòng, và lại triệu tập các quan đến ra lệnh:
-Nay Thái tử
lại muốn ra ngoài thành du ngoạn, ta không nỡ không cho. Hai lần trước, Thái tử
ra cửa thành phía Đông và phía Nam đều gặp người già, người bệnh nên buồn rầu
quay xe về. Nay cho đi cửa thành phía Tây trẫm lại sợ gặp có điều gì không vui,
nhưng có ưu-đà-di làm bạn thân, hy vọng khác trước. Các khanh hãy cho sửa sang
đường sá, các khu lâm viên, đài quán thật trang nghiêm; chuẩn bị sắp xếp phan
lọng, hương hoa nhiều hơn lần trước và tuyệt đối không cho những người già cả,
bệnh tật đi trên đường.
Vua lại cho
đoàn kỹ nữ xinh đẹp đến vườn hoa trước và lại bảo Ưu-đà-di:
-Nếu dọc đường
có những gì không vui thì ngươi phải cố biện luận sao cho Thái tử không ưu sầu
nữa.
Vua lại truyền
dặn các quan đi theo phải luôn xem chừng, hễ thấy người già xấu xí lập tức xua
đuổi đi nơi khác ngay.
Khi ấy Thái tử
và ưu-đà-di cùng các quan hầu đốt hương, tung hoa, tấu nhạc ra khỏi cửa thành
phía Tây. Bấy giờ vị trời Tịnh cư suy nghĩ: “Hai lần trước ta hóa thân thành
người già, người bệnh ai cũng
trông thấy, nên
vua Bạch Tịnh giận dữ quở trách các quan. Nay ta hóa ra người chết sao cho chỉ
một mình Thái tử và ưu-đà-di thấy thôi để các quan khỏi bị quở trách xử tội”.
Nghĩ rồi, trời Tịnh cư liền hóa thành xác người chết có bốn người đẩy xe, trên
xác có thắp hương rải hoa, có người nhà già trẻ khóc lóc tiễn đưa.
Lúc Thái tử
trông thấy cảnh ấy liền hỏi Ưu-đà-di:
-Đó là vật gì
mà có hương hoa rải trên, lại có người khóc lóc đưa tiễn?
Ưu-đà-di vì có
lệnh vua nên im lặng không trả lời. Thái tử hỏi đến ba lần, vị trời Tịnh cư
dùng thần lực làm cho ưu-đà-di tự nhiên thốt lên:
-Đó là người
chết.
Thái tử lại
hỏi:
-Sao gọi là
chết?
Ưu-đà-di thưa:
-Chết tức là
thân xác không còn, sức lực, thần thức rời khỏi thân thể, các căn ngưng hoạt
động, không còn biết gì nữa. Người đó khi còn sống ở đời, tham luyến năm dục,
khổ sở làm lụng, chỉ biết lo chứa giữ tiền của mà không hay khi vô thường đến
phải chết đi, trong phút chốc rời bỏ tất cả, lại làm cho cha mẹ bà con thân
thuộc buồn khổ. Con người khi chết rồi thì giống như cây cỏ, ân tình tốt xấu
không còn dính líu nữa. Quả thật chết thật là đáng buồn.
Thái tử giật
mình hỏi Ưu-đà-di:
-Chỉ có người
ấy chết hay tất cả mọi người đều phải chết?
Thưa:
-Tất cả sinh
vật trên thế gian này đều phải như thế cả. Dẫu sang giàu hay nghèo hèn đều
không ai tránh khỏi.
Thái tử vốn là
người trầm tĩnh nhưng nghe xong cũng cảm thấy bất an liền nói nhỏ với Ưu-đà-di:
-Thế gian lại
còn có nỗi khổ là cái chết, vậy sao mọi người sống trong nỗi khổ đó vẫn cứ
buông lung, lòng như gỗ đá, không biết sợ hãi.
Nói xong liền
bảo đánh xe quay về, người đánh xe thưa:
-Hai lần trước
đi chơi nữa chừng quay về nên khiến đức vua rất giận dữ quở trách, nay chúng
tôi đâu dám quay về.
Khi ấy Ưu-đà-di
nói với người đánh xe:
-Nếu ngươi
không dám quay về thì cứ đánh xe đi đến vườn hoa.
Khi Thái tử và
đoàn người đến nơi, trong vườn đã được sắp xếp, chuẩn bị trang nghiêm hương,
hoa, lọng, lại có tấu nhạc. Các nàng kỹ nữ xinh đẹp như thể nữ ở cõi trời đến
trước Thái tử dập dìu ca múa để làm rung động lòng Thái tử nhưng lòng Thái tử
vẫn thản nhiên không động. Thái tử truyền lệnh cho các thị vệ đứng ngoài, một
mình đi đến ngồi thẳng lưng suy nghĩ dưới bóng mát một cội cây trong vườn. Thái
tử nhớ lần trước dưới bóng cây Diêm-phù, Ngài đã từng nhập định lìa xa các dục
tưởng đạt đến cõi Tứ thiền. Lúc ấy Ưu-đà-di đến trước Thái tử thưa:
-Vua đã truyền
lệnh cho tôi làm bạn với Thái tử, không được xa rời là để khuyên giải Thái tử.
Phàm làm bạn có ba điều: một là thấy bạn sai trái phải khuyên ngăn, hai là thấy
bạn có điều tốt thì vui mừng theo bạn, ba là gặp nguy hiểm không bỏ nhau. Nay
tôi xin tỏ lời thành thực mong Thái tử đừng quở trách. Các vị vua xưa nay đều
trước hưởng thú vui năm dục, sau mới xuất gia, thế sao Thái tử lại định đoạn
tuyệt thế gian. Xin Thái tử hãy như người xưa, đừng nên có ý định bỏ ngôi đi
học đạo. Xin Thái tử cứ thọ hưởng năm dục, nên có con để dòng vương tộc không
bị tuyệt hậu.
Thái tử đáp:
-Theo lời anh
nói thì Ta có làm gì tổn hại quốc gia đâu. Ta bảo năm dục không có gì vui là vì
sợ sinh tử luân hồi nên không đắm say chúng. Anh bảo các vị vua xưa kia trước
hưởng qua năm dục rồi sau mới xuất gia, nhưng nay các vị vua ấy sinh ở nơi nào?
Vì đắm say năm dục nên sa vào địa ngục, hoặc vào ngạ quỷ hay súc sinh, hoặc ở
cõi trời người, bị chuyển xoay khổ sở. Chính vì vậy nên Ta muốn tìm phương pháp
xa lìa sinh lão bệnh tử. Nay vì sao anh lại khuyên Ta thọ hưởng chúng.
Khi ấy Ưu-đà-di
dù là kẻ biện tài giỏi nhưng vẫn không thuyết phục được Thái tử nên đành trở về
chỗ ngồi. Thái tử bảo chuẩn bị xe ngựa trở về cung. Các cung nữ và Ưu-đà-di rất
buồn, dung mạo của họ ảo não chẳng khác gì đang có tang người thân, về đến
cung, Thái tử tỏ ra buồn nhiều hơn những lần trước. Vua Bạch Tịnh liền gọi
ưu-đà-di hỏi:
-Thái tử hôm
nay đi du ngoạn sao lại không vui?
Ưu-đà-di thưa:
-Ra khỏi thành
không xa, Thái tử và thần từ xa đã thấy một người chết không biết từ đâu đến,
Thái tử hỏi đó là vật gì, thần bỗng tự nhiên đáp đó là người chết.
Vua lại hỏi
quan quân tùy tùng khác:
-Các ngươi có
thấy người chết ở ngoài cửa thành phía Tây không?
Tất cả người
trong đoàn đều trả lời:
-Chúng tôi
không thấy.
Nghe thế vua
chợt hiểu ra, thầm nghĩ: “Chỉ có Thái tử và ưu-đà-di thấy vậy là do sức của chư
Thiên, không phải là lỗi ở các quan, chắc là đúng như lời tiên A-tư-đà đã nói”.
Nghĩ thế nên vua rất đau buồn, lại cho tăng thêm số kỹ nữ phục vụ Thái tử. Hàng
ngày vua đều cho người đến an ủi Thái tử:
-Đất nước là
của Thái tử, sao người cứ mãi buồn khổ không vui. Vua còn truyền lệnh cho các
kỹ nữ ngày đêm tìm mọi cách làm vui lòng Thái tử.
Tuy vua biết đó
là uy lực của chư Thiên, con người khó thể cưỡng lại được nhưng vì quá yêu con
nên vua không thể không ngăn cản Thái tử. Vua tự nghĩ: ‘Thái tử đã đi dạo ba
cửa thành, chắc thế nào rồi cũng sẽ xin ra cửa thành phía Bắc đi dạo. Ta phải
truyền lệnh dọn dẹp, trang trí cảnh vườn ở phía Bắc kinh thành thật rực rỡ,
trang nghiêm lộng lẫy gấp bội các lần trước, không để một hình ảnh xấu xa nào ở
đây”. Nghĩ thế rồi, vua truyền sai các quan thi hành việc ấy thật hoàn bị. Vua
lại khấn trong lòng: “Nay Thái tử du ngoạn ở cửa Bắc, cầu xin chư Thiên chớ
hiện ra những điều chẳng lành khiến Thái tử buồn rầu”, cầu nguyện xong, vua
truyền lệnh cho người đánh xe: Nếu Thái tử ra ngoài thành du ngoạn nên làm thế
nào để Thái tử thấy toàn những cảnh phồn vinh, mỹ lệ rực rỡ của người dân.
Một lần nữa,
Thái tử lại xin ra ngoài thành du ngoạn, vua không nỡ chối từ nên truyền
Ưu-đà-di và các quan hộ tống Thái tử ra cửa thành phía Bắc. Khi đoàn người đã
đến khu vườn, Thái tử xuống ngựa để thị vệ đứng ngoài, đến an tọa dưới một bóng
cây, trầm tư về nỗi khổ già, bệnh, chết trong cuộc đời. Khi ấy vị Thiên tử cõi
trời Tịnh cư hiện thân thành một vị Tỳ-kheo vận pháp phục, ôm bình bát, cầm
tích trượng, mắt khép nhẹ nhìn xuống đất đi ngang trước Thái tử. Thái tử nhìn
thấy liền hỏi:
-Ông là ai?
Vị Tỳ-kheo đáp:
-Tôi là một
Tỳ-kheo.
Thái tử hỏi:
-Sao gọi là
Tỳ-kheo?
Đáp:
-Tỳ-kheo là
người phá được kết tặc (phiền não), không thọ thân sau nên gọi là Tỳ-kheo.
Trong thế gian, tất cả đều là vô thường, hư ảo, con đường tôi đang tu tập là
Thánh đạo vô lậu, không say đắm trong sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, đạt
giác ngộ hoàn toàn, đến được bờ giải thoát.
Nói xong, ngay
trước Thái tử vị hóa Tỳ-kheo hiện sức thần thông bay lên không mà đi. Lúc ấy,
các quan quân theo hầu đều trông thấy.
Thái tử sau khi
thấy vị Tỳ-kheo ấy và nghe nói rõ về công đức của việc xuất gia, trong lòng vốn
đã nhàm chán cảnh ham muốn ở đời nên cất tiếng hô lớn:
-Lành thay!
Lành thay! Trong cõi trời người, chỉ có con đường đó là hơn hết. Ta nhất định
tu học theo con đường ấy.
Nói xong, Thái
tử truyền đánh xe quay về thành. Lúc ấy lòng Thái tử rất vui, tự nghĩ: “Trước
đây, Ta thấy nỗi khổ của già, bệnh, chết, khiến ngày đêm lo sợ chúng bức bách.
Nay gặp vị Tỳ-kheo làm cho tỏ ngộ, chỉ rõ con đường giải thoát”. Nghĩ thế nên
Thái tử luôn tìm cách xuất gia.
Khi đoàn người
hồi cung, vua Bạch Tịnh liền hỏi Ưu-đà-di:
-Thái tử hôm
nay ra thành đi dạo có được vui không?
Ưu-đà-di thưa:
-Thái tử trên
đường đi không gặp điều gì không lành. Khi vào trong vườn, Thái tử một mình đến
ngồi dưới bóng cây thì từ xa trông thấy một người cạo bỏ râu tóc, thân khoác y
cà-sa, đến trước Thái tử trò chuyện, trò chuyện xong thì bay lên hư không mà
đi, không ai biết họ nói với nhau điều gì. Sau đó Thái tử truyền lệnh đánh xe
trở về. Lúc ấy khuôn mặt Thái tử rất vui vẻ, khi về đến cung mới sinh buồn rầu.
Vua Bạch Tịnh
nghe những lời Ưu-đà-di tâu lòng sinh nghi ngờ, không biết đó là điềm gì nên
càng lo buồn, thầm nghĩ: “Thái tử chắc sẽ bỏ nhà đi học đạo, vả lại Thái tử
cưới vợ đã lâu mà không có con. Nay ta phải bảo Da-du-đà-la phải làm thế nào;
nếu không sẽ không người nối ngôi, lại phải đề phòng, kẻo Thái tử đi lúc nào
không biết”. Nghĩ thế rồi vua liền đem những ý nghĩ đó bảo với Da-du-đà-la.
Da-du-đà-la nghe vua nói thẹn thùng im lặng và từ đó đi, đứng, nằm, ngồi không
rời Thái tử, còn nhà vua thì truyền tuyển những cung nữ thật xinh đẹp đến để
làm vui lòng Thái tử.
Năm Thái tử
được mười chín tuổi, Ngài suy nghĩ: “Nay đúng là lúc Ta nên xuất gia tu tập”.
Nghĩ rồi liền đến chỗ vua cha với thần thái ung dung, nghiêm trang như trời Đế
Thích đến gặp trời Phạm Thiên. Những quan hầu cận trông thấy Thái tử đến vội
vào trình tâu với vua. Vua nghe tâu trong lòng nửa mừng nửa lo. Thái tử đến gần
cúi đầu lễ vua cha, nhà vua liền đỡ Thái tử lên và bảo Thái tử ngồi. Sau khi
ngồi xuống, Thái tử thưa vua cha:
-Ân ái có hội
hợp phải có chia ly. Cúi xin phụ vương cho con đi xuất gia học đạo. Tất cả mọi
người khi yêu thương mà phải xa nhau sẽ rất đau khổ. Nay con muốn làm cho mọi
người đều được giải thoát, xin phụ vương chấp thuận, đừng cản trở con.
Vua Bạch Tịnh nghe xong lời Thái tử
tâu, lòng rất đau khổ, khác nào núi Kim cang xô ngã những núi khác, toàn thân
run rẩy, không thể ngồi vững được. Vua cầm tay Thái tử ứa lệ không nói nên lời.
Một lúc lâu sau, vua mới cất giọng nghẹn ngào nói:
-Con nên bỏ ý
định xuất gia đi, vì sao? Vì tuổi con còn trẻ, nước nhà lại chưa có người nối
dõi, giờ chỉ còn một mình cha, con nỡ nào lại bỏ ra đi.
Thái tử thấy
vua cha buồn bã khóc lóc, không ưng thuận nên quay về cung, suy nghĩ đến việc
xuất gia mà buồn rầu không vui.
Bấy giờ các thầy tướng giỏi ở thành Ca-tỳ-la đều đoán trong vòng bảy ngày nếu
Thái tử không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu
thiên hạ, bảy món báu sẽ tự nhiên hiện nên liền đến tâu vua:
-Dòng họ
Thích-ca nay sắp hưng thịnh.
Vua nghe thế
rất vui, lập tức truyền lệnh cho các quan và các vị trong Thích tộc đến bảo:
-Các khanh có
nghe lời tiên đoán của các tướng sư không? Vậy nay mọi người đều phải ngày đêm
theo hầu, canh giữ Thái tử. Ở bốn cửa
thành, mỗi cửa phải bố trí một ngàn người canh giữ, khắp chu vi bên ngoài
thành, cứ một do-tuần phải đặt một đội quân canh phòng.
Nhà vua còn
truyền cho Da-du-đà-la và các quan trong nội cung phải nên gia tăng canh phòng
hơn nữa, suốt trong bảy ngày không để Thái tử xuất gia. Vua lại đến cung của
Thái tử. Thái tử thấy vua cha đến liền ra nghinh tiếp, vấn an sức khỏe. Vua nói
với Thái tử:
-Xưa kia tiên
A-tư-đà và nay các tướng sư cũng nói là con nhất định không ưa thích sống trong
cảnh trần tục, nhưng việc nối dõi tông đường rất quan trọng, vương tộc phải có
người kế vị. Vậy cha xin con hãy sinh cho cha đứa cháu rồi hãy xuất gia. Con
không nên trái ý cha.
Thái tử nghe
lời phụ vương nói xong, trong lòng suy nghĩ: “Sở dĩ vua cha không cho Ta xuất
gia chính là vì chưa có người nối ngôi”. Thái tử liền thưa với vua cha:
-Quý hóa thay
lời dạy của phụ vương!
Thái tử liền
dùng tay trái chỉ vào bụng Da-du-đà-la. Vài ngày sau, Da-du-đà-la thấy trong người
khác lạ, biết là đã thọ thai. Vua nghe Thái tử khen lệnh của mình nên rất vui
mừng nghĩ rằng trong bảy ngày nữa nhất định chưa thể có cháu ngay được. Nếu quá
kỳ hạn bảy ngày tự nhiên Thái tử sẽ lên ngôi Chuyển luân vương, hẳn là không
còn ý định xuất gia nữa.
Lúc ấy Thái tử
suy nghĩ: “Nay Ta đã mười chín tuổi. Hôm nay là mùng bảy tháng hai chính là lúc
Ta phải tìm đường xuất gia, vả lại sở nguyện của vua đã được đáp ứng”. Nghĩ thế
xong Thái tử từ thân phóng hào quang chiếu sáng cung điện của Tứ Thiên vương và
đến tận cung trời Tịnh cư, nhưng không để nhân gian trông thấy. Bấy giờ chư
Thiên thấy ánh sáng ấy biết Thái tử đã đến lúc xuất gia liền xuống chỗ Thái tử,
cung kính lễ và chắp tay thưa:
-Từ vô lượng
kiếp Ngài đã phát nguyện tu hành, nay đã đến lúc xuất gia.
Thái tử đáp:
-Đúng như lời
các ông vừa nói, nay đã đến lúc Ta xuất gia nhưng phụ vương đã ra lệnh bố trí
từ trong cung đến ngoài thành đều có quan quân canh gác cẩn thận, muốn đi rất
khó.
Chư Thiên thưa:
-Chúng tôi sẽ
có cách để Thái tử ra khỏi thành mà không ai hay
Chư Thiên liền
dùng thần lực khiến quan quân ngủ say. Bấy giờ Da-du-đà-la trong giấc ngủ mộng
thấy ba điềm: một là thấy mặt trăng rơi xuống đất, hai là thấy răng rụng, ba là
thấy mất cánh tay phải. Da-du-đà-la giật mình tỉnh giấc vô cùng lo sợ báo với
Thái tử:
-Thiếp vừa thấy
ba giấc mộng dữ.
Thái tử hỏi:
-Nàng mộng thấy
những gì?
Da-du-đà-la kể
lại các giấc mộng ấy. Thái tử nói:
-Trăng vẫn ở
trên trời, răng nàng vẫn còn đó, tay nàng nào có mất. Nàng cần biết mộng mị đều
là giả, không nên lo sợ.
Da-du-đà-la vội
thưa:
-Theo điềm mộng
ấy, thiếp chỉ lo sợ Thái tử sẽ xuất gia.
Thái tử liền
trấn an:
-Nàng hãy ngủ
yên, đừng lo nghĩ về việc ấy, sẽ không có gì xấu đến với nàng đâu.
Da-du-đà-la
nghe thế bèn yên tâm ngủ lại. Lúc ấy Thái tử từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn ngắm
các thị nữ và Da-du-đà-la ngủ say bất động như các hình nhân bằng gỗ, ví như
thân cây chuối rỗng xốp không chắc thật. Có người nằm ôm choàng các dụng cụ ngủ
say, chân tay buông thõng xuống đất; lại có người say ngủ các nước dịch trong
mắt, mũi, miệng ứa tràn ra. Rồi Thái tử nội quán thấy rõ các hình hài xinh đẹp
kia nào là tóc, móng tay chân, não tủy, xương răng, hộp sọ, da, mỡ, thịt, máu,
mủ, tim, gan, phổi, ruột già, ruột non, thận, mật... và các loại vật ô uế như
phân, nước tiểu, đờm dãi... Bao bọc tất cả những thứ ô uế đó là một lớp da,
chẳng có gì là xinh đẹp. Thế mà họ lại dùng hương, hoa, đồ trang sức để xoa ướp
và trang điểm cho nó. Thân này ví như đồ vay mượn rồi phải mất, không thể tồn
tại lâu được. Con người sống trăm năm thì đã ngủ mất một nửa thời gian, còn lại
là những lúc đau khổ sầu não, có mấy khi được vui. Người đời luôn nhìn thấy việc
ấy nhưng tại sao không tỉnh ngộ, lại mê đắm dâm dục, nay cần phải xuất gia tu
tập theo con đường của chư Phật xưa kia để mau rời khỏi tai họa như hỏa hoạn
này.
Thái tử suy
nghĩ như thế đến nửa đêm, vị Thiên vương ở cõi trời Tịnh cư và chư Thiên ở các
cõi trời Dục giới hiện ra đầy khắp không trung, đồng thanh thưa với Thái tử:
-Nay các quan
quân và quyến thuộc trong ngoài đều đã ngủ say, chính là lúc Ngài nên xuất gia.
Thái tử liền
đến chỗ Xa-nặc. Do thần lực của chư Thiên nên Thái tử vừa gọi là Xa-nặc liền
tỉnh giấc. Thái tử bảo:
-Ngươi hãy
thắng con ngựa Kiền-trắc và dắt đến đây cho Ta.
Xa-nặc lúc ấy
toàn thân run sợ, trong lòng do dự vì không muốn trái lời Thái tử, nhưng cũng
lại sợ nghiêm lệnh của đức vua nên ngẫm nghĩ hồi lâu rồi khóc thưa:
-Lệnh của nhà
vua rất nghiêm, vả lại giờ này không phải giờ đi du ngoạn, cũng không phải lúc
ngăn chặn địch quân, vậy trong đêm thanh vắng này, Thái tử muốn thần thắng ngựa
để đi đâu?
Thái tử nói:
-Ta nay muốn
diệt trừ mọi kết sử phiền não cho tất cả chúng sinh. Vậy ngươi không nên trái ý
Ta.
Xa-nặc liền
khóc lớn có ý làm cho Da-du-đà-la cùng với quan quân quyến thuộc tỉnh giấc
nhưng do thần lực của chư Thiên nên mọi người vẫn ngủ say không ai hay biết gì.
Xa-nặc đành dắt ngựa đến. Thái tử bước đến bảo Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc.
-Tất cả mọi sự
yêu thương, hễ có sum họp phải có chia ly. Đó là lẽ thường tình của thế gian,
nếu không thế thì việc xuất gia khó mà thành được.
Xa-nặc nghe
những lời ấy lặng thinh không nói, Kiền-trắc cũng không cất tiếng hí.
Bấy giờ thấy
trời gần sáng, Thái tử liền từ thân phóng hào quang chiếu sáng khắp mười
phương, cất tiếng oai hùng như Sư tử nói:
-Chư Phật trong
quá khứ đã xuất gia như thế nào, Ta nay cũng như vậy.
Chư Thiên liền
nâng bốn vó ngựa và cả Xa-nặc, còn trời Đế Thích cầm lọng đi theo, chư Thiên
làm cho cửa thành phía Bắc tự nhiên mở ra mà không gây tiếng động. Thái tử ra
khỏi thành, chư Thiên tháp tùng theo sau ca ngợi. Và lúc ấy Thái tử cất tiếng
hùng như sư tử phát lời thệ nguyện:
-Nếu Ta không
dứt trừ được sinh, lão, bệnh, tử và khổ đau sầu não cho cả thế gian, trọn đời
Ta sẽ không trở về cung. Nếu không chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
chuyển pháp luân độ chúng sinh thì Ta không trở về gặp phụ vương. Nếu không dứt
được tình ân ái thì không bao giờ Ta gặp lại dì Ma-ha Ba-xà-ba-đề và
Da-du-đà-la.
Lời nguyện của
Thái tử vừa phát ra, chư Thiên trên hư không đồng thanh ca ngợi:
-Quý hóa thay!
Lời nguyện ấy nhất định sẽ thành tựu.
Trời vừa sáng
tỏ, Thái tử đã đi được ba do-tuần. Chư Thiên tháp tùng theo Thái tử đi đến đó
thấy công việc đã xong nên liền biến mất.
Sau đó, Thái tử
lần bước đi tới khu rừng có Tiên nhân Bạt-già đang tu khổ hạnh. Thấy khu rừng
thanh vắng Thái tử rất vui mừng, thân tâm khoan khoái nhẹ nhàng liền xuống
ngựa, vỗ lên lưng ngựa Kiền-trắc an ủi:
-Việc gian khó
nhất ngươi đã vượt qua.
Thái tử lại nói
với Xa-nặc:
-Ngựa Kiền-trắc
đi nhanh như Kim sí điểu, vua của loài chim, ngươi vẫn luôn theo Ta không rời.
Ta từng suy ngẫm ở đời có người lòng lành mà bề ngoài trông như ác, có người bề
ngoài xem hiền lành nhưng tâm lại không thế, còn ngươi thì tâm và thân không
trái nhau. Trong thế gian có người vì ham giàu sang mà suốt đời bám víu; nay Ta
bỏ vương quốc đến khu rừng này chỉ có một mình ngươi đi theo, quả thật là hiếm
có. Nay Ta đã đến nơi vắng vẻ yên tịnh rồi, ngươi nên dắt ngựa Kiền-trắc trở về
cung.
Xa-nặc nghe Thái tử nói thế buồn bã
khóc than đến nỗi quỵ ngã xuống đất, còn ngựa Kiền-trắc thì quỳ hai chân trước,
cúi đầu liếm chân Thái tử, đôi dòng lệ tuôn tràn. Xa-nặc thưa:
-Nay thần làm
sao nghe theo lời Thái tử được, bởi vì thần đã trái lệnh của đức vua, dắt ngựa
đưa Thái tử đến đây. Vua và phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề mất Thái tử chắc chắn sẽ
rất đau khổ, trong cung cũng sẽ náo động vì việc Thái tử ra đi. Hơn nữa, ở đây
rừng sâu hiểm trở, thú dữ, trùng độc cùng bao nhiêu nguy hiểm khác nay thần nỡ
nào rời xa Thái tử, một mình trở về cung.
Thái tử đáp:
-Khi sinh ra,
Ta cũng một mình và khi chết tất cũng một mình, đâu có bạn bè, vả lại trong đời
có bốn điều khổ lớn là sinh, lão, bệnh, tử, lẽ nào Ta làm bạn với chúng. Nay Ta
vì muốn trừ dứt hẳn những nỗi khổ ấy nên mới đến đây. Sau khi đã đoạn tận khổ
đau, Ta sẽ là bạn với tất cả chúng sinh, còn nay Ta chưa xa lìa khổ được thì
làm sao có thể làm bạn với ngươi. Xa-nặc lại thưa:
-Từ khi sinh đến nay, Thái tử luôn ở
nơi cung cấm, thân thể tay chân đều mềm yếu, ngủ nghỉ có giường nệm êm ái,
không hề có chút gì khó chịu, bỗng chốc đến ở nơi núi non, nằm nghỉ trên gai
góc sỏi đá, lại ngồi dưới bóng cây, sao mà chịu được?
Thái tử bảo
Xa-nặc:
-Đúng như ngươi
nói, Ta ở trong cung không bao giờ phải nằm trên gai góc, nhưng nỗi khổ sinh
già bệnh chết có tránh được không?
Xa-nặc nghe
Thái tử nói thế chỉ biết đứng lặng câm, đôi dòng lệ ràn rụa, lòng đau đớn vô
cùng.
Bấy giờ Thái tử
đến bên Xa-nặc lấy thanh gươm báu rồi cất tiếng oai vệ như tiếng Sư tử nói:
-Chư Phật trong
quá khứ khi đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã xả bỏ trang sức, cạo râu
tóc, nay Ta cũng phải làm đúng theo pháp của chư Phật.
Nói rồi Thái tử
lấy mũ và hạt ngọc trên búi tóc trao cho Xa-nặc
bảo:
-Ngươi hãy đem
mũ và viên ngọc này về cho phụ vương Ta và quỳ dưới chân người tâu rằng: Ta nay
không phải vì muốn sinh lên cõi trời để hưởng lạc thú; cũng không phải là người
con bất hiếu, không phải vì giận hờn mà ra đi, Ta ra đi chỉ vì nhàm chán và
muốn dứt nỗi khổ sinh già bệnh chết. Ngươi nên vui mừng với niềm vui của Ta,
xem như gặp điều lành, chớ có buồn rầu. Nếu cha Ta có ý bảo Ta xuất gia chưa
đúng lúc, ngươi hãy thưa lại lời nói của Ta với vua cha là bệnh già chết đâu có
hẹn ngày, dù tuổi trẻ thanh tráng cũng không thể thoát được. Nếu vua trách Ta
chưa có con và chưa trình tâu mà đã rời bỏ cung điện xuất gia thì người tâu cho
vương phụ rõ Da-du-đà-la đã mang thai, vua hỏi nàng sẽ rõ. Trước đây phụ vương
đã ra lệnh như thế chứ Ta không tự ý. Xưa kia các vị Chuyển luân thánh vương
rời bỏ cung vào rừng tu hành, không có ai nửa chừng trở lại thọ hưởng năm dục,
nay Ta xuất gia cũng như vậy. Nếu chưa đạt được đạo Bồ-đề, Ta sẽ không về cung.
Đối với tất cả những thân thuộc nội ngoại có tình yêu thương với Ta, ngươi hãy
an ủi giúp Ta để họ khỏi buồn rầu thương nhớ.
Thái tử lại cởi
xâu chuỗi anh lạc trên người trao cho Xa-nặc và dặn:
-Ngươi hãy đem
chuỗi này về dâng lại cho dì Ma-ha Ba-xà-ba-đề và thưa rằng Ta vì muốn giải
thoát bao nỗi khổ ở đời nên xuất gia để hoàn thành chí nguyện ấy. Vậy chớ vì Ta
mà buồn khổ.
Thái tử lại
tháo bỏ tất cả trang sức còn lại trên thân đưa cho Xa-nặc bảo đem về trao cho
Da-du-đà-la và cũng an ủi: “ở đời hễ yêu thương mà xa nhau là khổ, nay Ta vì
muốn dứt khổ nên mới xuất gia học đạo, chớ vì Ta mà đau buồn”. Đối với những
người thân thuộc cũng vậy.”
Xa-nặc nghe
xong trong lòng càng đau buồn, nhưng không thể trái lời của Thái tử nên quỳ xuống
nhận mũ, chuỗi ngọc anh lạc và những đồ trang sức khác rồi ứa lệ thưa:
-Thần nghe chí
nguyện của Thái tử mà toàn thân rúng động, ngay những kẻ lòng như gỗ đá nghe
những lời ấy cũng còn thương cảm; huống chi thần đã bao năm hầu hạ Thái tử, nay
nghe những lời ấy tránh sao khỏi đau đớn trong lòng. Xin Thái tử hãy từ bỏ chí
nguyện ấy để đức vua, phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề và chánh phi Da-du-đà-la cùng
với bao vị quyến thuộc khác khỏi phải sầu đau khổ sở. Nếu Thái tử nhất định
không đổi ý thì chớ bỏ thần. Thần nay nguyện xin nương theo gót Thái tử trọn
đời không rời bởi nếu về cung chắc chắn đức vua sẽ quở trách thần sao lại để
Thái tử ở một mình nơi rừng vắng mà về thì thần tâu làm sao với đức vua?
Thái tử đáp:
-Ngươi không
nên nói thế. Ớ đời luôn có sự chia lìa, đâu phải lúc nào cũng sum họp. Ta vừa
sinh ra bảy ngày thì mẹ ta đã qua đời, mẹ con còn chia lìa huống chi là người
khác. Ngươi chớ riêng vì Ta mà quyến luyến, nên cùng Kiền-trắc trở lại hoàng
cung.
Thái tử ra lệnh
đến lần thứ hai mà Xa-nặc vẫn không chịu ra về.
Lúc ấy Thái tử
liền dùng kiếm tự cạo bỏ râu tóc và phát lời thệ nguyện:
-Nay Ta dứt bỏ
râu tóc nguyện đoạn trừ tất cả phiền não và bao tập khí chướng ngại.
Trời Đế Thích
liền nhận lấy tóc đem đi, chư Thiên trong hư không đốt hương, tung hoa xuống và
đồng lên tiếng khen ngợi:
-Lành thay!
Thật là tốt lành! Thái tử đã cạo bỏ râu tóc.
Lúc bấy giờ
nhìn lại trên thân mình vẫn vận y phục bằng bảy báu, Thái tử suy nghĩ: “Chư
Phật trong quá khứ khi xuất gia không thể mặc như thế này”. Bấy giờ vị trời
Tịnh cư biết ý nghĩ ấy nên hóa thân thành một người thợ săn mình mặc cà-sa đi
đến trước Thái tử. Thái tử trông thấy vô cùng vui mừng nói với người thợ săn:
-Chiếc áo ông
đang mặc là y thanh tịnh của chư Phật trong quá khứ đã vận. Sao ông lại mặc áo
này mà làm việc tội ác?
Người thợ săn
đáp:
-Tôi mặc cà-sa
để dụ bầy nai, chúng thấy cà-sa đều đến gần bên tôi, tôi mới bắn chúng được”.
Thái tử bảo:
-Theo lời ông
nói thì ông mặc cà-sa chỉ vì muốn giết hại bầy nai chứ không phải vì cầu giải
thoát. Nay Ta đổi cho ông chiếc áo bằng bảy báu này, Ta mặc cà-sa chỉ vì muốn
dứt trừ phiền não và cứu độ tất cả chúng sinh.
Người thợ săn
liền nói:
-Hay lắm! Xin
vâng theo lời của Ngài.
Hai người bèn
đổi áo cho nhau. Thái tử vận cà-sa vào giống như chư Phật trong quá khứ. Vị
Thiên tử cõi trời Tịnh cư cũng hiện trở lại thân trời, bay lên không trung trở
về Thiên cung. Trong không trung lúc bấy giờ hiện ra một vầng sáng lạ, Xa-nặc
thấy thế ngạc nhiên khen là chuyện chưa từng có vì điềm lành ấy chẳng phải là
việc bình thường.
Xa-nặc thấy
Thái tử đã cạo bỏ râu tóc, vận pháp phục thì biết rõ Thái tử nhất định không
bao giờ đổi ý nên trong lòng càng đau khổ, buồn rầu đến nỗi lại quỵ ngã xuống
đất. Thái tử khuyên:
-Ngươi nên bớt
sầu khổ bi lụy, trở về thành báo cho mọi người biết ý của Ta.
Nói xong Thái
tử thong thả cất bước về phía trước. Xa-nặc sụt sùi rơi lệ, cúi đầu lạy theo
Thái tử cho đến khi không còn trông thấy người nữa mới đứng lên run rẩy quay
nhìn Kiền-trắc và những đồ trang sức mà Thái tử để lại, lòng càng buồn nhớ,
nước mắt tuôn trào, tay dắt ngựa, tay cầm những đồ trang sức ấy rồi cả người
ngựa đều buồn bã theo đường cũ trở về kinh thành.
Cùng lúc ấy
Thái tử đã tới nơi tu hành của Tiên nhân Bạt-già. Các loài chim, thú trong rừng
nhìn thấy Thái tử đều sững sờ không chớp mắt, đứng yên không bay chạy. Tiên
nhân Bạt-già trông thấy Thái tử từ xa liền suy nghĩ: “Vị thần nào kìa? Phải
chăng là Trời Nhật nguyệt, hay vua trời Đế Thích?”. Tiên nhân cùng với thân hữu
vội ra nghênh đón Thái tử rất tôn kính, thưa:
-Kính chào Nhân
giả.
Thái tử thấy
các vị đạo sĩ tính tình hòa nhã, dáng vẻ khiêm tốn liền đi đến chỗ họ. Các vị
đạo sĩ không ai không phục sắc tướng uy nghiêm của Thái tử nên cùng đến mời
Ngài ngồi. Sau khi ngồi xong, Thái tử quan sát cách tu của các đạo sĩ thì thấy
có người dùng cỏ làm áo mặc; có người dùng vỏ cây hoặc lá cây làm quần áo.
Người thì chỉ ăn rau trái. Có người ăn một ngày một bữa, người thì hai, ba ngày
một bữa. Họ sống khổ hạnh như thế để thờ thần nước, thần lửa hoặc thờ mặt trời
mặt trăng. Có người đứng co một chân; có người nằm mãi trên đất; hoặc nằm trên
gai góc, bên nước lửa. Thái tử thấy lối tu khổ hạnh như thế liền hỏi Tiên nhân
Bạt-già:
-Các vị tu khổ
hạnh như thế thật là lạ lùng nhưng để cầu được gì?
Tiên nhân đáp:
-Chúng tôi tu
các pháp khổ hạnh ấy vì muốn được sinh lên cõi trời.
Thái tử lại
hỏi:
-Chư Thiên tuy
vui nhưng khi hết phước vẫn luân hồi trong sáu nẻo, cuối cùng vẫn chịu khổ. Sao
các vị tu cái nhân khổ để hưởng cái quả khổ như thế?
Thái tử trong
lòng buồn bã, thầm nghĩ: “Người đi buôn vì muốn có của báu nên đi vào biển cả
nguy hiểm. Nhà vua vì muốn mở rộng đất nước mà cử binh giao chiến, nay các đạo
sĩ này vì muốn lên cõi trời mà tu khổ hạnh”. Nghĩ như thế rồi Thái tử đứng lặng
yên không nói. Đạo sĩ Bạt-già thấy Thái tử yên lặng nên hỏi:
-Thưa Nhân giả,
ý Ngài như thế nào? Sao lại yên lặng không nói
gì? Có phải cách tu của chúng tôi không
đúng chăng?
Thái tử đáp:
-Các vị chọn
con đường tu thật đau khổ để cầu phước báo nhưng cuối cùng vẫn không thoát được
khổ.
Thái tử cùng
các vị đạo sĩ thảo luận cho đến chiều tối, đêm ấy Thái tử ngủ lại nơi đó. Trời
vừa sáng, Thái tử nghĩ: “Những vị Tiên nhân này chọn con đường tu khổ hạnh
nhưng chẳng phải là con đường giái thoát chân chánh, vậy Ta không nên ở đây”.
Thái tử liền từ biệt các vị Tiên nhân ấy. Các Tiên nhân hỏi:
-Nhân giả đến
đây, chúng tôi đều vui mừng, khiến uy thế chúng tôi tăng thêm. Nay sao đột
nhiên Ngài lại muốn đi nơi khác làm cho chúng tôi bị giảm bớt uy thế, hay là
trong chúng tôi có ai xúc phạm đến Ngài? Hay vì việc gì khác nên Ngài không ở
lại?
Thái tử đáp:
-Không phải các
vị thất lễ trong giao tiếp chủ khách, mà vì cách tu tập của các vị chỉ làm tăng
trưởng thêm sự khổ đau. Nay tôi học đạo là vì muốn diệt trừ tận gốc khổ đau, do
đó muôn đi nơi khác.
Các đạo sĩ nói
với nhau:
-Con đường tu
tập của vị ấy thật là rộng lớn, chúng ta làm thế nào mà giữ người ở lại được?
Lúc ấy trong số
các đạo sĩ có một người coi tướng giỏi nói với các đạo sĩ kia:
-Vị nhân giả
này có đủ các tướng tốt, chắc chắn sẽ đạt được Nhất thiết chủng trí, sẽ là Bậc
Đạo Sư của cả trời người.
Các vị đạo sĩ
nghe thế liền cùng đến trước Thái tử thưa:
-Vì con đường
tu hành có khác nhau nên không dám lưu Ngài ở lại. Nếu Ngài muốn đi, nên đi về
phương Bắc, nơi ấy có hai vị Đại tiên tên là A-la-la và Ca-lan. Nhân giả hãy
đến đó thảo luận với các vị Đại tiên ấy, nhưng chúng tôi nghĩ là Nhân giả cũng
không nên ở lại nơi ấy lâu.
Thái tử nghe
nói thế liền từ tạ đi về hướng Bắc. Các đạo sĩ nhìn Thái tử ra đi trong lòng
rất buồn nên cùng nhau chắp tay đi theo tiễn đưa Ngài, nhìn theo cho đến khi
Ngài đi khuất mới quay trở lại.
Từ lúc Thái tử
rời hoàng cung cho đến trời chiều, Da-du-đà-la và các cung nữ mới thức dậy.
Không trông thấy Thái tử, tất cả đều hoảng hốt than khóc, vội vàng đến báo với
phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề:
-Sáng nay bỗng
không tìm thấy Thái tử đâu cả.
Di mẫu nghe thế
hoảng hốt, mê loạn ngã quỵ xuống đất, ngất đi tỉnh lại mấy lần. Khi tỉnh lại,
bà vội đến chỗ vua báo tin. Vua nghe xong ngồi lặng đi không nói được một lời,
toàn thân rã rời như kẻ mất hồn. Cả trong lẫn ngoài cung, ai nghe cũng rụng
rời. Lúc ấy các quan đại thần vội đến cung của Thái tử và tuần hành khắp kinh
thành tìm kiếm, đến cổng thành phía Bắc thấy cửa thành tự nhiên mở toang, lại
cũng không trông thấy Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc liền hỏi các quan phụ trách rằng
ai đã mở cửa, nhưng mọi người đều nói là không biết, hỏi ngay người giữ cửa cũng
không biết vì sao cửa tự nhiên mở. Các vị đại thần nghĩ cửa thành phía Bắc mở
chắc chắn Thái tử đi ra cửa ấy, vậy phải mau đi tìm, liền sai một ngàn cỗ xe,
một vạn kỵ binh bủa ra bốn hướng tìm kiếm, nhưng vì thần lực của chư Thiên nên
không ai tìm ra được đường Thái tử đã đi. Họ trở về tâu vua đã tìm Thái tử khắp
nơi nhưng không gặp.
Lúc ấy Xa-nặc
đi bộ dắt ngựa Kiền-trắc, mang những đồ trang sức quý báu của Thái tử vừa đi
vừa khóc hướng về cửa thành. Dân chúng các
làng bên đường thấy thế rất kinh ngạc, ai cũng buồn bã cùng nhau chạy đến hỏi
Xa-nặc:
-Ông đưa Thái
tử đi đâu mà sao nay chỉ có một mình ông và ngựa Kiền-trắc trở về như thế?
Xa-nặc nghe mọi
người hỏi càng thêm đau buồn không thể nói được thành lời. Dân chúng thấy ngựa
Kiền-trắc được mang đai thắng yên bằng bảy báu rất trang nghiêm mà không thấy
Thái tử chẳng khác hoa đẹp trang điểm trên xác chết. Xa-nặc vừa đi vào thành,
ngựa Kiền-trắc bỗng cất tiếng hí buồn bã khiến bầy ngựa trong chuồng cũng lên
tiếng hí vang. Các quan bên ngoài vội vào cung thưa với phu nhân Ma-ha
Ba-xà-ba-đề và chánh phi Da-du-đà-la chỉ có Xa-nặc cùng ngựa Kiền-trắc trở về.
Hai người nghe thế vô cùng đau khổ nghĩ: “Tại sao nghe báo Xa-nặc và ngựa
Kiền-trắc trở về mà không nghe nói đến Thái tử”. Phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề
than thở:
-Ta nuôi Thái
tử từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành vậy mà trong thoáng chốc Thái tử đã bỏ
ta không biết đi về phương nào, khác chi trái cây chín rời cành, lại khác chi
người đói gặp bữa cơm thịnh soạn đang muốn ăn bỗng bị đổ đi tất cả.
Da-du-đà-la
cũng cất lời thống thiết:
-Thiếp cùng
Thái tử đi đứng nằm ngồi không rời một bước, nay người bỗng bỏ thiếp không biết
đi về đâu. Các vua ngày xưa, khi bỏ ngôi vào núi học đạo đều dẫn theo vợ con không
nỡ chia lìa. Người ở đời, một lần gặp biết nhau, khi chia tay còn không quên
nhau, nay tình ân ái vợ chồng vốn sâu nặng mà sao người lại bạc bẽo như thế.
Công chúa quay
lại mắng Xa-nặc:
-Thà làm kẻ thù
của người có trí còn hơn là thân thuộc với người ngu, ngươi là kẻ ngu si ám
độn, lén đưa Thái tử đến nơi nào để cho họ Thích không còn thịnh vượng được
nữa.
Lại trách ngựa
Kiền-trắc:
-Ngươi chở Thái
tử rời cung, lúc gần đi sao không lên tiếng, giờ một mình quay về lại hí lên
buồn bã.
Xa-nặc liền
thưa:
-Xin phu nhân
chớ trách thần và ngựa Kiền-trắc. Đó là do thần lực của chư Thiên chứ không
phải người làm được. Đêm ấy khi phu nhân cùng thể nữ đều ngủ say, Thái tử ra
lệnh cho thần thắng ngựa. Lúc ấy thần đã lớn tiếng khuyên can Thái tử, có ý
muốn cho phu nhân và các thể nữ giật mình tỉnh giấc. Đến khi thần thắng ngựa
Kiền-trắc cũng không ai hay. Trước đây cổng thành mỗi lần mở, tiếng vang đến
bốn mươi dặm, nhưng lúc ấy cửa tự mở toang không có một tiếng động, những việc
như thế chẳng phải là do thần lực của chư Thiên sao? Đến khi ra khỏi thành, chư
Thiên đã nâng vó ngựa và cả thần bay lên không trung, lại có vô số chư Thiên đi
theo, vậy thần làm sao ngăn cản được? Trời vừa rạng sáng thì Thái tử đi được ba
do-tuần, đến chỗ của đạo sĩ Bạt-già lại có những chuyện kỳ lạ xảy ra. Xin phu
nhân lắng nghe lời thần kể. Khi Thái tử đến khu rừng của Tiên nhân Bạt-già đang
tu khổ hạnh, người liền xuồng ngựa vỗ vào lưng ngựa Kiền-trắc và ra lệnh cho
thần trở về cung. Lúc ấy thần cứ đi theo Thái tử, không chịu trở về. Thái tử
nhất định không cho thần ở lại, lấy gươm báu rồi tuyên bố rằng chư Phật quá khứ
vì muốn đắc đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ những trang sức quý báu,
cắt bỏ râu tóc, nay Ngài cũng theo như chư Phật trong quá khứ. Nói xong Ngài
liền cởi mão và lấy hạt minh châu đưa cho thần bảo đem về dâng vua, lại đưa
chuỗi anh lạc bảo đem về dâng cho di mẫu, còn các trang sức khác thì bảo trao
lại cho phu nhân. Lúc đó dù nghe Ngài hối thúc nhưng lòng thần không muốn trở
về. Thái tử liền dùng gươm tự cắt bỏ râu tóc và được chư Thiên đến tiếp lấy tóc
đem đi. Thái tử đi tới trước một đoạn thì gặp một người thợ săn, liền lấy áo
thất bảo của mình đổi lấy y cà-sa mà người thợ săn đang mặc. Lúc ấy trên hư
không có luồng ánh sáng rất lớn. Thần thấy Thái tử đã thay đổi y phục, biết rõ
Thái tử nhất quyết không về nữa, lòng thần vô cùng đau đớn. Thái tử đi đến chỗ
Tiên nhân Bạt-già đang tu, thần đành từ biệt trở về. Những sự lạ lùng ấy đều do
sức thần của chư Thiên làm ra chứ con người làm sao mà làm được, vậy xin phu
nhân khiển trách thần và Kiền-trắc.
Khi đó phu nhân
Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Da-du-đà-la nghe Xa-nặc kể những việc lạ lùng ấy xong,
trong lòng đã đôi phần tỉnh ngộ nên im lặng không nói. Khi nhà vua vơi bớt đau
đớn buồn bã, liền kêu Xa-nặc hỏi:
-Tại sao ngươi
làm khổ dòng họ Thích như thế. Ta đã nghiêm lệnh cho mọi người trong ngoài giữ
gìn Thái tử chỉ e sợ Thái tử xuất gia. Sao ngươi lại lén thắng ngựa Kiền-trắc
và ra đi cùng Thái tử?
Xa-nặc nghe lời
vua quở trách run sợ vội tâu:
-Thái tử rời
khỏi hoàng thành đi không phải lỗi tại thần, xin đại vương hãy nghe thần kể đầu
đuôi.
Nói xong Xa-nặc
liền lấy mũ báu, hạt minh châu đặt dưới chân vua rồi thưa:
-Thái tử bảo
thần đem mũ và hạt minh châu này về dâng lên bệ hạ, xâu chuỗi anh lạc thì dâng
cho di mẫu, còn các đồ trang sức khác thì trao cho chánh phi Da-du-đà-la.
Vua thấy những
thứ ấy lòng càng buồn nhớ Thái tử không nguôi, đến gỗ đá còn phải động lòng huống
chi tình cảm cha con sâu nặng. Xa-nặc thuật lại toàn bộ sự việc đã xảy ra cho
vua nghe và tâu:
-Thái tử truyền
lệnh cho thần là nếu đại vương cho là cần có con nối dõi rồi mới xuất gia, nay
chưa có con sao đã xuất gia thì thưa với bệ hạ rằng vào lúc ra đi Thái tử chưa
tâu cho bệ hạ rõ là chánh phi Da-du-đà-la đã có thai rồi, bệ hạ nên hỏi nàng.
Trước kia bệ hạ đã hứa như thế, nay Ngài đã thực hiện đúng như vậy chứ không
phải Ngài tự tiện ra đi.
Vua nghe thế
liền cho mời Da-du-đà-la đến hỏi:
-Thái tử bảo
con đã có thai, phải đúng như vậy không?
Da-du-đà-la
liền thưa vua:
-Vào hôm đại
vương đến cung, Thái tử lấy tay chỉ vào con, con lập tức cảm thấy trong người
khác lạ nên biết mình đã thụ thai.
Vua nghe thế lấy làm lạ, lòng ưu sầu có
giảm bớt, thầm nghĩ: “Lúc ấy ta hứa như thế là nghĩ chỉ trong bảy ngày làm sao
có con được và như vậy ngôi Chuyển luân vương tự nhiên sẽ đến, không ngờ chưa
hết bảy ngày mà Da-du-đà-la đã có mang thật là do lỗi ta thiếu trí, vì muốn tìm
cách lưu Thái tử nên hứa như thế, giờ càng hối hận. Thái tử mưu trí vượt ngoài
sự dự liệu của người khác. Việc này còn có thần lực của chư Thiên, nay ta không
nên trách Xa-nặc”.
Vua nghĩ Thái
tử quyết không về thì dù có làm cách gì cũng không đưa Thái tử về được. Tuy
Thái tử xuất gia học đạo nhưng nay đã có người nối dõi không sợ vương tộc tuyệt
hậu. Hiện nay cần phải bảo Da-du-đà-la nên giữ gìn cẩn thận đứa con trong bụng.
Vua Bạch Tịnh vì quá nặng tình cha con
nên nói với Xa-nặc:
-Nay ta nhất
định cho đi tìm Thái tử nhưng không biết Thái tử đang ở đâu. Thái tử bỏ ta đi
học đạo, ta làm sao có thể sống một mình. Ta nhất định phải đi tìm Thái tử.
Lúc ấy Quốc sư
và một vị đại thần nghe vua muốn đi tìm Thái tử liền đến can ngăn:
-Đại vương chớ
quá buồn phiền. Chúng tôi thấy tướng mạo của Thái tử chắc là trong đời quá khứ
đã nhiều kiếp xuất gia tu học nên ngay ngôi vị Đế Thích cũng không muốn huống
chi là ngôi Chuyển luân vương làm sao giữ chân Thái tử được. Đại vương không
nhớ lúc mới sinh, Thái tử đã từng đi bảy bước, chỉ tay lên cao mà nói: “Ta
không còn chuyển sinh nữa, đây là thân sau cùng”. Lúc ấy các vị trời Phạm
thiên, Đế Thích đều đến chúc mừng, có điều kỳ diệu như vậy thì Thái tử đâu còn
lưu luyến cõi trần, vả lại tiên A-tư-đà đã từng xem tướng cho Thái tử và quả
quyết là năm mười chín tuổi Thái tử sẽ xuất gia học đạo và sẽ thành Bậc Nhất
Thiết Chủng Trí. Ngày nay sự việc xảy ra đều đúng, đại vương sao còn sầu khổ
như thế. Hơn nữa đại vương đã từng ra nghiêm lệnh cho quan quân trong và ngoài
thành giữ gìn Thái tử sợ Thái tử xuất gia nhưng rồi chư Thiên đã đến đưa Thái
tử ra khỏi thành, như thế thì sức người làm sao ngăn cản được. Vậy xin đại
vương nên vui mừng, đừng mãi ôm lòng buồn phiền và không nên ra đi tìm Thái tử,
còn nếu bệ hạ lo lắng cho Thái tử thì chúng tôi sẽ đi tìm xem Thái tử hiện nay
đang ở đâu.
Vua nghe lời
can ngăn bèn suy nghĩ: “Ta biết Thái tử không về, lòng ta không thể quên được
nhưng cũng chẳng thể tìm kiếm được, vậy ta nay phải nhờ quốc sư và quan đại
thần đi xem sao”. Nghĩ xong nhà vua liền đáp:
-Lành thay! Các
khanh hãy lên đường tìm Thái tử giúp ta. Mọi người ở trong và ngoài cung đều
đang sầu khổ, vậy hai khanh không nên chậm trễ.
Quốc sư và vị
đại thần liền từ giã đức vua ra đi tìm Thái tử.
Quyển 3
Bấy giờ vua
Bạch Tịnh sau khi đã truyền lệnh cho Quốc sư và quan đại thần đi tìm Thái tử,
liền lấy xâu chuỗi anh lạc của Thái tử trao cho phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề nói:
-Đây là xâu
chuỗi anh lạc của Thái tử đeo trao cho Xa-nặc đem về giao lại cho khanh.
Phu nhân Ma-ha
Ba-xà-ba-đề trông thấy xâu chuỗi lòng càng đau khổ, tự nghĩ: “Trong cuộc đời
này, chỉ ta là người bạc phước nhất vì đã mất một vị Chuyển luân thánh vương
đầy trí sáng suốt”. Vua lại đưa những đồ trang sức còn lại cho Da-du-đà-la bảo:
-Thái tử bảo
đưa trang sức này cho con.
Da-du-đà-la
nhìn thấy những món trang sức ấy liền ngã ra đất ngất lịm, vua liền cho người
đỡ dậy, an ủi, và dặn chánh phi phải tự bảo trọng đừng quá đau khổ mà ảnh hưởng
không tốt đến thai nhi.
Khi Quốc sư và quan đại thần đến khu
rừng tu khổ hạnh của vị Tiên nhân Bạt-già, họ liền bỏ nghi trượng và cho đoàn
người tùy tùng dừng lại bên ngoài rừng, chỉ hai người đi tới chỗ vị đạo sĩ. Vị
đạo sĩ mời hai người ngồi, cùng chào hỏi xong, vị Quốc sư lên tiếng thưa:
-Tôi là Quốc sư
của vua Bạch Tịnh, nay đến đây là vì nhà vua có một Thái tử nhưng Thái tử chán
cảnh khổ sinh già bệnh chết nên đã đến vùng này xuất gia học đạo. Xin hỏi đạo
sĩ có gặp không?
Tiên nhân
Bạt-già đáp:
-Gần đây chúng
tôi có gặp một chàng trai trẻ dung mạo rất trang nghiêm, đầy đủ tướng tốt, đến
khu rừng này cùng tôi bàn luận và ngủ lại một đêm, không ngờ đó lại là Thái tử.
Vì cho đạo chúng tôi thô thiển nên người đã đi về hướng Bắc, đến chỗ đạo sĩ
A-la-la và Ca-lan.
Hai người nghe
vị đạo sĩ nói thế liền vội vã từ giã đi về hướng Bắc nơi hai vị Tiên nhân kia
cư ngụ. Hai người đi được giữa đường thì thấy Thái tử từ xa đang ngồi tĩnh tọa
dưới bóng cây, tướng tốt rạng rỡ như mặt trời mặt trăng, nên vội xuống ngựa, để
lại nghi trượng cùng người tùy tùng, đi đến chỗ Thái tử và ngồi sang một bên.
Sau khi chào hỏi xong, vị Quốc sư thưa:
-Đại vương sai
chúng tôi đi tìm Thái tử có điều muốn thưa với Thái tử.
Thái tử hỏi:
-Phụ vương sai
các vị đến nói điều gì?
Vị Quốc sư
thưa:
-Đại vương từ
lâu đã biết Thái tử muốn xuất gia, ý định đó khó thay đổi nhưng lòng vua đối
với Thái tử tình còn sâu nặng nên lo rầu nung nấu dường như lửa đốt, mong Thái
tử trở về để dập ngọn lửa ưu sầu phiền muộn. Cúi xin Thái tử hãy trở về. Dù nơi
vương cung có nhiều chướng ngại nhưng không để cho Thái tử mất đạo nghiệp, bỏ
sự tĩnh tâm, cần gì phải vào rừng núi. Hiện nay phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề và
chánh phi Da-du-đà-la cùng tất cả họ hàng nội ngoại đang đắm chìm trong biển
nhớ thương, mong Thái tử trở về cứu vớt họ Thái tử nghe Quốc sư nói thế bèn cất
tiếng tha thiết trả lời:
-Có lẽ nào Ta
lại không biết tình cảm sâu nặng của phụ vương đối với Ta sao? Ta chỉ vì sợ cái
khổ do sinh già bệnh chết nên đến đây tìm học đạo để dứt trừ chúng. Nếu yêu
thương mà sum họp mãi mãi, không có sinh già bệnh chết thì Ta đến đây làm gì?
Nay Ta xa phụ vương là muốn trong tương lai sẽ được sum họp. Hiện nay phụ vương
tuy bị lửa buồn rầu thiêu đốt, đời nay Ta và phụ vương Ta chỉ có nỗi khổ ấy,
nhưng mai sau sẽ trừ diệt được mối lo đó. Nếu theo lời ông nói, muốn Ta cứ ở
trong cung mà tu hành thì chẳng khác nào ngôi nhà thất bảo đang bị bốc cháy, có
người nào có thể ở trong đó được không? Giống như món ăn có độc thì người đói
cũng không thể ăn. Ta đã lìa bỏ vương quốc xuất gia tu hành, vì sao ông lại bảo
Ta trở về cung tu tập. Người đời đang ở trong nỗi khổ lớn, chỉ vì một chút vui
mà say đắm không thể rời được, huống chi Ta nay ở nơi vô cùng vắng vẻ, an tịnh
không có các nỗi khổ, sao có thể bỏ đi để trở lại với cảnh xấu ác? Các vua xưa
vào rừng tu hành không ai nửa chừng trở về thọ hưởng dục lạc. Nếu phụ vương
nhất định muốn Ta trở về là trái với đạo pháp của các vua xưa.
Vị Quốc sư liền
thưa với Thái tử:
-Lời Thái tử
vừa nói quả thật rất đúng nhưng các vị Tiên thánh có người nói tương lai chắc
chắn có quả báo, cố người lại bảo không có điều đó. Các vị Tiên thánh ấy còn
không thể biết chắc trong đời sau có hay không có quả báo, sao Thái tử lại muốn
bỏ an lạc hiện tại mà tìm quả báo tương lai chưa chắc chắn? Sông chết, quả báo
còn chưa biết có không, sao lại muốn tìm quả giải thoát. Cúi xin Thái tử
hãy trở về cung.
Thái tử trả
lời:
-Hai vị Tiên
kia nói về quả báo trong tương lai. Người bảo có, kẻ bảo không, đều bởi ôm lòng
nghi ngờ nên chẳng thể khẳng định. Nay Ta hoàn toàn không tu theo con đường của
những vị Tiên đó. ông không nên lấy lý lẽ của họ để vấn nạn Ta. Vì sao? Vì Ta
không phải mong cầu quả báo mà rời hoàng cung đến đây tìm đạo, nhưng vì chính
mắt Ta trông thấy nỗi khổ sinh già bệnh chết mà bất cứ ai cũng phải trải qua
nên Ta đi tìm con đường giải thoát khỏi những nỗi khổ ấy. Không lâu nữa các ông
sẽ thấy đạo của Ta, Ta sẽ hoàn thành được chí nguyện. Nay Ta không thể trở về.
Các ông hãy về tâu lại với phụ vương Ta như thế.
Nói xong Thái tử đứng dậy từ giã Quốc
sư và quan đại thần đi về hướng Bắc, nơi có hai vị Tiên nhân A-la-la và Ca-lan
đang tu hành.
Lúc ấy, cả hai
thấy Thái tử bỏ đi liền kêu khóc thảm thiết, bởi bỗng nhớ đến ân tình sâu nặng
của Thái tử và cũng vì nhận lệnh của đức vua đến chỗ Thái tử mà vẫn không thể
nào làm chuyển lay được ý chí của người nên cứ quanh quẩn bên đường, không thể
quay về. Họ bàn với nhau:
-Chúng ta đã
chịu mệnh lệnh của vua mà không làm được việc, bấy giờ trở về
không có Thái tử biết tâu với vua thế nào? Vậy chúng ta nên để lại năm người
trong số những người đi theo, chọn những người thông minh trí tuệ, tính tình ôn
hòa, trung tín, ngay thẳng thuộc dòng họ nổi tiếng, ngầm sai họ theo dõi Thái
tử xem người đi về đâu và dừng lại nơi nào.
Nói xong cả hai
vị xem xét trong đoàn người hầu cận thân tín, thấy nhóm người năm ông
Kiều-trần-như là xứng đáng, liền bảo họ:
-Các ông có thể
ở lại được không?
Năm người đều
đáp:
-Thật là hạnh
phúc! Chúng tôi xin tuân lời ở lại để theo Thái tử, xem người đi về đâu.
Nói xong, cả
năm người vội từ biệt đi theo hướng Thái tử vừa đi, còn hai vị Quốc sư và quan
đại thần cũng quay gót về cung.
Trên đường tới
trụ xứ của hai vị Tiên nhân A-la-la và Ca-lan, Thái tử đã vượt qua sông Hằng
rồi theo đường đến thành Vương xá. Khi vào thành, dân chúng thấy thân tướng và
dung mạo vô cùng trang nghiêm, đẹp đẽ của Thái tử nên rất hân hoan ngưỡng mộ
cung kính. Dân chúng trong thành tranh nhau đến xem làm huyên náo cả thành
khiến vua Tần-tỳ-sa-la ngạc nhiên hỏi các quan hầu:
-Có việc gì mà
ồn ào, inh ỏi thế?
Các quan thưa:
-Vị Thái tử con
vua Bạch Tịnh tên là Tát-bà Tất-đạt khi mới sinh đã được các thầy tướng đoán
rằng sau này sẽ lên ngôi Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, còn
nếu xuất gia sẽ thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí; Người ấy vừa vào thành, dân
chũng đã tranh nhau đến xem nên gây ra huyên náo ồn ào.
Vua
Tần-tỳ-sa-la nghe tâu trong lòng rất đỗi vui mừng liền sai một người đi dò xem
nơi ở của Thái tử. Sứ giả vâng lệnh đi tìm, gặp Thái tử đang ngồi tĩnh tọa suy
tư trên một phiến đá tại núi Bàn-trà-bà. Sứ giả vội trở về trình tâu lên vua.
Đức vua liền sai chuẩn bị xa giá cùng các quan và nhân dân đến chỗ Thái tử. Khi
vừa đến núi Bàn-trà-bà, từ xa vua đã thấy tướng mạo của Thái tử sáng rỡ như mặt
trời, mặt trăng nên liền xuống ngựa dẹp bỏ nghi trượng, không cho người hầu đi
theo, vua đến bên Thái tử ngồi và vấn an sức khỏe:
-Thái tử có
được bình yên không? Được gặp Thái tử tôi rất vui mừng, nhưng có một điều buồn
đó là Thái tử vốn thuộc dòng họ cao quý, nhiều đời nối ngôi làm Chuyển luân
vương, có đầy đủ tướng của một vị Chuyển luân, sao lại rũ bỏ tất cả vào trong
rừng sâu, giẫm trên gai góc đất cát từ xa đến đây, tôi buồn là vì thấy điều ấy.
Nếu Thái tử thấy vua cha còn tại thế, không thể lên ngôi Chuyển luân vương, tôi
xin chia nửa nước tôi cho người cai trị, còn nếu Thái tử chưa đồng ý thì tôi
xin nhường cả nước cho Ngài, tôi sẽ phụng sự Thái tử. Nếu Thái tử không muốn
cai trị vương quốc này, tôi xin giao cho Ngài bốn đạo binh để chiếm lấy một
nước khác. Điều ấy chắc không trái với ước nguyện của Thái tử.
Nghe vua
Tần-tỳ-sa-la nói thế, Thái tử rất cảm động về tấm chân tình của nhà vua liền
đáp:
-Đại vương vốn
thuộc dòng họ quyền quý, bản tính cao thượng, thuần thiện, không làm những điều
sai quấy, bất nhã, những điều đại vương đã làm đều rất cao đẹp, trong sạch, nay
nói những lời ấy không lấy gì làm lạ. Tuy tôi biết lòng chí thành của đại vương
hơn hẳn người đời xưa nay nhưng nay đại vương đang tu theo pháp tam kiên là xem
thường thân thể, mạng sống và tài sản thì lẽ nào đem pháp bất kiên mà khuyến dụ
người khác. Tôi đã bỏ ngôi Chuyển luân thì lý đâu lại nhận ngôi vua. Đại vương
có lòng chân thành nhường vương quốc cho tôi, tôi còn không nhận thì lẽ nào lại
đem quân đi đánh chiếm quốc gia khác. Sở dĩ tôi nay lìa xa cha mẹ, cạo bỏ râu
tóc, không màng ngôi vị là muốn dứt các nỗi khổ sinh già bệnh chết chứ không
muốn đi tìm cầu năm món dục lạc ở đời đâu. Năm món dục lạc ấy là đống lửa thiêu
đốt chúng sinh làm cho họ không thoát ra được, sao lại khuyên tôi say đắm nó?
Nay tôi đến đây vì muốn tìm hai vị Tiên nhân A-la-la và Ca-lan là các vị đạo sư
có con đường giải thoát tối thượng, tôi từ xa đến đó là muốn tìm đạo giải thoát
nên không ở lại đây lâu. Tôi đã làm trái với ân điển và lòng thành của đại
vương, mong đại vương chớ phiền trách. Xin đại vương dùng chánh pháp để trị
quốc, đừng bỏ dân.
Nói xong, Thái
tử đứng dậy từ giã nhà vua. Vua Tần-tỳ-sa-la thấy Thái tử ra đi trong lòng rất
luyến tiếc, đôi mắt ứa lệ, chắp tay thưa:
-Vừa gặp Thái
tử, lòng tôi rất vui mừng. Nay Thái tử vội ra đi khiến lòng tôi buồn bã. Ngài
vì đạo lớn giải thoát, tôi không dám cầm giữ, chỉ mong Thái tử mau chóng thành
tựu đạo quả. Nếu Ngài đắc đạo xin độ tôi trước.
Thái tử từ biệt lên đường, vua theo
tiễn chân rồi đứng nhìn đăm đăm theo bóng Thái tử cho đến khi Thái tử khuất hẳn
mới trở về.
Bấy giờ Thái tử
đi đến chỗ vị Tiên A-la-la. Trước đó chư Thiên đã báo với vị Tiên nhân:
-Thái tử Tát-bà
Tất-đạt đã lìa bỏ ngôi vị Quốc chủ xa lìa cha mẹ là vì muốn tìm đạo Vô thượng Chánh chân để trừ tận khổ đau cho tất cả chúng
sinh, nay người sắp đến đây.
Vị Tiên nhân
nghe chư Thiên báo tin rất vui mừng. Trong giây lát đã thấy Thái tử từ xa đi
tới, Tiên nhân liền ra nghênh tiếp. Hai vị chào hỏi nhau rồi Thái tử theo vị
Tiên nhân vào nơi ông cư trú. Đến nơi, Tiên nhân mời Thái tử ngồi. Nhìn thấy
dung mạo Thái tử đoan nghiêm có đủ các tướng tốt, các căn đều thanh tịnh,
A-la-la rất kính trọng, ngưỡng mộ, bèn hỏi Thái tử:
-Ngài đi đường
có mệt mỏi lắm không? Từ lúc Thái tử sinh ra lớn lên cho đến khi xuất gia rồi
đến đây, tôi đều biết cả. Việc Thái tử xuất gia có thể nói như đống lửa tự
cháy, như voi lớn tự thoát khỏi dây cương ràng buộc. Xưa nay các vị vua ở tuổi
tráng niên thường phóng túng thọ hưởng năm dục, đến khi tuổi già mới rời bỏ ngôi
Quốc chủ xuất gia học đạo, điều đó chẳng có gì lạ. Nay Thái tử trong lúc tuổi
còn thanh xuân đã có thể lìa bỏ năm dục, xuất gia học đạo mới thật là hy hữu.
Nếu Ngài tinh tấn, sẽ mau qua được bờ bên kia.
Thái tử nghe
xong bèn đáp:
-Tôi nghe ngài
nói trong lòng thật là vui mừng, vậy ngài hãy giảng cho tôi nghe về phương pháp
dứt trừ sinh lão bệnh tử, tôi nay rất muốn nghe.
Tiên nhân đáp:
-Lành thay!
Lành thay!
Rồi liền nói
tiếp:
-Từ thuở ban
đầu, chúng sinh đã sống trong vòng u tối, từ sự u tối ban đầu ấy mà sinh tâm
ngã mạn, từ tâm ngã mạn sinh si mê, từ si mê sinh nhiễm ái, từ tâm đã nhiễm ái
sinh năm món vi trần khí, từ năm thứ vi trần khí sinh năm đại, từ năm đại sinh
ra tham dục, giận dữ... các phiền não, từ đó mà lưu chuyển trong sinh già bệnh
chết, lo buồn khổ não. Nay tôi chỉ nói vắn tắt cho Thái tử nghe như thế.
Khi ấy Thái tử
liền hỏi:
-Nay tôi đã
biết những điều ngài nói rồi, nhưng bằng phương tiện gì có thể dứt trừ được cội
rễ của sinh tử?
Tiên nhân đáp:
-Nếu muốn dứt
trừ cội rễ của sinh tử thì trước tiên phải xuất gia tu trì giới hạnh, khiêm
cung, nhẫn nhục, ở nơi vắng vẻ an tịnh tu tập thiền định, xa rời mọi ý thức
tham muốn xấu, bất thiện, nhưng ý thức lúc đó vẫn còn cảm giác, còn quan sát,
đạt được Sơ thiền; trừ bỏ mọi cảm thức và nhận thức, tâm định tĩnh sinh khởi sự
hỷ lạc là đạt Nhị thiền. Rời bỏ tâm hỷ lạc ấy nên được chánh niệm, thân tâm
phát sinh niềm vui trọn vẹn là đạt Tam thiền. Trừ bỏ ý niệm khổ và vui được
niệm thanh tịnh, tâm xả ly các niệm thì được Tứ thiền, được tâm vô tưởng. Trước
đây có một vị cho rằng Tứ thiền ấy chính là giải thoát, từ định mà được giác
ngộ. Sau đó mới biết chưa phải là chỗ giải thoát thật sự. Do vậy cần phải xa
lìa mọi sắc tưởng đi vào Không tưởng, diệt trừ mọi niệm tưởng có đối tượng, đi vào Thức tưởng. Đoạn trừ tất cả mọi tưởng phân biệt chỉ còn trú
tâm quán niệm một thức thì được đi vào tưởng Vô sở hữu xứ, rồi lại xa lìa hoàn
toàn tất cả niệm tưởng mà đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đến được đây mới
thật là giải thoát rốt ráo, đó cũng là mục tiêu cuối cùng của người tu học. Nếu
Thái tử muốn dứt trừ nỗi khổ sinh già bệnh chết thì nên tu tập theo pháp hành
đó.
Lúc ấy Thái tử
nghe vị Tiên nhân nói xong trong lòng không vui, tự nghĩ: “Những điều vị ấy vừa
nói chưa phải là chỗ rốt ráo, chưa phải là cách dứt trừ vĩnh viễn bao phiền não
ràng buộc”. Thái tử bèn nói:
-Nay tôi có
điều chưa rõ trong những lời ngài giảng giải nên muốn hỏi.
Tiên nhân đáp:
-Xin được nghe
những ý kiến của Ngài.
Thái tử liền
hỏi:
-Phi tưởng phi
phi tưởng xứ là hữu ngã hay vô ngã? Nếu nói vô ngã thì không thể nói Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, còn nếu nói hữu ngã thì ngã đó có tri giác, hay là không có
tri giác? Nếu ngã đó không có tri giác thì khác gì gỗ đá. Nếu ngã ấy có tri
giác là còn dính líu vào đối tượng, nếu đã có dính líu đến đối tượng thì sẽ có
tâm nhiễm trước, mà tâm còn nhiễm trước thì không thể gọi là giải thoát. Ngài
nghĩ là đã dứt hết mọi phiền não ràng buộc nhưng chưa biết còn có những phiền
não vi tế; do vậy đã vội cho đó là giải thoát hoàn toàn. Các phiền não vi tế
ràng buộc kia sẽ từ từ tăng trưởng khiến chúng sinh luẩn quẩn xoay chuyển trong
vòng sống chết vô tận. Vì thế, tôi nghĩ cách tu này chưa phải là giác ngộ tối
hậu, đưa đến giác ngộ hoàn toàn. Nếu có thể dứt hẳn ý niệm thì mới có thể gọi
là chân giải thoát về ngã, xả bỏ hoàn toàn mọi ức tưởng, niệm tưởng về ngã thì
chính đó mới gọi là giải thoát thật sự.
Tiên nhân yên
lặng suy nghĩ: “Điều Thái tử nói thật là thậm sâu, vi diệu”
Khi đó Thái tử
lại hỏi Tiên nhân:
-Ngài mấy tuổi
thì xuất gia và tu tập Phạm hạnh đến nay đã bao lâu?
Tiên nhân đáp:
-Tôi xuất gia
năm mười sáu tuổi, tu tập Phạm hạnh đến nay đã một trăm lẻ bốn năm.
Thái tử nghe
nói liền suy nghĩ: “Từ ngày xuất gia đến nay đã rất lâu mà sở đắc chỉ có như
thế sao?”
Khi ấy Thái tử
muốn tìm cầu đạo pháp rốt ráo hơn nên đứng dậy từ giã Tiên nhân. Tiên nhân nói
với Thái tử:
-Tôi từ trước
đến nay tu tập khổ hạnh đã lâu mà chỗ sở đắc chỉ được như thế. Thái tử là dòng
dõi vua chúa làm sao có thể tu khổ hạnh được?
Thái tử đáp:
-Sự tu tập như
của ngài chưa phải là khổ lắm đâu, vẫn còn những cách tu khổ hạnh khó hơn nữa.
Tiên nhân đã
thấy Thái tử trí tuệ hơn người lại có ý chí mạnh mẽ, vững vàng như thế thì biết
chắc chắn Thái tử sẽ thành Bậc Nhất Thiết
Chủng Trí nên vội thưa:
-Nếu Ngài đắc
đạo, xin hãy độ tôi trước tiên.
Thái tử đáp:
-Lành thay!
Kế đó Thái tử
đến trú xứ của Tiên nhân Ca-lan để cùng luận bàn đạo lý nhưng cũng chỉ như thế,
nên Thái tử liền bỏ ra đi. Hai vị Tiên nhân thấy Thái tử ra đi đều nghĩ: “Trí
tuệ của Thái tử thật vô cùng thâm sâu, vi diệu, đặc biệt khác thường, khó ai
lường được” nên đồng chắp tay đưa tiễn nhìn theo cho tới khi Thái tử khuất bóng
mới trở lại.
Sau khi Thái tử
đã điều phục được hai Tiên nhân A-la-la và Ca-lan liền thẳng tiến đến khu rừng
khổ hạnh Già-xà, nơi năm anh em ông Kiều-trần-như đang cư ngụ. Thái tử đến bên
bờ sông Ni-liên tĩnh tọa tư duy, quan sát căn tánh của chúng sinh, Ngài thấy
cần phải tu sáu năm khổ hạnh rồi mới độ thoát cho họ. Suy nghĩ như thế rồi,
Thái tử nỗ lực tu khổ hạnh. Lúc ấy chư Thiên dâng cúng mè, gạo cho Ngài. Vì
muốn cầu đạo Giác ngộ nên Thái tử tịnh tâm giữ giới, mỗi ngày chỉ ăn một hột
mè, một hạt gạo nhưng nếu có người đến xin, Thái tử cũng bố thí hết. Năm người
trong nhóm của Kiều-trần-như thấy Thái tử tịnh tọa tư duy, tu khổ hạnh, mỗi
ngày chỉ ăn một hạt gạo hay một hạt mè, cũng có khi hai ngày hoặc bảy ngày mới
ăn một hạt gạo, một hạt mè, nên năm người cũng tu khổ hạnh, luôn ở bên cạnh để
hầu hạ Thái tử không lúc nào rời xa. Sau khi thấy Thái tử tu hành như thế, họ
liền cử một người trở về thưa với Quốc sư và quan đại thần, thuật lại đầy đủ
việc tu tập của Thái tử.
Bấy giờ Quốc sư
và quan đại thần trở về cung, khuôn mặt buồn rầu, thân thể mệt mỏi, xơ xác,
giống như người vừa đưa tiễn người thân chết mới đi chôn xong, nén đau thương
mà trở về nhà. Lúc ấy người giữ cổng thành vội vàng vào trình tâu lên vua:
-Quốc sư và
quan đại thần đã về đến ngoài cổng thành.
Vua nghe tâu
thở hổn hển, nói không ra lời, chỉ còn biết gật đầu. Người gác cổng biết ý liền
lớn tiếng truyền lệnh cho Quốc sư vào gặp vua. Vua quá buồn không thể nói được,
hồi lâu mới nghẹn ngào hỏi:
-Thái tử là
tính mạng của ta. Các khanh nay về có một mình, thì tính mạng ta làm sao còn
được?
Quốc sư đáp:
-Chúng thần
vâng lệnh đại vương đi tìm Thái tử, đến chỗ Tiên nhân Bạt-già hỏi thăm tin tức,
Tiên nhân cho biết nơi Thái tử đến và thuật lại những lời Thái tử nói, chúng
thần liền đi tới, nhưng giữa đường thì gặp Thái tử đang tĩnh tọa tư duy dưới
bóng cây, tướng tốt chói sáng hơn cả mặt trời mặt trăng. Thần liền nói với Thái
tử về nỗi sầu khổ của đại vương, phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề và chánh phi
Da-du-đà-la. Thái tử đã dùng những lời lẽ chân tình nói rằng có lý nào Thái tử
không biết mối thâm tình của phụ vương và thân thích đối với Thái tử? Nhưng chỉ
vì sợ các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, yêu thương khiến phải xa cách nên Thái
tử ra đi tìm đạo dứt trừ những nỗi khổ ấy. Từng lời từng chữ của Thái tử nói
đều tỏ bày ý chí kiên định, vững vàng như núi Tu-di không thể lay chuyển được,
rồi Thái tử bỏ chúng thần ra đi như vứt bỏ cỏ rác. Khi ấy chúng thần liền chọn
năm người trong những người tùy tùng bảo đi theo hầu và dõi xem Thái tử đi về
đâu và như thế nào. Sau đó có một người trong nhóm ấy về báo với chúng thần là
trên đường đến chỗ hai vị đạo sĩ A-la-la và Ca-lan, Thái tử đã được thần lực
của chư Thiên đưa qua sông Hằng. Khi Thái tử đến thành Vương xá, vua
Tần-tỳ-sa-la đã đến chỗ Ngài dùng bao nhiêu cách khuyên Ngài đừng xuất gia, và
hứa sẽ chia nửa đất nước hoặc cả quốc gia cho cai trị, hoặc trao binh quyền để
đi chinh phục nước khác nhưng Thái tử đều không ưng thuận và lập tức ra đi, đến
chỗ Tiên nhân hỏi về pháp hàng phục tâm, rồi lại đến rừng khổ hạnh Già-xà, tĩnh
tọa tư duy bên dòng sông Ni-liên-thiền, mỗi ngày ăn một hạt gạo, một hạt mè.
Nghe Quốc sư và
quan đại thần kể lại mọi việc xong, lòng vua Bạch Tịnh vô cùng buồn rầu toàn
thân run lẩy bẩy, kinh hoảng tột độ. Nhà vua nói với hai vị đại thần:
-Thái tử đành
bỏ niềm vui hưởng ngôi báu Chuyển luân vương, lìa xa tình thương yêu của cha mẹ
và họ hàng thân thuộc vào rừng sâu tu khổ hạnh. Ta nay thật bạc phước nên phải
chịu mất người con quý báu như vậy.
Nhà vua đem
những lời của Quốc sư nói lại cho Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Da-du-đà-la nghe rồi ra
lệnh sắp xếp, chuẩn bị năm trăm cỗ xe, phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề và chánh phi
Da-du-đà-la cũng cho năm trăm xe đến, mỗi xe đều chở đầy đủ mọi thứ cần dùng.
Nhà vua bảo Xa-nặc:
-Ngươi đã đưa
Thái tử đến chốn rừng sâu, nay ta truyền lệnh cho ngươi phải đưa ngàn cỗ xe chở
lương thực và các thứ cần dùng này đến chỗ Thái tử rồi tùy thời mà dâng cho
Thái tử đừng để người thiếu thốn, hết thì hãy về báo.
Xa-nặc vâng
lệnh lãnh ngàn cỗ xe tức tốc ra đi. Đến nơi, thấy Thái tử thân hình gầy khô,
chỉ còn da bọc xương, các đường gân máu lộ ra như gân của loài hoa Ba-la-xà,
Xa-nặc liền cúi đầu đành lễ nơi chân Thái tử, quá cảm động nên ngã xuống đất
ngất lịm, giây lát tỉnh lại ứa lệ thưa:
-Đại vương
thương nhớ Thái tử ngày đêm không nguôi nên sai thần đem một ngàn cỗ xe chở đủ
lương thực và vật dụng cần thiết cho Thái tử.
Thái tử trả lời
Xa-nặc:
-Ta xa cha mẹ
quê hương và đất nước đến đây để tìm con đường giải thoát, lẽ nào lại nhận
những thứ vua cho đem đến?
Xa-nặc nghe thế lòng suy nghĩ: “Nay
Thái tử không chịu nhận, vậy ta phải nhờ người đưa những xe này về tâu lại với
vua, ta ở lại đây để chăm nom, hầu hạ Thái tử”. Nghĩ thế xong, Xa-nặc liền sai
một người đưa xe về còn mình thì ở lại âm thầm ngày đêm hầu hạ Thái tử không
rời. Một hôm, Thái tử suy nghĩ: “Ta ăn mỗi ngày một hạt gạo, một hạt mè, có lúc
bảy ngày mới ăn một hạt gạo, một hạt mè, thân thể nay gầy như cây khô. Ta tu
khổ hạnh như thế đã sáu năm rồi mà không tìm được con đường giải thoát; thế mới
biết đây không phải là phương pháp tu chân chánh, chi bằng Ta trở lại cách
trước khi Ta ngồi dưới bóng cây Diêm-phù suy nghĩ cách xa lìa năm dục, tìm sự
vắng lặng, đó là phương pháp đúng nhất. Nếu như nay Ta vẫn theo lối tu khổ hạnh
hành xác mà đạt đạo thì những kẻ ngoại đạo sẽ nói rằng tu tập theo cách nhịn
đói là nhân của Niết-bàn. Tuy Ta đã hạn chế từ từ sức lực của Ta nhưng cũng
không vì thế mà đạt đạo. Ta nên ăn uống lại bình thường, sau đó mới thành đạo”.
Nghĩ xong, Thái tử đứng dậy đi xuống dòng sông Ni-liên-thiền tắm rửa. Tắm xong
nhưng vì sức quá yếu nên Ngài không lên bờ được. Lúc ấy có vị Thiên thần làm
cho cành cây bên bờ sà thấp xuống để Thái tử vịn mà lên bờ.
Lúc đó ở ngoài
khu rừng có một mục nữ tên Nan-đà-ba-la được vị Thiên tử ở cõi trời Tịnh cư đến
khuyên:
-Nay Thái tử
đang ở trong rừng, nàng nên đến cúng dường.
Nàng mục nữ
nghe thế, lòng rất mừng vui. Ngay khi ấy bỗng có một đóa hoa sen ngàn cánh từ
đất mọc lên, nở ra, bên trên đóa hoa có sẵn bát cháo sữa. Cô gái rất ngạc nhiên
liền lấy bát cháo sữa ấy đem đến quỳ lạy, dâng cho Thái tử. Thái tử nhận bát
cháo sữa và chú nguyện:
-Nay thí chủ
cúng bát cháo sữa để khiến Ta dùng xong phục hồi được khí lực. Nguyện cho gia
đình thí chủ được an vui, vô bệnh, sống lâu, trí tuệ đầy đủ.
Thái tử liền
tuyên bố:
-Ta vì muốn cứu
vớt chúng sinh nên nhận sữa này.
Chú nguyện
xong, Ngài liền dùng bát cháo sữa ấy. Khí lực của Ngài dần dần phục hồi, thân
thể tươi sáng, có thể đạt đạo Bồ-đề. Lúc ấy, năm vị nhóm ông Kiều-trần-như kinh
ngạc nghĩ là Thái tử đã thoái chí nên cùng nhau quay trở về nơi của họ. Bồ-tát
một mình đến dưới bóng cây Tất-bát-la và phát lời thệ nguyện:
-Ta ngồi nơi
cội cây này, nếu không thành đạo quyết không đứng dậy.
Đức độ của
Bồ-tát lớn lao đến nỗi đất trời cảm động, mặt đất khi ấy chấn động mạnh phát ra
âm thanh lớn. Một con rồng mù nghe được tiếng ấy trong lòng vô cùng vui mừng
nên hai mắt tự sáng, suy nghĩ: “Ta đã từng thấy điềm lành này của chư vị cổ
Phật trong quá khứ”. Suy nghĩ xong, rồng liền từ đất vọt lên đến lễ nơi chân
Bồ-tát. Lúc ấy có năm trăm con chim Thanh tước bay trên hư không vòng quanh
Bồ-tát, trên không trung hiện ra các vầng mây lành nhiều màu rực rỡ, các làn
gió thơm theo ánh sáng thổi đến. Lúc ấy rồng
liền nói kệ ca ngợi Bồ-tát:
Bồ-tát bước đến đâu
Mặt đất đều chuyển động
Phát ra tiếng vang xa
Ta nghe mắt bừng sáng
Lại thấy trong không trung
Khổng tước bay quanh Ngài
Mây lành thật rực rỡ
Dịu mát làn gió thơm
Điềm lành này của Ngài
Giống như Phật quá khứ
Do vậy biết Bồ-tát
Sẽ thành đạo Chánh chân.
Lúc ấy Bồ-tát
nghĩ: “Chư Phật trong quá khứ đã dùng tòa ngồi như thế nào để thành đạo Vô
thượng?” Bồ-tát nội quán tự biết chư Phật đã dùng cỏ làm tòa ngồi. Vua trời Đế
Thích biết ý nghĩ của Bồ-tát liền hóa thành một người trong tay đang ôm bó cỏ
sạch sẽ, mềm mại đến trước Bồ-tát. Bồ-tát hỏi:
-Ông tên gì?
Người ấy đáp:
-Tôi tên là Cát
Tường.
Bồ-tát nghe thế
lòng rất vui mừng nghĩ: “Ta sẽ phá những điều không lành để thành đạo kiết
tường”.
Bồ-tát lại hỏi:
-Cỏ trên tay
người có thể cho Ta được không?
Cát tường liền
tặng bó cỏ cho Bồ-tát và thưa:
-Bồ-tát nếu đắc
đạo, xin độ tôi trước.
Bồ-tát nhận cỏ
trải ra làm tòa, thẳng thân ngồi kiết già trên tòa cỏ, theo đúng cách ngồi của
chư Phật quá khứ và phát lời thệ nguyện:
-Không thành
đạo Chánh giác, Ta quyết không rời khỏi tòa này.
Khi Bồ-tát phát
lời nguyện ấy, trời rồng, quỷ thần đều vui mừng, gió mát lành từ bốn phương
thổi tới, cầm thú bỗng im tiếng, cây không còn xào xạc, mây bay bụi cuốn đều
sạch sẽ. Đó là điềm lành báo Bồ-tát sắp thành đạo. Cũng lúc ấy, ở trên không
trung, tám bộ chúng trời, rồng vui mừng nhảy múa ngợi khen, còn cung điện của
Ma vương ở tầng trời thứ sáu tự nhiên rung động. Ma vương trong lòng buồn bực,
tinh thần rối loạn, không còn tâm trí nghĩ đến việc thọ lạc, lo lắng suy nghĩ:
“Sa-môn Cù-đàm hiện đang ngồi tĩnh tọa nơi cội cây, lìa được ngũ dục, không bao
lâu sẽ thành đạo Chánh giác. Nếu vị ấy thành đạo, sẽ đưa tất cả muôn loài vượt
thoát cảnh giới của ta. Vậy nay trong lúc vị ấy chưa thành đạo, ta phải đến làm
cho rối loạn”. Người con của Ma vương tên là Tát-đà thấy cha có vẻ lo lắng liền
đến thưa:
-Thưa cha,
không rõ vì sao cha có vẻ buồn rầu lo lắng như vậy?
Ma vương đáp:
-Sa-môn Cù-đàm
nay đang ngồi nơi cội cây tu hành và sắp đắc đạo. Đạo ấy vượt hơn hẳn đạo của
ta nên ta muốn đến đấy phá hoại.
Người con vội
can ngăn:
-Bồ-tát thanh
tịnh vượt cả ba cõi, có thần thông và trí tuệ không gì là không rõ biết, tám bộ
chúng trời, rồng... đều ngợi khen. Đối với Ngài, phụ vương không thể phá hoại
được, chẳng may tạo ác sẽ tự chuốc lấy tai họa.
Ma vương có ba
người con gái hình dung dáng điệu vô cùng mỹ miều, xinh đẹp, có nhiều phương
cách để quyến rũ, làm mê hoặc lòng người, đứng đầu trong hàng Thiên nữ. Họ
thường xông hương thơm ngát, đeo chuỗi ngọc đẹp. Người thứ nhất tên là Nhiễm
Dục, người thứ hai tên Năng Duyệt Nhân, người thứ ba tên là Khả Ái Lạc, ba cô
đến trước cha và hỏi:
-Không biết vì
sao hôm nay cha lại rầu lo như vậy?
Ma vương bèn
giải bày lòng mình với ba con gái:
-Hiện nay có
Sa-môn Cù-đàm ở thế gian, mình mặc áo giáp Pháp, tay cầm cung tự tại, bắn mũi
tên trí tuệ muốn thu phục chúng sinh, hủy hoại cảnh giới của ta. Nếu ta không
có phương cách diệt trừ thì chúng sinh sẽ tin tưởng và đều theo về với vị ấy,
cảnh giới ta sẽ trở nên trống rỗng, chính vì vậy mà ta buồn rầu. Trong lúc vị
ấy chưa thành đạo, ta muốn đến phá hoại làm gãy cây cầu đưa đến bờ giác của vị
ấy.
Dự định như thế
Ma vương liền tay cầm cung cứng và năm mũi tên cùng với con trai, con gái và
chúng thiên ma kéo đến dưới cây Tất-bát-la thấy Đức
Mâu-ni ngồi lặng lẽ không động, sắp vượt bể sinh tử của ba cõi. Ma vương lập
tức tay trái cầm cung, tay phải cầm tên hét lớn bảo Bồ-tát:
-Người thuộc
dòng Sát-đế-lợi, chết thật oan uổng, sao không mau rời khỏi đây, lên ngôi
Chuyển luân vương, bỏ con đường xuất gia, thực hành bố thí sẽ được sinh lên
trời hưởng thiên lạc, đó là đạo cao nhất, hơn cách tu tập này. Người là dòng
dõi vua Chuyển luân mà lại đi làm khất sĩ, thật không xứng đáng. Nay nếu không
đứng dậy thì ngồi yên mà hủy bỏ lời thệ nguyện. Với người, ta chỉ cần bắn một
mũi tên. Các Tiên nhân khổ hạnh chỉ nghe tiếng cung tên của ta không người nào
không kinh hồn, khiếp sợ, hoảng loạn, mất hết tinh thần; huống chi Cù-đàm,
người sao chịu nỗi những mũi tên độc này. Nếu mau đứng lên sẽ được an toàn.
Ma vương dùng lời đe dọa Bồ-tát nhưng
Bồ-tát vẫn an nhiên không chút kinh động. Ma vương liền phóng tên và đưa ma nữ
đến. Khi ấy Bồ-tát mắt không nhìn nhưng những mũi tên ấy bỗng dừng lại ở khoảng
không, mũi tên rơi xuống đất hóa thành những đóa sen. Lúc ấy ba nàng
ma nữ liền nói với Bồ-tát:
-Nhân giả là
bậc đức cao, trời người đều kính trọng nên cần có người hầu hạ. Chúng tôi nay
tuổi còn trẻ, những Thiên nữ xinh đẹp nhất cũng không hơn được chúng tôi. Nay
trời sai chúng tôi đến để ngày đêm hầu hạ Bồ-tát.
Bồ-tát nói:
-Các ngươi nhờ
có trồng ít phước đức nên được sinh lên trời lại không nhớ nghĩ đến vô thường
mà làm điều mê hoặc. Thân hình tuy đẹp mà lòng không đoan chính, tâm nhiều dục
vọng bất thiện, chết ắt bị sa vào ba đường dữ, mang thân cầm thú khó mà thoát
nạn. Nay các ngươi có ý muốn làm loạn tâm trí Ta, không phải tâm thanh tịnh.
Hãy đi đi! Ta không cần các ngươi.
Khi ấy cả ba ma nữ bỗng biến thành ba
bà lão tóc bạc, da nhăn răng rụng, nước miếng phều phào, gầy trơ xương, bụng to
như cái trống, chống gậy lê bước đi, không thể lấy lại hình dáng như cũ.
Ma vương thấy tâm Bồ-tát quá vững mạnh
liền nghĩ: “Ngày xưa trong núi Tuyết, ta từng bắn Ma-hê-thủ-la làm cho hoảng
sợ, đánh mất tâm lành, thế mà nay không làm lay chuyển được Cù-đàm, cung tên và
ba đứa con gái của ta cũng đều không lay chuyển được ông ấy làm ta thêm lo rầu
giận dữ. Ta phải dùng cách khác mới được”. Nghĩ xong Ma vương dùng lời êm dịu
khuyên dụ Bồ-tát:
-Nếu Ngài không
ưa thích thọ hưởng thú vui của cõi người thì nay có thể lên cung trời, ta sẽ
trao ngôi vị và năm món dục cho Ngài.
Bồ-tát đáp:
-Trong các đời
trước ngươi do tu đối chút hạnh bố thí nên nay được ngôi Tự
tại Thiên vương. Phước báo ấy cũng có hạn, hết hạn sẽ bị chìm đắm trong ba
đường, muốn thoát ra rất khó. Đó là nguyên nhân của tội khổ, chẳng phải điều Ta
cần.
Ma vương hỏi
Bồ-tát:
-Quả báo của ta
Ngài biết rồi, vậy quả báo của Ngài ai biết?
Bồ-tát đáp:
-Quả báo của Ta
chỉ có đất biết.
Bồ-tát vừa dứt
lời, mặt đất liền rung động sáu cách. Lúc ấy một vị Địa thần tay cầm bình bảy
báu cắm đầy hoa sen từ đất vọt lên nói với Ma vương:
-Xưa kia Bồ-tát
đã từng đem đầu, mắt, não, tủy để bố thí cho chúng sinh, máu Ngài đã đổ ra thấm
ướt khắp nơi. Đất nước, vợ con, châu báu... Bồ-tát đều đã bố thí, số ấy không
thể kể xiết, chí để cầu đạo Vô thượng Chánh chân. Do đó ngươi nay không nên làm
loạn động Bồ-tát.
Ma vương nghe
thế lòng sinh sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Vị Địa thần liền đảnh lễ Bồ-tát, dâng
hoa cúng dường rồi biến mất.
Khi ấy Ma vương
suy nghĩ: “Ta đã dùng cung mạnh tên sắt, cả ba con gái ta cũng đã dùng lời êm
ái để mê hoặc mà vẫn không thể làm loạn tâm vị Cù-đàm này. Nay ta phải huy động
hết tất cả phương tiện và lực lượng quân ma dùng sức mạnh uy hiếp ông ta”. Ma
vương vừa nghĩ xong lập tức quân ma hiện ra đầy cả không trung với hình dáng
quái dị. Kẻ thì cầm kiếm, kích, đầu đội đai thọ, tay cầm chày sắt; cả đoàn mang
theo rất nhiều các loại khí giới. Bọn chúng thân người nhưng đầu lại là đầu các
loại thú như cá, heo, lừa, ngựa, sư tử, rồng hoặc như gấu, cọp, các loài thú
khác. Có loài nhiều đầu, mỗi mặt một con mắt, hoặc nhiều mắt; hoặc bụng to thân
dài, hoặc ốm trông như không có bụng; hoặc chân dài gối lớn; hoặc gót chân to,
bắp chân mập; hoặc móng dài răng nhọn; hoặc đầu ở trước ngực; hoặc có nhiều
thân mình mà chỉ có hai chân; hoặc mặt lớn, mặt ở một bên; hoặc sắc mặt như tro
đất; hoặc mình phóng khói lửa; hoặc lỗ tai to như lỗ tai voi trùm cả núi; hoặc
tóc dài lõa thể; hoặc sắc mặt nửa đỏ nửa trắng; hoặc môi xệ chấm đất; hoặc dưới
mặc khố trên mặc áo da cọp, da sư tử, da rắn hoặc rắn quấn quanh người hoặc
trên đầu lửa bốc; hoặc mắt trợn tay quơ; hoặc đi ngang hoặc nhảy nhót; hoặc lăn
lộn trên không trung; hoặc chạy bộ la hét... không biết bao nhiêu loài có hình
dạng quái ác như thế bao xung quanh như muốn xé xác Ngài. Hoặc làm bốn phía
khói, lửa bốc cháy rực trời; hoặc nổi lên âm thanh cuồng loạn, vang động, khắp
các hang núi, gió, lửa, khói bụi mờ mịt không thể nhìn thấy gì cả. Nước trong
bốn biển cùng lúc trào dâng. Các chúng trời, người, rồng, quỷ... theo bảo hộ
Bồ-tát đều giận bọn ma chúng đến nỗi máu từ các lỗ chân lông ứa ra. Các vị trời
ở cõi Tịnh cư thiên thấy bọn ma làm rối loạn Bồ-tát nên vì lòng từ bi, sợ chúng
làm tổn hại Ngài liền xuống đứng trên hư không quan sát thấy vô số vô lượng
quân ma vây quanh Bồ-tát gầm rú, kêu gào thật hung tợn làm vang động trời đất,
nhưng Bồ-tát vẫn ngồi bất động, gương mặt không đổi sắc, khác nào Sư tử ở giữa
đàn nai nên đều cất lời khen ngợi:
-Ôi thật là kỳ
diệu! Chưa từng thấy bao giờ! Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác.
Ma quân khi ấy
gấp rút đem hết lực lượng đến phá Bồ-tát. Chúng hoặc trợn mắt nghiến răng, hoặc
bay nhảy loạn xạ ngang qua trước Bồ-tát, nhưng Bồ-tát xem chúng như trẻ con đùa
giỡn. Ma vương càng giận dữ gia tăng sức phá phách, Bồ-tát lấy sức từ bi khiến
những kẻ ôm đá không sao nhấc lên được; ôm lên được thì lại không đặt xuống
được. Dao bay, kiếm phóng đều dừng lại ở giữa khoảng không, sấm chớp, mưa lửa
đều hóa thành hoa năm sắc. Rồng dữ phun độc, độc ấy biến thành gió thơm. Bao
nhiêu thứ dữ nhằm làm hại Bồ-tát nhưng không thể đụng đến Ngài.
Ma vương có một
người chị và một người em tên là Di-già và Ca-lợi, cả hai đều cầm vũ khí là đầu
lâu người chết, đến trước Bồ-tát làm nhiều cử chỉ quái dị để làm loạn tâm Ngài.
Toàn bộ chúng ma quân đều hiện thân hình kinh dị muốn khủng bố Bồ-tát, nhưng
tất cả đều không động được một sợi lông của người. Ma vương thấy vậy trong lòng
càng uất ức, buồn lo, rầu rĩ.
Lúc ấy trong
không trung có vị Thiên thần tên Phụ Đa ẩn thân và lên tiếng:
-Ta thấy Đức
Mâu-ni tâm ý an tịnh, hỷ xả, không chút oán hận. Chúng quân ma khởi lên lòng
thâm độc phá hoại mà Ngài vẫn không oán hờn. Các loại quỷ ác ngu ngốc, chúng
ngươi chỉ tự làm mình mệt nhọc, hoàn toàn không được lợi gì cả. Nay nên bỏ tâm
giận dữ toan phá hoại Ngài bởi vì miệng các ngươi dù có thể thổi lay động núi
Tu-di, có thể làm cho lửa lạnh đi, nước nóng lên, đất cứng bị mềm nhão, nhưng
các ngươi không thể hại Bậc Bồ-tát đã trải qua nhiều kiếp tu tập thiện quả,
thiền định chân chánh, tinh cần tu hành các pháp môn, nên trí tuệ an tịnh, sáng
suốt, bốn công đức ấy không thể diệt trừ được. Nếu không trải thân qua vô lượng
khổ khó ấy thì không thể đạt được quả Chánh giác. Như ngàn mặt trời soi sáng
tất diệt hết bóng tối, dùi cây được lửa, đào đất được nước, chăm lo tu tập các
pháp thì có thể đạt được điều mong muốn. Chúng sinh ở đời đang bị chìm đắm
trong ba độc không có người cứu vớt; vì lòng từ bi, Bồ-tát tìm thuốc trí tuệ vì
đời mà trị bệnh, các ngươi sao lại quấy phá như vậy? Chúng sinh trong thế gian
mê mờ, phiền não, vô trí, tà kiến; nay Ngài mở bày pháp nhãn, dắt dẫn chúng
sinh để họ tu tập theo chánh đạo, sao các ngươi lại quấy rối Bậc Đạo Sư? Đó là
điều không thể làm được, giống như nơi đồng trống mà xem thường người dẫn
đường. Chúng sinh bị rơi vào đêm tối mờ mịt, hoang mang không biết đường nơi
đâu, Bồ-tát vì họ mà thắp đèn trí tuệ lớn, các ngươi sao lại muốn thổi tắt đi?
Chúng sinh bị chìm đắm trong bể sinh tử, Bồ-tát vì họ mà tạo thuyền trí tuệ sao
các ngươi lại muốn làm cho thuyền đắm? Bồ-tát lấy nhẫn nhục làm mầm, tâm kiên
định làm rễ, dùng chánh pháp vô thượng để đạt quả vị Phật-đà, sao các ngươi lại
chặt phá? Tham, sân, si trói buộc chúng sinh, Bồ-tát tu tập khổ hạnh vì muốn
giải thoát cho họ. Hôm nay Ngài quyết định ngồi kiết già thiền định nơi cội cây
này để thành đạo vô thượng, nơi ấy chính là tòa kim cang của chư Phật quá khứ,
các vùng đất khác dù rung chuyển nhưng vùng đất ấy vẫn không rung động. Ngài đã
nhập vào định nhiệm mầu, chẳng người nào có thể lay chuyển được. Ma vương,
ngươi phải sinh lòng vui mừng, dứt tâm kiêu căng, sửa đổi suy nghĩ để phụng sự
Ngài.
Ma vương nghe
những lời ấy, lại thấy Bồ-tát vẫn điềm nhiên nên xấu hổ không còn lòng kiêu
mạn, theo lời khuyên trở về cung ma. Chúng quân ma tan rã, lòng đầy buồn bã,
khốn khổ, không còn chút uy vũ nào, khí giới bỏ rơi ngổn ngang khắp rừng núi.
Khi ác ma đi
rồi, Bồ-tát tâm yên tĩnh, vắng lặng không động. Trên trời không một bóng mây,
gió ngừng thổi, vầng tịch dương cuối ngày như sáng lên gấp bội, bóng nguyệt
hằng vừa ló dạng nhẹ soi khắp nơi, các chòm sao trời như rực rỡ hẳn, tất cả mọi
thứ u ám, tối tăm không còn làm trở ngại. Trên hư không, chư Thiên tung hoa đẹp
xuống như mưa, tấu nhạc cúng dường Bồ-tát.
Vào đêm mồng
bảy tháng hai, Bồ-tát dùng sức từ bi hàng phục Ma vương xong liền phóng hào
quang lớn và nhập định suy nghĩ về chân lý. Từ trong các pháp thiền định tự
tại, Bồ-tát biết được trong vô lượng kiếp ở quá khứ, bỏ thân mạng ở chỗ này
sinh đến chỗ kia và đã tạo những nghiệp thiện ác gì, cha mẹ họ hàng, giàu
nghèo, sang hèn, thọ yểu và tên họ như thế nào đều biết rõ. Sau đó Bồ-tát liền
khởi lòng đại Bi đối với chúng sinh suy niệm: “Tất cả chúng sinh không có người
cứu vớt nên luân hồi trong năm đường không biết bến đâu. Năm đường ấy đều giả
dối, không chân thật, thế mà chúng sinh ở trong ấy cứ mãi đùa giỡn trong khổ
lạc”. Bồ-tát nghĩ như thế cho đến hết canh một.
Vào lúc giữa
đêm, Bồ-tát đạt được Thiên nhãn minh. Bồ-tát xem xét mọi việc trong thế gian
đều thấy rất rõ ràng như tự thấy hình dung mình trong gương. Ngài thây vô số
chúng sinh với nhiều chủng loại, chết ở đây sinh ở kia, tùy theo nghiệp thiện
ác mà thọ quả báo khổ vui, thấy chúng sinh bị trừng phạt trong địa ngục như đổ
nước đồng sôi vào miệng, hoặc ôm cột đồng nóng đỏ, hoặc nằm giường gai, hoặc bị
rang đốt trong chảo sắt, hoặc bị nướng trên lửa, hoặc bị cọp beo, lang sói ăn
thịt, có người nấp dưới bóng cây để trốn lửa nhưng những lá cây khi rụng xuống lại
biến thành đao kiếm cắt đứt thân thể, hoặc bị cưa búa cưa chặt tứ chi, hoặc bị
ném vào dòng sông lửa đầy tro bụi, hoặc bị ném vào hầm phân uế... chịu bao
nhiêu thứ khổ nhưng do nghiệp báo phải chết đi sông lại để chịu cảnh ấy. Bồ-tát
thấy những hình phạt ấy rồi, quán niệm: “Những chúng sinh ấy vốn vì cái vui ở
thế gian nên tạo các nghiệp ác, nay gặp quả báo thật là đau khổ. Nếu người nào
thấy được quả báo như thế thì sẽ không có ý làm việc ác.”
Bồ-tát lại xem
xét cõi súc sinh, thấy rõ các loại súc sinh tùy theo giống loài mà phải mang
những hình dáng xấu xa, có loài xương thịt, gân sừng, răng lông bị người giết
thịt hay bắt chuyên chở nặng nề, đói khát thiếu thôn không ai biết đến, hoặc bị
xỏ mũi, hoặc bị cột đầu, thường cung cấp thịt cho người, lại cùng đồng loại ăn
thịt lẫn nhau, chịu bao nhiêu nỗi khổ như thế. Bồ-tát thấy thế sinh tâm đại Bi
liền nghĩ: “Những chúng sinh ấy luôn phải lấy thân thể, sức lực để phục vụ cho
con người và còn bị đánh đập đói khát thống khổ đều do bao nghiệp dữ nên chịu quả
báo như thế.”
Bồ-tát lại xem
xét tiếp cõi ngạ quỷ, thấy chúng thường ở những nơi tối tăm, chưa từng thấy ánh
sáng mặt trời, mặt trăng và cũng không trông thấy nhau, phải mang thân thể lớn
dài, bụng to như Thái sơn nhưng cổ lại nhỏ như cây kim, trong miệng thường có
lửa bốc cháy, luôn luôn bị đói khát hành hạ đến ngàn muôn vạn năm không nghe
được tiếng “ăn”. Nếu gặp trời mưa thì hạt nước biến thành hạt ngọc lửa, nếu vào
nơi sông biển ao hồ thì thấy nước biến thành nước đồng sôi, tro bụi mịt mù, thân
thể cử động bước đi tạo ra tiếng như người kéo năm trăm cỗ xe, từng đoạn thân
thể đều có lửa đốt. Bồ-tát thấy ngạ quỷ chịu bao nhiêu điều khổ như thế nên
khởi tâm đại Bi suy nghĩ: “Những chúng sinh đó vốn có tính keo bẩn, chỉ lo chứa
của cải, không biết bố thí nên nay phải chịu những tội báo này. Nếu người nào
thấy được nỗi thống khổ ấy chắc sẽ phát tâm bố thí, không còn keo kiệt. Nếu như
không có tài sản, họ cũng phải cắt thịt bố thí”.
Bồ-tát lại quan
sát ở nhân gian, thấy con người bắt đầu từ thân trung ấm theo dục mà vào thai,
cha mẹ hòa hợp do niệm điên đảo sinh ra tâm ái, tức là lấy điều bất tịnh làm
thân mình. Khi đã vào thai ở trong bụng mẹ, thân thể bị đun nóng như nỗi khổ ở
địa ngục, đến đủ mười tháng mới sinh ra. Lúc mới sinh, được người khác bồng ẵm,
xúc chạm thô rít nên đau đớn, thống khổ như bị đao gươm châm chích, chẳng bao
lâu lại đến già chết, rồi lại sinh ra làm trẻ con ... cứ thế trôi lăn trong năm
nẻo không thể tự tỉnh. Sau khi nội quán, Bồ-tát khởi tâm đại Bi, suy nghĩ: “Tất
cả chúng sinh đều có nỗi khổ như thế nhưng tại sao họ cứ ở trong cảnh ấy tham
đắm các món dục cho đó là vui, không thể dứt trừ nguồn cội điên đảo”.
Cuối cùng
Bồ-tát quán sát cõi trời, thấy các vị Thiên tử thân thể trong sạch, không bị
bụi nhơ, như ngọc lưu ly sáng láng, đôi mắt sạch trong không bụi. Có vị trụ ở
đỉnh núi Tu-di, hoặc ở bốn phía núi Tu-di, hoặc ở giữa hư không, lòng thường
vui vẻ không có mối lo, thường tấu nhạc trời để làm vui, không biết ngày đêm,
khắp nơi bốn phương nơi nào cũng tuyệt diệu. Bồ-tát thấy chư Thiên ở phương
Đông mê đắm nhiều năm, quên sự chuyển đời, chư Thiên ở phương Tây cũng mãi mê
thọ lạc, ngày qua tháng lại không nghĩ đến việc thác sinh, các phương Nam,
phương Bắc đều như thế. Ăn uống, áo quần hễ nghĩ tới là có ngay. Tuy có những
điều vừa ý như thế nhưng cũng bị lửa dục nung nấu. Đến lúc phước ở cõi trời hết
thì năm tướng chết hiện ra: một là hoa trên đầu héo, hai là mắt nháy, ba là ánh
sáng trên thân không còn, bốn là dưới nách mồ hôi xuất, năm là tự nhiên rời
khỏi tòa ngồi của mình. Các quyến thuộc nhìn thấy năm tử tướng ấy hiện ra sinh
tâm quyến luyến. Vị Thiên tử ấy tự thấy thân mình hiện năm tử tướng lại thêm
các quyến thuộc quyến luyến nên ngay khi đó sinh lòng đau khổ. Bồ-tát thấy các
Thiên tử như vậy nên khởi tâm đại Bi suy nghĩ: “Các vị Thiên tử vốn tu tập ít
điều thiện nên được thọ hưởng lạc thú cõi trời nhưng khi sắp hết phước cũng vẫn
sinh khổ não, mạng chung bỏ thân trời vẫn có thể đọa vào ba đường ác. Mục đích
tu là để cầu quả báo vui, nhưng họ được rồi lại vẫn ít vui nhiều khổ, giống như
người đói ăn thức ăn độc, trước có thể ngon miệng nhưng sau đó là tai họa. Bậc
trí lại ham cái vui ấy sao? Chư Thiên ở cõi Sắc và Vô sắc giới thấy thọ mạng
lâu dài liền cho là có vui lâu dài, đến khi thấy tướng suy hoại cảm thấy đau
khổ, sinh ra tà kiến phỉ báng, cho là không có nhân quả vì thế mà bị trôi lăn
trong ba đường chịu đủ mọi nỗi khổ”.
Bồ-tát dùng
Thiên nhãn xem khắp năm đường khởi tâm từ bi suy nghĩ: “Trong ba cõi không một
chút vui” suy nghĩ như thế đến tận nửa đêm. Sang canh thứ ba, Bồ-tát xem xét
chúng sinh do nhân duyên gì mà có già chết? Và biết rõ chính do có sinh nên có
già chết, nếu xa lìa sinh thì không có già chết. Lại hiện tượng sinh ấy không
phải từ trời sinh xuống, không phải tự nhiên sinh mà do từ nhân duyên sinh ra.
Do tham dục với sắc và Vô sắc nên sinh ra nghiệp. Bồ-tát lại quán nghiệp trong
Tam hữu từ đâu sinh, liền biết từ Bốn thủ sinh ra. Cứ thế Bồ-tát nội quán thấy
rõ bốn thủ từ ái sinh, ái từ thọ sinh, thọ từ xúc sinh, xúc từ lục nhập sinh,
lục nhập do danh sắc sinh, danh sắc từ thức sinh, thức từ hành sinh, hành từ vô
minh sinh ra. Nếu diệt được vô minh thì diệt được hành, hành diệt thì thức
diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập
diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ
diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết, lo
buồn, sầu thương diệt. Cứ như thế Bồ-tát nội suy, quán niệm mười hai nhân duyên
theo hai chiều thuận, nghịch đến canh ba thì phá được vô minh, vầng thái dương
vừa hiện, Bồ-tát tìm được ánh sáng trí tuệ, tâm đoạn trừ hoàn toàn tập khí
phiền não chướng ngại và thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí.
Khi ấy Như Lai
suy nghĩ về tám Thánh đạo chân chánh, là con đường mà ba đời chư Phật đã đi để
đến Niết-bàn, nay Ngài đã thể đạt được, thành tựu trí tuệ vô ngại. Lúc ấy toàn
mặt đất hiện ra mười tám tướng chấn động, khắp nơi đều sạch trong, không có một
mảy bụi trần, trống trời tự phát ra tiếng, gió thơm thổi lên êm ái mát mẻ, mây
lành nhiều sắc tuôn mưa cam lộ, hoa quả ở trong các khu lâm viên bỗng nẩy lộc,
kết trái dù không phải mùa. Từ trời cao rơi xuống các loại hoa quý như hoa
Mạn-đà-la, Đại Mạn-đà-la, Mạn-thù-sa và Đại Mạn-thù-sa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu
ly... Hoa sen bằng bảy báu phủ đầy quanh cây Bồ-đề đến ba mươi sáu do-tuần.
Cùng lúc đó chư Thiên tấu Thiên nhạc, đốt hương, ca hát, khen ngợi, tay cầm bảo
cái, tràng phan hiện ra đầy khắp hư không mà cúng dường Đức Như Lai. Tám bộ
chúng rồng, thần... đều cúng dường như thế. Ngay lúc ấy tất cả chúng sinh đều
khởi lòng từ yêu thương, không có ý tưởng giận dữ làm hại, vui mừng phấn chấn
như thấy được Thánh tích, không sợ hãi mà ôn hòa, không kiêu căng, không keo
kiệt, ganh tị dối trá. Các Thiên tử ở cõi trời Ngũ Tịnh cư, nơi đã xa lìa các
trạng thái tâm hỷ lạc cũng đều vui mừng không kiềm chế được. Nỗi thống khổ ở
địa ngục tạm thời giảm bớt, chúng sinh ở cõi đó đều khởi sinh niệm hoan hỷ, tất
cả loài súc sinh hay ăn thịt nhau bỗng không còn lòng ác, ngạ quỷ no đủ không
còn đói khát. Những nơi u ám của thế giới, nơi mặt trời mặt trăng chưa bao giờ
chiếu tới nay bỗng sáng tỏ, chúng sinh trong các cõi ấy thấy được nhau đều thắc
mắc tại sao nơi đây bỗng nhiên có chúng sinh. Vị Pháp Vương Đại Thánh xuất hiện
khai sáng cho đời, dùng ánh sáng chánh pháp phá bỏ màn phi pháp u tối, làm cho
mọi nơi đều sáng rỡ. Vương tổ Cam Giá bỏ ngôi học đạo đạt được Ngũ thông, do tu
Thập thiện nên được sinh lên trời, lúc ấy cũng dùng thần thông đến bên cội
Bồ-đề, từ hư không vui mừng chắp tay khen ngợi:
-Trong dòng họ
Cam Giá của chúng ta, có người diệt được phiền não thành Bậc Nhất Thiết Chủng
Trí, làm con mắt cho thế gian. Thật là lạ lùng đặc biệt!
Tất cả chúng
sinh đều hoan hỷ tột độ, chỉ có Ma vương là ôm lòng phiền muộn.
Bấy giờ Đức Như Lai trong bảy ngày vẫn ngự tại cội Bồ-đề tư duy nội quán: “Ta
ở tại đây diệt hết phiền não, những việc phải làm đã làm xong, bản nguyện hoàn
thành. Pháp mà Ta chứng được thật là vi diệu, chỉ có Phật và Phật mới hiểu
được. Toàn thể chúng sinh trong đời ngũ trược bị che khuất bởi tham muốn, giận
dữ, ngu si, tà kiến, kiêu mạn, dua nịnh, phước đức mỏng manh, căn trí trì độn,
không có trí tuệ làm sao có thể hiểu được pháp mà Ta đã chứng. Nếu nay Ta vì họ
mà chuyển pháp luân chắc họ sẽ mê mờ, nghi ngờ, không thể tin theo rồi sinh chê
bai mà bị sa vào đường ác chịu bao thống khổ, vậy Ta nên yên lặng mà vào
Niết-bàn”. Khi đó Đức Như Lai nói kệ:
Đường Thánh
thật khó đi
Quả trí tuệ khó
đạt
Ta trong khó
khăn ấy
Mọi việc làm đã
xong
Trí tuệ Ta đạt
được
Là vi diệu đệ
nhất
Tánh chúng sinh
trì độn
Chìm đắm trong
mê mờ
Trôi theo dòng
sinh tử
Không thể trở
về nguồn
Các loài đều
như thế
Làm sao cứu vớt
được.
Bấy giờ vị Đại
phạm thiên thấy Như Lai đã chứng Thánh quả mà yên lặng không chuyển pháp luân,
lòng buồn rầu suy nghĩ: ‘Thế Tôn đã từng vô lượng kiếp vì chúng sinh ở lâu dài
trong sinh tử, lìa bỏ ngôi vị, vợ con, cho đến đầu, mắt, não, tủy, chịu bao khổ
sở, nay nguyện đã thành, chứng Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sao lại
lặng yên không chuyển pháp luân, nếu thế chúng sinh sẽ phải chìm mãi trong biển
sinh tử. Ta nay phải đến cầu xin Phật chuyển pháp luân”. Nghĩ thế rồi, vị Phạm
thiên rời Thiên cung đến chỗ Đức Như Lai nhanh như khoảng thời gian một lực sĩ
co duỗi cánh tay. Đến nơi, Phạm thiên cung kính chắp tay, lễ xuống chân Phật,
nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi ngồi sang một bên chắp tay, quỳ bạch Phật:
-Bạch Đức Thế
Tôn, Ngài từ xưa đến nay từng ở mãi trong sinh tử bỏ cả thân đầu mắt để bố thí,
chịu bao nỗi khổ, chỉ vì chúng sinh mà tu tập tất cả đức hạnh, nay đã thành
đạo, sao Ngài lại lặng yên không chuyển pháp luân. Chúng sinh đang chìm trong
đêm dài sinh tử, rơi vào vô minh, thật khó biết khi nào ra khỏi, nhưng cũng có
chúng sinh trong đời trước được gần gũi bạn lành, vun trồng các công đức nên có
thể nghe pháp, nhận lãnh đạo Thánh, vậy xin Thế Tôn thương xót hãy vì những
chúng sinh đó mà chuyển pháp luân.
Trời Đế Thích
và trời Tha hóa tự tại cũng đến khuyến thỉnh Như Lai hãy vì chúng sinh mà chuyển pháp luân.
Lúc ấy Đức Thế
Tôn bảo các vị Thiên vương:
-Ta cũng muốn
vì tất cả chúng sinh chuyển pháp luân, nhưng chỉ vì pháp mà Ta chứng được vô
cùng vi diệu, sâu xa, khó hiểu khó bàn, chúng sinh thật khó có thể tin và vâng
theo, lại sinh lòng phỉ báng mà phải sa vào địa ngục. Ta nay vì thế mà yên
lặng.
Trời Phạm thiên và Đế Thích phải ba lần
khuyến thỉnh, đến hết ngày thứ bảy, Phật mới yên lặng nhận lời. Chư Thiên biết
Phật đã nhận lời liền cúi lạy xuống chân Phật rồi trở về Thiên cung.
Sau khi nhận
lời khuyến thỉnh của Phạm thiên và Đế Thích, Thế Tôn liền dùng Phật nhãn quán
sát, thấy rõ chúng sinh có ba bậc thượng căn, trung căn và hạ căn; các phiền
não cũng có ba loại thượng, trung và hạ. Quán sát như thế cho đến mười bốn
ngày, Phật lại nghĩ: “Ta nay sắp mở cửa cam lộ nhưng ai xứng đáng là người đầu
tiên được nghe pháp? Tiên nhân A-la-la là người thông tuệ, có thể hiểu được
giáo pháp này. Vị ấy từng nguyện là nếu Ta thành đạo thì độ ông ta trước”. Thế
Tôn vừa nghĩ như thế thì trong không trung có tiếng:
-Tiên nhân
A-la-la vừa qua đời đêm hôm qua.
Đức Thế Tôn
đáp:
-Ta cũng đã
biết đêm qua ông ấy qua đời.
Phật lại nghĩ:
“Tiên nhân Ca-lan căn tánh lanh lợi, có thể hiểu được giáo pháp của Ta, xứng
đáng được nghe pháp trước tiên”. Trong không
trung lại có tiếng nói:
-Tiên nhân
Ca-lan cũng đã vừa qua đời đêm hôm qua.
Thế Tôn cũng
đáp như trước rồi Ngài lại nghĩ: “Năm anh em Kiều-trần-như theo lệnh Quốc sư và
quan đại thần ở lại chăm nom, hầu hạ Ta, đều là những người thông minh. Ngoài
ra trong đời quá khứ, họ đã phát nguyện với Ta là mong được nghe pháp trước
tiên, Ta nay nên vì năm người này mà mở cửa chánh pháp”. Lại nghĩ: “Chư Phật
quá khứ chuyển pháp luân đều tại vườn Lộc dã, trụ xứ của các vị Tiên nhân,
thuộc nước Ba-la-nại, năm người kia cũng cư trú nơi ấy. Ta nay nên đến đó
chuyển đại pháp luân”. Nghĩ thế rồi, Thế Tôn đứng dậy đi đến nước Ba-la-nại.
Bấy giờ có năm
trăm người lái buôn do hai vị thương chủ là Bạt-đà-la-tư-na và Bạt-đà-la-lê dẫn
đầu đang đi qua cánh đồng trống. Một vị Thiên tử hiện đến nói với họ:
-Có Đức Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn xuất hiện, khai hóa cho đời, là ruộng phước cao quý bậc nhất. Các
người nên đến trước Ngài cúng dường.
Vị thương chủ
nghe vị Thiên tử nói như thế, mừng rỡ khen ngợi và hỏi:
-Lời dạy ấy
thật là tốt lành! Đức Thế Tôn giờ ở nơi đâu?
Vị Thiên tử
đáp:
-Không lâu nữa,
Thế Tôn sẽ đi ngang qua đây.
Lúc ấy Như Lai
có vô số chư Thiên hộ tống đến thôn Sa-bạt-lợi. Hai người lái buôn thấy Đức Như
Lai tướng mạo uy nghi trang nghiêm, lại thấy chư Thiên vây quanh trước sau hộ
tống nên lòng càng vui mừng bèn dùng mật ong và đường dâng lên cúng dường Phật.
Lúc ấy Thế Tôn nghĩ: “Chư Phật trong quá khứ dùng Bát-đa-la để đựng thức ăn”.
Bốn vị Thiên vương biết ý nghĩ của Phật nên mỗi vị đem một cái bát đến dâng cho
Phật. Đức Thế Tôn nghĩ: “Nếu Ta nhận bát của một vị thì các vị kia sẽ không
vui” nên Ngài nhận hết và đặt bốn cái bát lên nhau, dùng bàn tay ấn xuống thành
một bát, bốn cạnh bát hiện lên rất rõ. Thế Tôn chú nguyện:
-Nay các ông
cúng dường các món này, mong Ta dùng xong sẽ tăng khí lực, Ta cũng chú nguyện
cho các ông được sức khỏe, bền tâm, vui vẻ, an lạc, yên ổn không bệnh tật, sống
lâu và được thiện thần phù hộ. Do cúng dường trai thực sẽ dứt được gốc rễ ba
độc, tương lai sẽ đạt tam kiên pháp, thông minh trí tuệ, hết lòng tin tưởng
Phật pháp, sinh ra ở đâu cũng đều có chánh kiến, không mê muội. Trong hiện tại
cha mẹ vợ con, quyến thuộc thân thích đều sum vầy, không có những chuyện quái
lạ, chẳng lành xảy ra, người trong gia đình có ai làm ác mà đọa vào đường dữ sẽ
do phước báo bố thí này được sinh trong cõi người, cõi trời, không khởi tà
kiến, tiến tu công đức, thường được ở gần chư Phật Như Lai, được nghe pháp nhiệm
mầu, chứng được chân lý đầy đủ như ý nguyện.
Đức Thế Tôn chú
nguyện xong mới thọ thực. Sau khi thọ thực, rửa tay và bát xong, Ngài truyền
pháp tam quy cho các thương gia: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng-già ở tương
lai. Trao truyền pháp tam quy xong, Đức Phật từ giã đi tiếp đến vườn Lộc dã,
với oai nghi đĩnh đạc thanh thoát giống như Nga vương. Trên đường, Phật gặp một
người ngoại đạo tên là Ưu-bà-già. Vị ngoại đạo ấy thấy tướng tốt trang nghiêm,
các căn tĩnh lặng của Phật cho là điều kỳ diệu nên nói kệ khen ngợi:
Chúng sinh ở
thế gian
Đều bị ba độc
trói
Các căn lại
phóng dật
Bị ngoại cảnh
cuốn lôi
Nhưng nay thấy
Nhân giả
Các căn thật
vắng lặng
Ắt đạt đạo giải
thoát
Chắc thế không
còn nghi
Thầy Nhân giả
là ai?
Tên họ gọi là
gì?
Đức Thế Tôn
dùng kệ đáp:
Ta nay đã vượt thoát
Khỏi cảnh giới
chúng sinh
Pháp vi diệu
sâu xa
Ta nay đã biết
hết
Ba độc và năm
dục
Đoạn hẳn không
còn nữa
Như hoa sen
trong bùn
Không nhiễm
nước bùn hôi
Tự chứng Bát
chánh đạo
Không thầy
không bạn bè
Dùng trí tuệ
thanh tịnh
Hàng phục được
Ma vương
Nay đạt đạo
Chánh giác
Xứng là Thầy
trời người
Thân miệng ý
toàn tịnh
Nên hiệu là
Mâu-ni
Muốn đến
Ba-la-nại
Để chuyển chánh
pháp luân
Điều mà trời
người, ma
Không sao giảng
nói được.
Ưu-bà-già nghe
bài kệ xong, lòng sinh vui mừng khen là chưa từng có, chắp tay cung kính nhiễu
quanh Thế Tôn, từ biệt ra đi. Đi một đoạn, Ưu-bà-già còn quay lại nhìn, không
thấy Thế Tôn nữa mới đi hẳn.
Đức Thế Tôn đi
tiếp đến bờ sông A-xà-ba-la thì trời đã chiều tối nên phải dừng chân nghỉ rồi
ngồi nhập định suốt bảy ngày trong mưa gió. Tại dòng sông ấy, có vị Long vương
tên Mục-chân-lân-đà thấy Phật nhập định liền dùng thân quấn quanh Phật bảy vòng
suốt trong bảy ngày. Sau bảy ngày vị ấy liền biến thành hình người cúi đầu lễ
dưới chân Phật thưa:
-Thế Tôn ngồi ở
đây suốt trong bảy ngày không ngại trời mưa gió sao?
Đức Thế Tôn nói
kệ đáp:
Chư Thiên và
người đời
Vui thích trong
ngũ dục
So với vui
thiền định
Không thể nào
sánh bằng.
Long vương nghe
lời kệ của Phật vui mừng hớn hở cúi đầu lễ xuống chân Phật rồi trở về Long
cung. Đức Thế Tôn lại tiếp tục đi đến thành Ba-la-nại, chỗ của năm vị
Kiều-trần-như, Ma-ha-na-ma, Bạt-ba, A-xá-bà-xà, Bạt-đà-la-xà cư trú. Năm người
ấy thấy Phật từ xa đang đi đến liền bàn với nhau:
-Sa-môn Cù-đàm
bỏ lối tu khổ hạnh, thoái thân trở lại thọ hưởng thú vui ăn uống không còn tâm
đạo nữa. Nay ông ta đến đây chúng ta không cần đứng lên tiếp đón, cũng không
làm lễ kính, thăm hỏi. Nếu ông ấy muốn cần một chỗ ngồi thì cứ tự ý chọn chỗ để
ngồi.
Nói xong, họ
đều yên lặng nhưng khi Phật đến gần thì năm người tự động đứng dậy lạy chào,
vội vàng cung kính tiếp đón, làm những việc như lúc trước, người tiếp đỡ y bát,
người lấy nước rửa, người rửa chân cho Phật... Ai cũng làm ngược lại những lời
đã giao ước, nhưng vẫn như trước, gọi Phật là Cù-đàm.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi anh em Kiều-trần-như:
-Các người cùng
đồng ý với nhau là gặp Ta không đứng dậy, nay sao lại trái với lời hẹn ước, vội
đứng dậy tiếp đón hầu hạ Ta?
Năm người nghe
hỏi trong lòng hổ thẹn liền thưa:
-Cù-đàm đi
đường có mỏi mệt không?
Thế Tôn hỏi:
-Sao các người
đối với Bậc Vô Thượng Tôn lại gọi tên họ như thế? Lòng Ta tuy không chấp trách
sự hủy báng hay khen ngợi, không có tâm phân biệt nhưng các người kiêu căng sẽ
chuốc lấy quả báo dữ. Ví như đối với lễ nghi ở thế gian, con còn không thể gọi
cha mẹ bằng tên, huống chi Ta nay là cha mẹ của tất cả.
Cả năm vị nghe
những lời dạy ấy lại càng hổ thẹn, thưa với Phật:
-Chúng con ngu
si không trí tuệ, không biết nay Ngài đã thành Chánh giác. Vì sao? Vì trước kia
thấy Như Lai tu khổ hạnh sáu năm, ngày ăn một hạt gạo, một hạt mè mà nay trở
lại hưởng thú vui ăn uống; do đó chúng con tưởng Phật chưa đạt đạo.
Phật bèn nói
với năm người:
-Các ông chớ
dùng trí nhỏ để đo lường đạo Ta thành hay chưa thành đạo. Vì sao? Vì khi thân
xác khổ thì tâm loạn, thân vui sướng thì lòng sẽ say đắm. Do đó khổ và vui, cả
hai đều không phải là nguyên nhân thành đạo, chẳng khác gì dùi cây lấy lửa, lại
đặt khúc cây trong nước mà dùi thì chắc chắn không có lửa để soi sáng. Tìm lửa
trí tuệ cũng vậy, có nước của khổ vui thì ánh sáng của lửa trí tuệ không sinh,
vì lửa trí tuệ không sinh nên không thể diệt trừ được màn đen tối của sinh tử.
Nay nếu bỏ được khổ và vui, tu tập theo Trung đạo thì tâm sẽ an định, có thể
lĩnh hội tu tập theo tám Thánh đạo chân chánh, xa rời mối lo sinh, già, bệnh,
chết. Chính Ta đã tu tập theo Trung đạo nên
đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Năm người ấy
nghe Như Lai dạy như thế lòng rất vui mừng, vô cùng phấn chấn, nhìn ngắm dung
nhan của Phật không rời. Khi ấy Đức Thế Tôn xét thấy căn tánh của năm vị nhóm
ông Kiều-trần-như có thể nhận hiểu được đạo pháp nên dạy:
-Này
Kiều-trần-như, các ông nên biết, thân năm ấm này là khổ, sinh là khổ, già là
khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, yêu thương mà xa nhau là khổ, căm ghét mà gặp
nhau là khổ, mong mỏi không được cũng khổ, mất đi niềm vui sướng khi vinh hiển
là khổ. Này Kiều-trần-như, chưng sinh hữu hình hay vô hình, không chân, có một
chân, hai chân, ba chân, bốn chân hay nhiều chân.. không loài nào là không có
những nỗi khổ ấy. Ví như lấy tro phủ lên lửa; nếu gặp cỏ khô, lửa sẽ bốc cháy.
Như vậy những nỗi khổ là do gốc chấp Ngã mà sinh ra. Nếu có chúng sinh nào khởi
lên niệm tưởng chấp ngã, dù nhỏ nhiệm đến đâu cũng phải chịu những nỗi khổ ấy.
Tham dục, giận dữ, ngu si đều do căn bản chấp Ngã sinh ra. Lại nữa, ba độc này
là nguyên nhân của khổ, ví như hạt giống có năng lực sinh ra mầm mộng, chúng
sinh chính vì chúng nên phải luân hồi trong ba cõi. Nếu diệt được chấp Ngã và
tham, sân, si thì những nỗi khổ sẽ theo đó đoạn dứt. Tất cả khổ đau phiền não
đều do Bát chánh đạo đó mà diệt trừ, giống như một người lấy nước rưới tắt lửa
lớn. Toàn thể chúng sinh không biết cội rễ của khổ đau, nên đều bị luân hồi
trong sinh tử. Này Kiều-trần-như, Khổ cần nên biết, Tập phải đoạn trừ, Diệt cần
nên chứng, Đạo cần nên tu. Này Kiều-trần-như, Ta đã biết Khổ, đã dứt Tập, đã
chứng Diệt, đã tu Đạo nên đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Do đó nay các ông cần phải biết Khổ, dứt Tập, chứng Diệt và tu Đạo. Nếu ai
không tỏ ngộ Tứ thánh đế ấy thì nên biết người ấy chưa được giải thoát. Bốn
chân lý ấy là chân thật: Khổ chính thực là Khổ, Tập chính thực là Tập, Diệt
chính thực là Diệt, Đạo chính thực là Đạo. Này Kiều-trần-như, các ông đã thông
suốt chưa?
Kiều-trần-như
thưa:
-Bạch Thế Tôn,
chúng con đã hiểu, chúng con đã biết.
Vì hiểu rõ pháp
Tứ đế nên từ ấy ông có hiệu là A-nhã Kiều-trần-như. Khi Phật ba lần giảng pháp
Tứ đế và Mười hai hành, Kiều-trần-như thông đạt pháp ấy, tâm xa lìa trần cấu và
đắc pháp nhãn thanh tịnh. Cùng lúc ấy, tám vạn na-do-tha chư Thiên ở trên không
trung cũng xa lìa trần cấu đắc pháp nhãn tịnh. Vị Địa thần thấy Đức Như Lai ở
nơi khu đất của mình chuyển pháp luân, lòng rất vui mừng, lớn tiếng xướng:
-Như Lai đã ở
nơi đây chuyển pháp luân vi diệu.
Tất cả trời
thần trong hư không nghe được lời ấy sinh tâm phấn chấn, truyền nhau hô lớn
vang thấu đến cõi trời sắc cứu cánh. Chư Thiên tại nơi ấy nghe được liền hân
hoan vô cùng, cao giọng xướng:
-Hôm nay, trong
vườn Lộc dã, trú xứ của các Tiên nhân thuộc thành Ba-la-nại, Đức Như Lai đã chuyển Đại pháp luân, điều mà tất cả thế
gian, Trời, Người, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn không thể giảng nói
được.
Lúc đó toàn mặt
đất hiện ra mười tám tướng chuyển động, tám bộ chúng trời, rồng... ở trên hư
không tấu các loại nhạc, trống trời tự kêu, đốt các danh hương, rải các loài
hoa quý, cờ quý, lọng báu cùng ca ngâm khen ngợi, khắp các cõi trong thế giới
tự nhiên sáng rỡ. A-nhã Kiều-trần-như do tỏ ngộ chánh pháp đầu tiên nên là vị
đệ tử thứ nhất của Phật. Bốn vị kia thấy Phật chuyển pháp luân xong mà chỉ có
A-nhã Kiều-trần-như đắc đạo nên trong lòng nghĩ: “Nếu Thế Tôn vì chúng ta nói
pháp lại lần nữa, chúng ta cũng sẽ đắc đạo”. Nghĩ như thế rồi cùng nhau chiêm
ngưỡng Đức Phật không rời. Đức Phật biết tâm niệm của bốn người ấy nên giảng
nói lại pháp Tứ đế. Sau khi nghe xong, họ cũng xa lìa trần cấu, đắc được pháp
nhãn tịnh.
Bấy giờ, sau
khi đã thấy chân lý, năm vị liền đảnh lễ Phật, thưa:
-Bạch Thế Tôn,
năm người chúng con đã thấy được chân lý, đã chứng được dấu đạo, nay chúng con
muốn xuất gia theo Phật, xin Đức Thế Tôn thương xót nhận.
Đức Thế Tôn
liền gọi năm người:
-Hay lắm các
Tỳ-kheo!
Râu tóc họ liền
tự rụng, khoác cà-sa trên thân, năm người đều trở thành Sa-môn. Lúc ấy Thế Tôn
hỏi năm vị Tỳ-kheo:
-Này các
Tỳ-kheo, các ông cho rằng có biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô
thường, là khổ hay không khổ, là không hay chẳng phải không, là ngã hay vô ngã.
Năm vị Tỳ-kheo
vừa nghe lời hỏi về năm ấm ấy xong, các lậu hoặc đều sạch không, tâm thông
suốt, chứng được quả A-la-hán, liền thưa:
-Bạch Thế Tôn,
sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Kể từ đó, tại
thế gian có sáu vị A-la-hán. Đức Phật chính là Phật bảo, Tứ đế chính là Pháp
bảo, năm vị La-hán ấy chính là Tăng bảo. Như thế, ba ngôi báu đã đầy đủ, hiện
diện ở thế gian, là ruộng phước tốt nhất cho cả trời người.
Quyển 4
Bấy giờ có
chàng trai tên Da-xá, con của một vị trưởng giả giàu có nhất trong cõi
Diêm-phù-đề, là người bản tánh thông minh, lanh lợi, thường đội thiên quan, đeo
chuỗi anh lạc, đi giầy báu vô giá. Một hôm, sau khi vui chơi với các kỹ nữ đến
khuya, tất cả đều đi ngủ, Da-xá nửa đêm bỗng thức giấc, nhìn thấy các kỹ nữ ngủ
say, cô nằm sắp, cô nằm ngửa, tóc tai xổ tung rối bời, nước miếng nhểu ra, nhạc
khí, quần áo và nữ trang rơi vãi lung tung. Trông thấy cảnh ấy, Da-xá sinh ra
chán ngán, suy nghĩ: “Ta nay đang ở trong nạn tai bất tịnh, lại tưởng lầm là
thanh tịnh”. Đang lúc suy nghĩ như thế, do uy lực của chư Thiên, một luồng ánh
sáng rực rỡ hiện ra chói lòa cả không trung, cửa tự nhiên mở, Da-xá theo luồng
sáng ấy đi về phía vườn Lộc dã. Khi đến bờ sông Hằng, Da-xá liền lớn tiếng kêu:
-Khổ đau thay!
Lạ lùng thay!
Phật nghe được
liền lên tiếng:
-Này Da-xá,
ngươi hãy sang đây! Nay ở chỗ Ta có pháp môn lìa xa đau khổ.
Da-xá nghe thế
liền cởi đôi giầy quý để lại, lội qua sông đến chỗ Phật. Qua được sông Hằng,
Da-xá bước thẳng đến chỗ Phật. Vừa đến nơi, thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp, tư thế đĩnh đạt, uy đức đầy đủ, lòng Da-xá vô cùng vui mừng
phấn chấn, vội cúi năm vóc sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, thưa:
-Xin Đức Thế
Tôn hãy cứu vớt con.
Phật bảo:
-Lành thay!
Thiện nam tử, ngươi hãy lắng nghe, suy tư và ghi nhớ kỹ. Như Lai sẽ tùy theo
căn cơ của ngươi mà thuyết pháp. Này Da-xá, sắc,
thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Ngươi có biết không?
Da-xá nghe
xong, lập tức xa lìa trần cấu, đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Lúc ấy, Đức Như
Lai giảng lại pháp Tứ đế, nghe xong Da-xá rũ sạch tất cả lậu hoặc, phiền não,
tâm ý rỗng rang tự tại, chứng được quả A-la-hán. Da-xá liền bạch Phật:
-Bạch Đức Thế
Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thật đúng là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Khi ấy thấy
Da-xá vẫn còn mang những đồ trang sức, Phật liền nói kệ dạy:
Dù người còn ở
nhà
Thân đầy trang
sức quý
Khéo giữ gìn
tình cảm
Chán xa năm thứ
dục
Nếu được tâm
như vậy
Mới thật là
xuất gia
Tuy thân ở đồng
trống
Ăn mặc thật dở
thô
Ý còn tham năm
dục
Chẳng phải là
xuất gia
Những thiện ác
đã tạo
Đều do tâm phát
sinh
Cho nên thực
xuất gia
Đều lấy tâm làm
gốc.
Da-xá nghe Như
Lai nói kệ xong, lòng suy nghĩ: “Thế Tôn nói thế chính vì ta còn đeo mang châu
báu, nay ta cần phải cởi bỏ những trang phục này”, liền lạy và thưa với Phật:
-Xin Đức Thế
Tôn chấp thuận cho con xuất gia.
Đức Thê Tôn
nói:
-Thiện lai
Tỳ-kheo!
Râu tóc Da-xá
liền tự rụng, cà-sa khoác trên thân thành Sa-môn. Bấy giờ, cha của Da-xá buổi
sáng thức dậy tìm con không thấy, lòng buồn khổ, than vãn, kêu khóc, đi dọc
theo bờ sông tìm kiếm. Đến sông Hằng, thấy đôi giầy của con để lại trên bờ, ông
suy nghĩ: “Con ta chắc là đi con đường này”. Ông vội lần theo dấu chân của Da-xá
đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn trông thấy, biết ông ta vì con mà đến đây; nếu để
ông thấy được Da-xá, nhất định trong lòng sẽ rất buồn khổ, hay có thể mạng
chung nên dùng thần lực giấu thân Da-xá. Vị trưởng giả đi đến trước Phật, cúi
đầu lễ xuống chân Ngài rồi đứng sang một bên. Lúc ấy, Đức Như Lai thuyết pháp
theo đúng căn tánh của trưởng giả. Phật dạy:
-Này thiện nam
tử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Ông có biết
không?
Vị trưởng giả,
cha của Da-xá nghe những lời dạy ấy, tâm lập tức xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn
thanh tịnh, thưa với Phật:
-Bạch Đức Thế
Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thực sự là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Lúc bấy giờ,
Đức Như Lai biết trưởng giả đã thấy được đạo, niệm ân ái đã suy giảm nên hỏi
ông vì việc gì mà đến đây. Vị trưởng giả thưa:
-Con có đứa con
tên Da-xá bỗng nhiên bỏ nhà đi mất từ đêm qua. Sáng nay con đi tìm chỉ thấy đôi
giầy của nó bên bờ sông Hằng rồi theo dấu chân tìm đến được đây.
Thế Tôn thu lại
thần lực nên vị trưởng giả thấy được con mình, lòng mừng vui tột độ, nói với
Da-xá:
-Lành thay! May
thay! Con làm việc này khiến cha thật vui sướng. Con đã tự độ bản thân lại có
thể độ cho người khác. Do con ở đây nên cha mới đến và nhờ đó mà cha thấy được
đạo.
Nói xong, ông
liền đến trước Phật xin thọ Tam quy. Vị trưởng giả ấy là Ưu-bà-tắc đầu tiên
trong cõi Diêm-phù-đề được cúng dường Tam bảo.
Bấy giờ năm
mươi người con của các trưởng giả khác, bạn của Da-xá, nghe Phật đã xuất hiện ở
đời và biết Da-xá đã theo Phật xuất gia tu tập nên suy nghĩ: “Nay ở thế gian có
Đấng Vô Thượng Tôn, Da-xá là người thông minh, biện tài hơn người mà có thể rời
bỏ gia đình, thân tộc giàu sang, xa lìa thú vui của năm dục, quyết chí tu hành,
thay đổi hình hài thành Sa-môn. Nay chúng ta còn tiếc gì mà không xuất gia?”
Nghĩ xong, các chàng trai cùng nhau đi đến chỗ Phật. Chưa đến nơi nhưng từ xa
họ đã thấy Đức Như Lai thân tướng tuyệt đẹp, ánh sắng rực rỡ, lòng họ rộn lên
niềm vui, toàn thân nhẹ nhàng, thanh thản, lòng tôn kính phát sinh, họ lập tức
đến gần Phật chắp tay nhiễu quanh rồi cúi đầu lễ xuống chân Phật. Những vị
trưởng giả tử ấy vốn đã trồng căn lành từ trước nên dễ ngộ đạo. Đức Như Lai
thuyết pháp phù hợp căn tánh của họ. Ngài dạy:
-Này các thiện
nam tử, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Các ngươi
có biết không?
Khi Phật vừa
giảng xong lời pháp đó, tâm các chàng trai lập tức xa lìa trần cấu, đắc được
pháp nhãn thanh tịnh, liền cùng nhau thưa Phật:
-Bạch Đức Thế
Tôn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức thực đúng là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Cúi xin Thế Tôn chấp thuận cho chúng con được xuất gia.
Phật nói:
-Lành thay, các
Tỳ-kheo!
Lập tức râu tóc
họ tự rụng, vận cà-sa trên thân, trở thành Sa-môn. Đức Thế Tôn liền giảng rộng
pháp Tứ đế cho các vị Tỳ-kheo ấy. Nghe xong, năm mươi vị Tỳ-kheo tỉnh ngộ, nội
tâm đoạn trừ hoàn toàn lậu hoặc, phiền não, chứng được quả A-la-hán. Lúc ấy lần
đầu tiên ở thế gian có năm mươi sáu vị A-la-hán. Đức Như Lai bảo các thầy
Tỳ-kheo:
-Nay các ông,
việc cần làm đã làm xong, xứng đáng là ruộng phước vô thượng cho thế gian. Các
ông mỗi người nên đi khắp nơi giáo hóa, lấy đức Từ bi để độ chúng sinh. Nay Ta
cũng sẽ một mình đi đến thành Vương xá, nước Ma-kiệt-đề để hóa độ nhân dân ở
đó.
Các Tỳ-kheo
thưa:
-Bạch Thế Tôn,
chúng con xin vâng lời.
Các Tỳ-kheo cúi
đầu đảnh lễ Phật rồi mỗi vị khoác y cầm bát từ giã Phật ra đi.
Sau khi các
Tỳ-kheo đi rồi, Thế Tôn suy nghĩ: “Hiện nay Ta phải hóa độ những chúng sinh nào
để có lợi ích rộng rãi cho cả trời người? Chỉ có ba anh em Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp tu theo đạo thờ lửa ở tại nước Ma-kiệt-đề là người được cả vua và thần
dân đều quy ngưỡng tin theo. Ông ta rất thông minh, căn tánh lanh lợi, dễ giác
ngộ nhưng lại rất ngã mạn, rất khó điều phục. Nay Ta phải đến đó đưa họ đến
giải thoát”. Suy nghĩ xong, Đức Phật từ giã thành Ba-la-nại đến nước
Ma-kiệt-đề. Trời vừa sập tối, Phật cũng vừa đến được trú xứ của Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp. Lúc ấy Ca-diếp thấy thân tướng của Như Lai tốt đẹp, trang nghiêm trong
lòng vui mừng, hỏi:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi từ đâu đến?
Phật đáp:
-Ta từ nước
Ba-la-nại đến, muốn đi đến nước Ma-kiệt-đề nhưng vì trời tối nên muốn xin nghỉ
lại một đêm.
Ca-diếp đáp:
-Ở lại một đêm
không có gì bất tiện, chỉ ngặt là các phòng đều có đệ tử của tôi ở cả. Chỉ còn
một hang đá rất thanh tịnh, các dụng cụ thờ lửa của tôi đều để trong đó, nơi đó
thanh vắng có thể ở được nhưng trong hang có con rồng dữ, chỉ e nó sẽ làm hại người mà thôi?
Phật đáp:
-Dù có rồng dữ
nhưng tôi xin cứ được ở tạm.
Ca-diếp đáp:
-Tính nó hung
dữ, sợ làm hại Ngài chứ chẳng phải tôi tiếc.
Phật nói:
-Chỉ cho tôi ở
tạm, nhất định không sao đâu.
Ca-diếp đáp:
-Nếu Ngài có
thể ở được thì xin tùy ý Ngài.
Phật nói: “Tốt
lắm” và liền bước vào hang đá, ngồi kiết già thiền định. Lúc ấy rồng độc nổi
cơn giận dữ, toàn thân phun ra lửa khói. Đức Thế Tôn bèn hướng tâm vào Hỏa
quang tam-muội, rồng thấy thế càng giận dữ phun lửa bốc cao, bao trùm cả hang
đá. Các đệ tử của Ca-diếp thấy ngọn lửa dữ ấy liền vào thưa với thầy là vị
Sa-môn trẻ tuổi, thông minh trang nghiêm ấy đã bị lửa của độc long làm hại.
Ca-diếp giật mình đứng dậy ra xem, thấy ngọn lửa của độc long, trong lòng buồn
thương liền sai đệ tử lấy nước dập tắt, nhưng chẳng những không dập tắt được mà
ngọn lửa càng bốc cao hơn, trùm khắp hang đá. Khi đó thân tâm Đức Thế Tôn vẫn
bất động, sắc diện an nhiên tự tại, hàng phục làm cho độc long tiêu trừ tính
ác, quy y với Phật rồi vào nằm trong bình bát của Ngài. Trời vừa sáng, thầy trò
Ca-diếp cùng đến chỗ hang đá, họ đều nghĩ là vị Sa-môn trẻ tuổi chắc đã bị lửa
rồng giết hại. Ca-diếp nói:
-Vị Sa-môn ở
trong hang kia, hôm qua tôi không cho Ngài ở chỉ vì lý do này.
Phật liền lên
tiếng:
-Lòng Ta thanh
tịnh thì không bao giờ bị tai họa bên ngoài làm hại. Nay Độc long đang ở trong
bình bát.
Phật bèn mở bát
đưa cho Ca-diếp xem. Thầy trò Ca-diếp thấy vị Sa-môn chẳng những không bị lửa
rồng độc làm hại mà còn hàng phục được và đặt nó vào bát, khen ngợi cho là điều
chưa từng có. Tuy nhiên Ca-diếp vẫn nói với các đệ tử:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi ấy tuy có thần thông nhưng nhất định không thể bằng chân đạo của ta.
Lúc ấy Đức Thế
Tôn nói với Ca-diếp:
-Nay tôi muốn ở
lại nơi đây được không?
Ca-diếp đáp:
-Thật tốt lành!
Xin tùy ý Ngài.
Trong đêm thứ
hai, Đức Như Lai đến ngồi dưới một bóng cây. Vào giữa đêm, bốn vị Thiên vương
cùng đến chỗ Phật để nghe pháp. Mỗi vị đều từ thân phóng hào quang chiếu sáng
như mặt trời, mặt trăng. Đêm ấy Ca-diếp thức giấc, từ xa trông thấy ánh sáng
của chư Thiên bên cạnh Như Lai liền nói với các đệ tử:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi kia cũng theo đạo thờ lửa.
Đến sáng, ông
ta đến chỗ Phật, hỏi:
-Thưa Sa-môn,
Ngài cũng theo đạo thờ lửa phải không?
Phật đáp:
-Không phải
thế, đêm qua có Tứ Thiên vương đến nghe thuyết pháp nên có ánh sáng đó.
Ca-diếp nói với chúng đệ tử:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi đó có uy đức lớn nhưng tuyệt nhiên không thể sánh với đạo chân chánh của
ta.
Vào đêm thứ ba,
vua trời Đế Thích từ Thiên cung xuống nghe thuyết pháp, thân vị ấy chiếu hào
quang sáng như mặt trời mới mọc. Các đệ tử của Ca-diếp từ xa trông thấy ánh
sáng của vị trời bên cạnh Phật vội vàng đến thưa thầy:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi kia chắc chắn là theo đạo thờ lửa.
Trời vừa sáng,
tất cả lại đến hỏi Phật. Phật cho biết đó là hào quang của vua trời Đế Thích
xuống nghe pháp. Nghe thế nhưng Ca-diếp vẫn cho đạo ông ta là chân chánh hơn.
Đến đêm thứ tư,
Đại phạm Thiên vương cũng xuống thế gian, đến chỗ Phật nghe thuyết pháp. Hào
quang từ thân vị ấy sáng như mặt trời giữa trưa. Đêm đó, Ca-diếp trở giấc thức
dậy, thấy ánh sáng chói chang tại chỗ Phật nên quyết chắc là Ngài theo đạo thờ
lửa. Sáng mai, Ca-diếp lại đến hỏi Phật mới biết là giữa đêm có vị Đại phạm
Thiên vương đến nghe Phật thuyết pháp. Ca-diếp trong lòng thầm nghĩ: “Tuy vị
Sa-môn trẻ tuổi này có thần thông kỳ diệu như thế nhưng tuyệt nhiên vẫn không
thể sánh bằng chân đạo của ta”.
Năm trăm đệ tử
của Ca-diếp, mỗi vị đều thờ ba ngọn lửa, sáng nào họ cũng đốt lửa, nhưng hôm ấy
đốt mãi mà lửa vẫn không cháy nên kéo đến thưa lên thầy. Ca-diếp nghe xong,
thầm nghĩ trong lòng: “Điều ấy chắc là do thần lực của vị Sa-môn kia” nên lập
tức cùng đệ tử đến gặp Phật, nói:
-Mỗi người đệ
tử của tôi đều thờ ba ngọn lửa. Sáng nay muốn thắp lên mà lửa vẫn không cách
nào cháy được.
Phật bảo:
-Các ông hãy
trở về, lửa sẽ tự nhiên cháy.
Ca-diếp quay về
thì thấy lửa đã cháy nhưng vẫn tự nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi kia tuy có diệu lực
nhưng dẫu sao vẫn không chân chánh bằng đạo của ta”. Các đệ tử làm lễ cúng
dường lửa xong, muốn tắt lửa nhưng không thể nào tắt được, vội đến thưa với
Ca-diếp. Ca-diếp nghĩ chắc cũng do vị Sa-môn kia làm ra, bèn đến trình bày việc
ấy với Phật. Phật bảo:
-Các ông hãy về
đi, lửa sẽ tự tắt.
Quả nhiên khi
thầy trò trở về thì lửa đã tắt nhưng Ca-diếp vẫn cho đạo ông là chân chánh hơn.
Đến khi bản
thân Ca-diếp tế thần lửa, nhưng đốt mãi mà lửa vẫn không cháy, Ca-diếp biết là
do thần lực của Phật nên đến thưa với Ngài. Phật bảo Ca-diếp có thể ra về, lửa
sẽ tự nhiên cháy. Quả nhiên khi Ca-diếp trở về thấy lửa đã cháy. Sau khi tế
xong, Ca-diếp không tắt được lửa cũng đoán biết là do thần lực của Phật nên lại
đến trình bày với Ngài. Phật cũng bảo trở về và quả nhiên khi Ca-diếp vừa về
tới thì lửa đã tự nhiên tắt lịm. Tuy vậy, Ca-diếp vẫn tự phụ đạo của mình là
hơn cả.
Vào buổi sáng
sớm, các đệ tử của Ca-diếp cùng bổ củi nhưng không thể nào dỡ rìu lên được, bèn
thưa với thầy. Ca-diếp nghe xong
thầm nghĩ: “Đây
chắc hẳn là việc làm của vị Sa-môn ấy” nên cùng với các đệ tử đi đến chỗ Phật
thưa:
-Sáng sớm này,
các đệ tử của tôi chuẩn bị bổ củi nhưng không làm sao dỡ rìu lên được.
Phật bảo:
-Ông hãy về đi,
các đệ tử ông sẽ tự nhiên dỡ rìu lên được.
Ca-diếp trở về,
thấy các đệ tử quả nhiên đã dỡ rìu lên được. Dầu vậy Ca-diếp vẫn tự cho là đạo
mình chân chánh hơn tất cả. Ngay lúc ấy,
các đệ tử dỡ rìu lên nhưng lại không hạ xuống được bèn chạy tới trình bày với
thầy. Ca-diếp đoán biết là việc làm của Phật nên đến thưa với Ngài sự việc đó.
Phật dạy:
-Ông có thể về,
rìu sẽ tự hạ xuống về đến nơi, quả nhiên Ca-diếp thấy các đệ tử đã hạ rìu xuống
cả. Cũng như trước, Ca-diếp vẫn tự phụ về đạo của mình là chân chánh nhất.
Đến khi bản
thân Ca-diếp bổ củi thì cũng như các đệ tử không thể đưa rìu lên cao được. Đến
hỏi, được Phật dạy xong, trở về thì có thể dỡ rìu lên nhưng lại không làm cách
nào hạ xuống. Đến chỗ Phật hỏi xong trở về thì có thể hạ rìu xuống. Tuy thán
phục, nhưng trong lòng Ca-diếp vẫn tự cho đạo thờ lửa là chân chánh nhất.
Một hôm,
Ca-diếp thưa với Phật:
-Thưa vị Sa-môn
trẻ tuổi, xin người hãy ở lại đây cùng tu phạm hạnh. Phòng xá, y phục, thức ăn
tôi xin cung cấp đầy đủ cho người.
Đức Thế Tôn yên
lặng chấp thuận. Ca-diếp biết Phật đã ưng thuận liền về sai các đệ tử trang
thiết giường nằm, đồ ngồi cho Đức Phật và dặn mỗi ngày phải chuẩn bị các món
trai thực thật ngon để đãi Ngài. Sáng hôm sau ông tự thân đến thỉnh Phật. Phật
bảo ông về trước, Ngài sẽ đến sau. Ca-diếp vừa quay về thì trong khoảnh khắc,
Thế Tôn đến châu Diêm-phù hái đầy bình bát quả Diêm-phù rồi quay về chỗ ở của
Ca-diếp mà ông ta vẫn chưa về tới. Lúc Ca-diếp về tới đã thấy Phật an tọa trong
tịnh thất của mình nên rất ngạc nhiên hỏi:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi đi đường nào mà đến đây sớm thế?
Phật liền đưa
bát đựng quả Diêm phù cho Ca-diếp xem và hỏi:
-Ông có biết
loại quả trong bát này không?
Ca-diếp thưa
không biết. Phật nói:
-Từ đây đi về
hướng Nam mấy vạn do-tuần có một châu, nơi ấy có một loại cây tên là Diêm-phù;
vì vậy mà người ta gọi châu ấy là Diêm-phù-đề. Đây là trái Diêm-phù đó. Ta đã
đến đó hái đem về đây. Vị của nó thật là thơm ngon, ông hãy nếm thử đi.
Khi đó Ca-diếp suy nghĩ: “Đường đến đó
rất xa mà vị Sa-môn này chỉ trong khoảnh khắc đến đó rồi về, sức thần biến của
vị ấy thật là phi thường. Tuy nhiên, đạo của vị ấy chắc chắn không chân chánh
bằng đạo của ta”. Tiếp đó Ca-diếp cho dọn lên đủ các thức ăn. Trước khi thọ
thực Phật chú nguyện:
Trong đạo
Bà-la-môn
Thờ lửa là cao
nhất
Trong tất cả
các dòng
Biển cả là lớn
nhất
Trong toàn thể
ngôi sao
Bóng nguyệt là
tối thượng
Trong tất cả
nguồn sáng
Sáng nhất vầng
thái dương
Trong tất cả
phước điền
Ruộng Phật là
tốt nhất
Nếu muốn chứng
quả cao
Nên cúng ruộng
phước Phật.
Sau khi thọ
trai xong, Phật trở về chỗ ở của mình, rửa bát súc miệng và tĩnh tọa dưới bóng
cây. Hôm sau Ca-diếp cũng đến thỉnh Phật thọ trai. Phật bảo:
-Ông hãy về
trước, Ta sẽ theo sau.
Khi Ca-diếp vừa
đi, trong giây lát Thế Tôn đến châu Phất-bà-đề hái đầy bát quả Am-ma-la và trở
về, chỗ ở của Ca-diếp. Lúc Ca-diếp về tới đã thấy Phật ngồi trong nhà, ngạc
nhiên hỏi:
-Ngài đi đường
nào lại đến trước tôi như thế?
Phật liền đưa
bát có trái Am-ma-la cho ông ta xem và hỏi:
-Ông có biết
quả này không?
Ca-diếp thưa
chưa biết. Phật nói:
-Từ đây về
hướng Đông cách mấy vạn do-tuần có châu Phất-bà-đề, Ta vừa đến đó hái về trái
Am-ma-la. Trái này mùi vị rất thơm ngon, ông có thể nếm qua.
Ca-diếp nghĩ:
“Đường đến đó xa xôi như thế mà vị Sa-môn này chỉ trong chốc lát đã đến đó rồi
về thật là kỳ diệu xưa nay chưa từng có, nhưng đạo của ta vẫn chân chánh hơn
cả”. Ca-diếp lại cho dọn thức ăn ra. Trước khi thọ thực, Phật chú nguyện:
Trong đạo
Bà-la-môn
Thờ lửa là cao
nhất
Trong tất cả
các dòng
Biển cả là bậc
nhất
Trong tất cả
ngôi sao
Trăng là sáng
hơn hết
Trong tất cả
nguồn sáng.
Mặt trời là tối
thượng
Trong tất cả
ruộng phước
Ruộng Phật tốt
hơn hết
Nếu muôn được
quả lớn
Nên cúng ruộng
phước Phật.
Thọ trai xong,
Phật trở về chỗ ở, rửa bát súc miệng rồi đến dưới bóng cây ngồi thiền định.
Ngày thứ ba đến giờ thọ trai, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Cũng như hai lần
trước Phật bảo ông hãy trở về và trong chốc lát Thế Tôn đến châu Cù-đà-ni hái
quả A-lê-lặc đựng đầy bát rồi về chỗ ở của Ca-diếp. Khi về tới nới, Phật đã đến
rồi, Ca-diếp ngạc nhiên hỏi:
-Ngài đi đường
nào mà đến đây nhanh như vậy?
Phật liền đưa
bát hỏi:
-Ông biết trái
cây này không?
Ca-diếp bảo
chưa biết. Phật dạy:
-Từ đây đi về
phương Tây, cách độ vài muôn na-do-tha sẽ đến châu Cù-đà-ni, ở đó có trái
A-lê-lặc, Ta vừa đến đó và hái về đây. Trái này rất thơm ngon, ông hãy ăn thử.
Ca-diếp nghĩ:
“Đường đi thật xa mà vị Sa-môn này chỉ trong chốc lát đến đó rồi trở về, thần
lực thật là kỳ diệu chưa hề thấy. Thế nhưng đạo của ông ta vẫn chưa chân chánh
bằng đạo của ta”. Ca-diếp sai đệ
tử dọn thức ăn ra, Phật chú nguyện:
Trong đạo Bà-la-môn
Thờ lửa là cao
nhất
Trong tất cả
dòng nước
Biển là lớn hơn
hết
Tất cả các ngôi
sao
Mặt trăng là
sáng nhất
Tất cả các
nguồn sáng
Mặt trời là tối
thượng
Trong tất cả
ruộng phước
Ruộng phước
Phật tốt nhất
Nếu muốn chứng
quả lớn
Nên cúng ruộng
phước Phật.
Phật thọ trai
xong trở về nơi cư trú thường ngày. Sau khi rửa bát súc miệng, Ngài đến tĩnh
tọa dưới bóng cây. Hôm sau đến giờ ăn, Ca-diếp lại cũng đến thỉnh Phật thọ
trai. Phật bảo Ca-diếp về trước Ngài sẽ đến sau. Khi Ca-diếp vừa quay đi, chỉ
trong giây lát, Phật đã đến châu uất-đơn-việt lấy cơm thơm tự nhiên rồi trở về
chỗ ở của Ca-diếp. Khi Ca-diếp bước vào tịnh thất đã thấy Phật ở đó liền hỏi:
-Ngài bằng cách
nào, đi đường nào lại đến trước tôi như thế?
Phật đưa bát
cơm thơm cho ông ta xem và hỏi:
-Ông có biết
loại cơm trong bát này chăng?
Ca-diếp thưa
không biết. Phật nói:
-Từ đây đi về
hướng Bắc độ vài muôn na-do-tha sẽ đến châu uất-đơn-việt, Ta vừa đến đó lấy cơm
này về đây. Cơm này vị rất thơm ngon, ông có thể ăn thử.
Ca-diếp nghe
thế suy nghĩ: “Đường thật xa mà vị Sa-môn này chỉ đi trong chốc lát, thần thông
thật khó lường được, tuy nhiên đạo ta vẫn chân chánh hơn”. Ca-diếp dọn các thức
ăn ra, trước khi thọ thực Phật chú nguyện:
rong pháp
Bà-la-môn
Thờ lửa cao hơn
hết
Hết thảy các
dòng nước
Biển cả là lớn nhất
Trong tất cả
ngôi sao
Trăng là sáng
hơn hết
Trong tất cả
nguồn sáng
Sáng nhất là
thái dương
Trong tất cả
ruộng phước
Ruộng phước
Phật tốt nhất
Ai muốn đạt quả lớn
Nên cúng ruộng
phước Phật.
Thọ thực xong,
Phật trở về chỗ ở thường ngày. Sau khi rửa bát súc miệng, Phật ngồi nhập định
dưới bóng cây. Đến hồm thứ năm Ca-diếp cũng đến thỉnh Phật. Phật nói quý hóa
thay rồi cùng đi với Ca-diếp. Đến nơi thức ăn dọn ra, Phật nói kệ chú nguyện:
Trong đạo
Bà-la-môn
Thờ lửa là cao
nhất
Như tất cả dòng
nước
Biển là lớn hơn
hết
Tinh tú trên
bầu trời
Mặt trăng là
sáng nhất
Trong tất cả
nguồn sáng
Sáng nhất vầng
thái dương
Trong tất cả
ruộng phước
Ruộng phước
Phật tốt nhất
Nếu muốn chứng quả lớn
Nên cúng ruộng
phước Phật.
Sau khi chú
nguyện xong, Phật nhận thức ăn đem về dưới bóng cây dùng. Thọ thực xong, Phật
nghĩ cần nước để rửa. Trời Đế Thích biết ý, từ cung trời, nhanh như thời gian
người lực sĩ co duỗi cánh tay, đến trước, cúi đầu lễ xuống chân Phật và dùng
tay chỉ mặt đất biến thành ao nước rất trong lành, có đủ tám món công đức. Như
Lai liền dùng nước trong ao để rửa bát và chân. Phật rửa xong liền thuyết pháp
cho trời Đế Thích nghe. Nghe xong, Đế Thích rất vui mừng, phấn chấn, đột nhiên
biến mất, trở về Thiên cung.
Khi ấy, Ca-diếp
ăn xong ra rừng đi dạo, bỗng nảy ra ý nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi hôm nay đem
thức ăn về nơi cội cây để dùng, vậy ta đến đó để thăm người”. Nghĩ xong vội rảo
bước đến chỗ Phật. Đến nơi Ca-diếp bỗng thấy bên cạnh nơi Phật ngồi có một cái
ao lớn, nước ao trong mát, đủ tám công đức nên rất ngạc nhiên, hỏi Phật:
-Nơi đây sao
bỗng nhiên lại có ao nước?
Phật đáp:
-Sáng nay khi
nhận thức ăn của ông cúng dường đem về, ăn xong Ta nghĩ cần có nước để rửa bát.
Trời Đế Thích biết ý Ta nên từ Thiên cung đến đây dùng tay chỉ đất hóa thành ao
nước đó.
Ca-diếp thấy ao
nước, lại nghe Phật nói như thế liền suy nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi có uy đức
rất lớn nên mới cảm được đến trời, nhưng đâu biết rằng đạo của ta là chân chánh
hơn hết”.
Một hôm, đang
kinh hành trong rừng, Đức Thế Tôn nhặt được các mảnh vải dơ rách trong đống rác
bẩn, muốn đem giặt nên nghĩ cần phải có một phiến đá. Đế Thích biết ý Phật liền
trong khoảnh khắc đến Hương sơn lấy một tảng đá vuông vức đem về đặt giữa các
hàng cây rồi bạch Phật có thể giặt áo trên tảng đá ấy. Phật lại nghĩ cần nước,
Đế Thích lại đến Hương sơn làm một cái chậu to bằng đá lấy nước trong mát đổ
đầy vào, đem đến để gần tảng đá kia. Xong việc Đế Thích bỗng nhiên biến mất,
trở về Thiên cung.
Đức Thế Tôn
giặt những mảnh vải xong trở về ngồi dưới bóng cây. Lúc ấy Ca-diếp đi đến bỗng
thấy bên hàng cây có một phiến đá vuông vức và chậu đá liền nghĩ: “Sao nơi đây
lại có hai vật này?” trong lòng lấy làm lạ nên đến hỏi Phật:
-Thưa Sa-môn,
tại sao bỗng nhiên giữa các hàng cây lại có phiến đá và chậu đá?
Phật đáp:
-Ta đi kinh
hành nhặt được những mảnh vải rách bẩn nên có ý muốn giặt. Vua trời Đế Thích
biết ý đó của Ta nên đến Hương sơn lấy những vật ấy đem đến.
Ca-diếp nghe
xong khen là việc chưa từng thấy nhưng trong lòng vẫn nghĩ Đức Phật tuy có thần
lực cảm được đến trời nhưng đạo của Phật vẫn không chân chánh bằng đạo của
mình.
Một ngày kia,
Thế Tôn xuống ao tắm rửa. Sau khi tắm xong Ngài muốn lên bờ nhưng không có vật
gì để vịn leo lên. Trên bờ ao có cội cây tên Ca-la-ca cành lá sum suê, sát bên
bờ ao, vị thọ thần liền oằn cành cây xuống để Phật vịn lên khỏi ao. Sau đó Phật
trở về an tọa dưới bóng cây. Lúc ấy Ca-diếp đi đến thấy những cành cây bỗng
nhiên sà xuống lây làm lạ nên hỏi Phật:
-Các cành cây
vì sao bỗng sà thấp xuống như vậy.
Phật đáp:
-Ta xuống ao
tắm xong, muốn có vật gì vịn để lên bờ. Vị thọ thần biết ý nên làm cho cành cây
sà xưống giúp Ta vịn để lên bờ.
Ca-diếp khen là
việc chưa từng thấy nhưng vẫn nghĩ Đức Phật tuy có nhiều uy lực, có thể cảm hóa
được Thọ thần nhưng đạo của ông ta vẫn chân chánh hơn
Một hôm Ca-diếp
nghĩ: “Ngày mai này, vua nước Ma-kiệt-đề cùng với quan, dân, Bà-la-môn, trưởng
giả, cư sĩ... sẽ đến đây tổ chức lễ hội trong bảy ngày. Nếu vị Sa-môn trẻ tuổi
kia mà đến đây thì vua, quan, dân chúng thấy tướng tốt và uy lực thần thông của
vị ấy hẳn là sẽ bỏ ta mà đi theo thờ phụng vị ấy. Mong sao trong bảy ngày lễ
hội, vị ấy không đến đây”. Phật hiểu rõ tâm niệm của Ca-diếp nên Ngài đi sang
xứ uất-đơn-việt ở phương Bắc, trong bảy ngày bảy đêm không xuất hiện. Khi lễ
hội hoàn tất, vua quan và mọi người về hết, Ca-diếp lại nghĩ: “Trong suốt bảy
ngày hội, vị Sa-môn trẻ tuổi không đến, thật là may mắn. Nay lễ hội đã xong, ta
muôn cúng dường Ngài, nếu lúc này Ngài đến thì thật là tốt.
Lúc ấy Đức Thế
Tôn biết được ý nghĩ của Ca-diếp nên trong chốc lát, nhanh như thời gian một
tráng sĩ co duỗi cánh tay, hiện ra trước Ca-diếp. Lúc ấy Ca-diếp chợt thấy Như
Lai, đến vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng liền hỏi Phật:
-Trong bảy ngày
qua Ngài đi đâu tôi không gặp?
Phật đáp:
-Đức vua nước
Ma-kiệt-đề, quan dân, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ... đến đây dự hội bảy ngày,
ông lại không muốn gặp Ta nên Ta đến xứ Uất-đơn-việt ở phương Bắc để tránh ông.
Nay ông nghĩ muốn Ta đến nên Ta đến.
Ca-diếp nghe
Phật nói giật mình, toàn thân nổi gai, suy nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi này biết
được cả ý nghĩ trong lòng ta. Thật là kỳ lạ nhưng vẫn không chân chánh bằng đạo
của ta”.
Ngày kia, Đức
Thế Tôn suy nghĩ: “Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp căn duyên đã từ từ thuần thục, nay
đúng là lúc điều phục ông ta”. Nghĩ thế nên
Đức Thế Tôn đến sông Ni-liên-thiền. Phật vừa đến bờ sông, Ma vương bỗng hiện ra
thưa với Phật:
-Bạch Thế Tôn,
bấy giờ là lúc Ngài nên vào Niết-bàn.
Đấng Thiện Thệ, nay đã đúng thời Ngài nên vào Niết-bàn. Vì sao? Vì những người
đáng độ đều đã được giải thoát, nay thật đúng lúc Ngài nên vào Niết-bàn.
Ma vương thưa
với Phật ba lần như thế. Đức Thế Tôn đáp:
-Nay chưa phải
lúc Ta vào Niết-bàn. Vì sao? Vì bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di chưa đầy đủ. Những người đáng độ chưa được hoàn toàn giải thoát, các
ngoại đạo đều chưa được hàng phục.
Đức Phật cũng
đáp lại ba lần như thế. Ma vương nghe thế buồn bã trở về Thiên cung.
Đức Thế Tôn đi
xuống sông Ni-liên-thiền, dùng thần lực tách dòng sông làm hai khiến nước ở hai
bên vọt lên cao. Phật đi vào giữa, từng bước chân của Ngài làm bụi tung lên mù
mịt. Ca-diếp từ xa trông thấy tưởng Phật bị chìm trong nước liền sai các đệ tử
chèo thuyền đến đó. Khi đến bên sông thấy lối Phật đi có bụi bay lên, Ca-diếp
thầm khen là việc chưa từng có nhưng suy nghĩ: “Vị Sa-môn trẻ tuổi
này tuy có sức thần thông như thế nhưng vẫn không chân chánh bằng đạo của ta”.
Lúc ấy Ca-diếp hỏi Phật:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi muốn lên thuyền không?
Phật đáp:
-Tốt lắm.
Bấy giờ Đức Thế
Tôn dùng thần lực xuyên qua đáy thuyền để vào trong thuyền ngồi kiết già.
Ca-diếp thấy Phật từ đáy thuyền đi vào mà đáy thuyền vẫn không thủng, khen là
việc chưa từng có, nhưng vẫn cố chấp: “Vị Sa-môn trẻ tuổi có thần thông kỳ diệu
như thế nhưng không bằng ta đã đắc quả A-la-hán”. Phật liền nói:
-Này Ca-diếp,
ông chưa đắc quả A-la-hán, cũng chưa đạt A-la-hán hướng mà sao lại có tâm ngã
mạn lớn như thế?
Ca-diếp nghe
lời đó xong, trong lòng vừa thẹn vừa sợ, toàn thân nổi gai, thầm nghĩ: “Vị
Sa-môn trẻ tuổi này biết rõ tâm niệm của ta” nên liền thưa với Phật:
-Đúng thế, thưa
Sa-môn! Đúng thế, thưa Đại Tiên! Người đã biết rõ tâm niệm của con. Cúi xin
Ngài hãy thu nhận con làm đệ tử.
Phật đáp:
-Ông là bậc cao
niên, đã một trăm hai mươi tuổi, có nhiều đệ tử quyến thuộc, lại được Quốc
vương và quan dân tôn kính. Nếu ông quyết định theo học giáo pháp của Ta thì
trước hết nên cùng bàn bạc kỹ với các đệ tử.
Ca-diếp đáp:
-Quý hóa thay!
Hay lắm thay! Quả như lời dạy của Đại Tiên, nhưng lòng con đã quyết định, không
bao giờ thay đổi. Nay sẽ về cùng bàn bạc với các đệ tử.
Nói xong,
Ca-diếp trở về trụ xứ tập họp các đệ tử nói:
-Vị Sa-môn trẻ
tuổi từ khi đến ở đây, chúng ta đã thấy bao nhiêu thần thông biến hóa thật là
kỳ diệu và trí tuệ cao xa, tính tình ôn hòa của Ngài, nay ta muốn quy y theo
học giáo pháp của người, các ông nghĩ sao?
Các đệ tử thưa
-Những gì chúng
con biết đều là nhờ ân của Tôn giả. Bậc mà Tôn giả đã tin tưởng quy y, ắt hẳn
không phải là hư vọng. Chúng con cũng đã thấy những thần thông kỳ diệu của vị
ấy. Nếu Tôn giả quyết định quy y theo học giáo pháp của Bậc ấy, chúng con cũng
xin nguyện theo Tôn giả quy y.
Nghe các đệ tử
nói thế, Ca-diếp lập tức cùng họ đến trước Phật thưa:
-Nay con cùng
các đệ tử đều đã quyết định quy y. Cúi xin Đại Tiên hãy thâu nhận chúng con.
Phật nói:
-Thiện lai
Tỳ-kheo!
Lập tức râu tóc
Ca-diếp tự rụng, vận cà-sa vào người, trở thành Sa-môn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn
tùy theo căn tánh của Tôn giả giảng rộng pháp Tứ đế. Vừa nghe xong bài pháp,
Ca-diếp liền lìa xa mọi trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh; sau đó một thời
gian đã chứng được quả A-la-hán. Năm trăm đệ tử thấy thầy đã thành Sa-môn trong
lòng rất vui vẻ, cũng có ý muốn xuất gia nên thưa với Phật:
-Thầy chúng con
được Đại Tiên thu nhận, nay đã là Sa-môn.
Chúng con cũng
vui thích theo thầy học đạo. Cúi xin Đại tiên chấp nhận cho chúng con được xuất
gia.
Phật nói:
-Thiện lai
Tỳ-kheo!
Râu tóc của họ
tự rụng xuống, vận cà-sa vào, trở thành Sa-môn. Sau đó Phật cũng vì họ giảng
pháp Tứ đế. Sau thời pháp, cả năm trăm vị Tỳ-kheo đều xa lìa trần cấu, đắc pháp
nhãn thanh tịnh, chứng được quả Tu-đà-hoàn. Sau một thời gian tu tập, dần dần
tất cả đều chứng được quả A-la-hán.
Sau khi đắc
quả, Ca-diếp và năm trăm vị đệ tử đem hết những dụng cụ thờ lửa vứt bỏ xuống
sông Ni-liên-thiền và cùng đi theo Phật. Bấy giờ hai người em của Ca-diếp là
Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp, mỗi người có hai trăm năm mươi người đệ tử và
cùng ở bên bờ vùng hạ lưu sông Ni-liên-thiền, bỗng trông thấy các dụng cụ thờ
lửa của thầy trò người anh trôi trên sông nên rất ngạc nhiên, suy nghĩ: “Anh ta
gặp điều gì không lành mà sao nay những dụng cụ thờ lửa bị thả trôi sông. Phải
chăng bị kẻ ác hãm hại?” Hai người em
vội chạy đến gặp nhau bàn luận:
-Anh chúng ta
nếu không bị kẻ ác làm hại thì tại sao những dụng cụ thờ lửa lại theo dòng sông
trôi xuống. Thật là kỳ lạ, chúng ta hãy mau đến đó xem sao.
Bàn luận xong,
họ liền ngược dòng sông lên đến chỗ người anh. Đến nơi thấy cảnh vắng vẻ lòng
họ rất buồn rầu, thắc mắc không biết anh và các đệ tử đi đâu. Trong khi đi tìm
kiếm khắp nơi bỗng gặp người quen, họ liền hỏi thăm:
-Thánh huynh
của chúng tôi và các đệ tử không rõ nay ở đâu, ông có biết không?
Vị ấy trả lời:
-Anh của các
ngài và chúng đệ tử đã bỏ hết những dụng cụ thờ lửa, xuất gia đi theo Sa-môn
Cù-đàm tu học.
Hai người em
nghe thế vô cùng khổ tâm, cho là việc kỳ lạ chưa từng thấy, thầm nghĩ: “Sao anh
ta lại bỏ đạo A-la-hán mà đi cầu học pháp khác?” Hai người liền tìm đến chỗ
người anh. Đến nơi thấy anh và các đệ tử đã cạo bỏ râu tóc, mặc cà-sa liền quỳ
lạy, hỏi:
-Anh vốn là một
vị Đại A-la-hán thông minh, trí tuệ không ai bằng, tiếng tăm vang cả mười phương
mọi người đều kính phục, tại sao nay lại bỏ đạo mà theo học người khác? Đây đâu
phải là chuyện nhỏ.
Ca-diếp liền
trả lời hai em:
-Ta thấy Đức
Thế Tôn là Bậc đã thành tựu tâm đại Từ bi và có ba điều kỳ diệu: một là thần
thông biến hóa; hai là trí tuệ cực sáng, chắc chắn đã đạt được Nhất thiết chủng
trí; ba là biết rõ căn tánh từng người mà tùy thuận dẫn dắt, do đó mà ta xuất
gia tu học theo giáo pháp của Phật. Ta nay tuy được vua, quan, dân chúng tôn
kính, không luận lý nào ở thế gian mà không phá được nhưng lại không dứt được
con đường sinh tử, chỉ có giáo pháp của Như Lai mới có thể dứt hẳn được sinh
tử. Đã gặp được vị Đại Thánh Chí Tôn như vậy mà không tự gắng sức để cầu học
theo vị Thầy tốì thắng là người không có lòng và cũng không có mắt.
Hai người em
thưa:
-Nếu đúng như
lời anh nói, Bậc ấy chắc chắn đã thành tựu được Nhất thiết chủng trí. Các đạo
lý, tri thức chúng em có được đều do công sức của anh. Nay anh đã theo Phật
xuất gia, chúng em cũng như anh nguyện theo Phật xuất gia học đạo.
Hai người em, mỗi vị bèn hỏi chúng đệ
tử của mình:
-Nay ta muốn
theo đường của anh cả ta xuất gia theo học Phật pháp, vậy ý các người thế nào?
Các đệ tử thưa:
-Chúng con có
được tri kiến đều là nhờ ân của đại sư. Nay đại sư có ý xuất gia theo Phật,
chúng con cũng nguyện đi theo.
Lúc ấy Na-đề
Ca-diếp và Già-da Ca-diếp, mỗi vị đem hai trăm năm mươi đệ tử đến trước Phật
cúi đầu lễ xuống chân Phật thưa:
-Bạch Thế Tôn,
xin người từ bi thương xót mà cứu vớt chúng con.
Phật nói:
-Thiện lai
Tỳ-kheo!
Râu tóc của họ
đều tự rụng, vận cà-sa, trở thành Sa-môn. Hai người lại bạch Phật:
-Các đệ tử của
chúng con cũng nguyện xin xuất gia. Kính xin Thế Tôn từ bi tiếp nhận.
Phật đáp:
-Quý hóa lắm!
Rồi Ngài hô
lớn:
-Lành thay các
Tỳ-kheo!
Râu tóc trên
người họ tự rụng, vận cà-sa, đều thành Sa-môn. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì Na-đề
Ca-diếp, Già-da Ca-diếp và chúng đệ tử hiện sức đại thần thông rồi tùy theo căn
cơ mà thuyết pháp. Phật dạy:
-Này các
Tỳ-kheo, các ông nên biết thế gian này luôn bị các thứ lửa dữ là tham, sân, si
thiêu đốt. Trước đây các ông thờ ba thứ lửa đã có thể trừ bỏ được chướng ngại
thô lậu bên ngoài, nhưng ba thứ lửa độc này lại xuất phát từ thân tâm, các ông
cần phải mau đoạn trừ chúng.
Lúc bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, ngay lập tức xa lìa mọi trần cấu phiền não, đắc pháp
nhãn thanh tịnh. Thế Tôn lại vì họ giảng rộng pháp Tứ đế. Sau một thời pháp,
tất cả họ đều đạt được quả A-la-hán.
Bấy giờ, Đức
Thế Tôn nhớ lại: “Vua Tần-tỳ-sa-la trước đây có nguyện rằng nếu Ta đắc đạo thì
nên độ ông ta trước. Nay đã đến lúc Ta nên đến đó để hoàn thành bản nguyện cho
nhà vua”. Nghĩ thế rồi, Phật liền cùng ba anh em Ca-diếp và một ngàn vị Tỳ-kheo
đi tới cung điện của vua Tần-tỳ-sa-la tại thành Vương xá.
Lúc ấy, người
dân trong các thôn mà vua đã cấp cho Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp trước đây thấy
Ca-diếp và các đệ tử đều thành Sa-môn liền đến tâu vua. Nhà vua và các quan
nghe tin ấy rất kinh ngạc nhưng yên lặng không nói gì. Dân chúng bên ngoài nghe
tin ấy liền cùng nhau bàn bạc:
Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp là bậc có trí tuệ cao sâu không ai sánh bằng, tuổi lại cao, đã chứng
quả A-la-hán nay sao lại bỏ đạo của mình làm đệ tử của Sa-môn Cù-đàm?
Không một ai
tin điều đó và đều cho rằng Sa-môn Cù-đàm là đệ tử của Ca-diếp. Khi đến gần
thành Vương xá, Thế Tôn dừng chân nghỉ trong một khu rừng. Ưu-lâu-tần-loa
Ca-diếp nhờ một người thân cận trước đây đến thưa với vua Tần-tỳ-sa-la:
-Tôi nay đã
xuất gia tu học theo giáo pháp của Đức Phật. Hiện nay đang cùng Đức Phật đến
đây, ngự trong một khu rừng. Nhà vua nên đến lễ bái cúng dường.
Nhà vua nghe
tâu lại lời ấy mới biết chắc là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là đệ tử của Phật, lập
tức truyền chuẩn bị ngựa xe cùng với các vị đại thần, Ba-la-môn, dân chúng đến
chỗ Đức Phật. Khi đến ngoài rừng, vua liền xuống xe, bỏ tất cả nghi trượng
hoàng gia, đi bộ vào diện kiến Đức Phật. Lúc ấy, từ trên không có một vị trời bảo
nhà vua:
-Như Lai hiện
đang ngự trong khu rừng này, là ruộng phước tối thượng của trời, người. Đại
vương nên cung kính cúng dường và bố cáo cho nhân dân trong nước nên cúng dường
Như Lai.
Nhà vua nghe
lời đó xong, trong lòng vô cùng mừng rỡ, phấn chấn, lập tức tiến vào rừng. Từ
xa vua đã trông thấy tướng tốt đẹp, trang nghiêm của Đức Phật và cũng thấy thầy
trò ba anh em Tôn giả Ca-diếp hầu chung quanh, chẳng khác nào các vì sao vây
quanh vầng nguyệt rạng. Lòng vua càng tăng thêm niềm hoan hỷ vội đến trước Đức
Phật cúi đầu lạy sát đất thưa với Phật:
-Con là vua
nước Ma-kiệt-đề, thuộc chủng tộc mặt trăng, tên là Tần-tỳ-sa-la. Chẳng hay Thế
Tôn đã từng nghe qua chưa?
Phật liền đáp:
-Lành thay! Đại
vương
Vua Tần-tỳ-sa-la
lui xuống ngồi sang một bên. Các đại thần, Ba-la-môn và dân chúng cũng đều ngồi
xuống. Khi ấy, sau khi thấy mọi người trong phái đoàn của nhà vua đều đã an
tọa, Đức Thế Tôn liền dùng giọng Phạm âm vấn an nhà vua:
-Sức khỏe của
đại vương có được tốt không? Việc nước chắc không quá mệt nhọc phải không?
Đức vua thưa:
-Nhờ ân đức của
Thế Tôn nên con may mắn vẫn được mọi sự an ổn.
Lúc ấy vua
Tần-tỳ-sa-la và các vị Đại học sĩ Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, các vị đại thần
và nhân dân đã biết Tôn giả Ca-diếp là đệ tử của Đức Phật nên cùng bàn với
nhau:
-Thật là hay
thay! Đức Như Lai có sức thần lớn lao, trí tuệ cao sâu không thể nghĩ bàn nên
mới có thể điều phục ba anh em Ngài Ca-diếp theo làm đệ tử.
Trong chúng hội
cũng có vài người nghi ngờ, thầm nghĩ: “Ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là người có
đại trí tuệ, mọi người đều tin phục đi theo, sao lại là đệ tử của Sa-môn Cù-đàm
được?”
Đức Thế Tôn
biết được những ý nghĩ ấy liền bảo Ca-diếp:
-Nay ông nên
hiển bày sức thần biến.
Ca-diếp vâng
lời liền bay lên không trung, trên thân hiện ra nước, dưới thân hiện ra lửa,
hoặc trên thân hiện ra lửa, dưới thân hiện ra nước, hoặc hiện thân lớn đầy khắp
không trung rồi biến ra nhỏ, hoặc từ một thân biến thành vô số thân, hoặc chui
vào đất rồi vọt lên, hoặc đi đứng nằm ngồi trong không trung. Mọi người chứng
kiến khen là điều chưa từng có và đều tôn Ca-diếp là bậc Đại tiên đệ nhất. Ở
trên không biến hiện thần thông xong, Ca-diếp trở lại mặt đất, đến trước Đức
Phật đảnh lễ sát đất và thưa:
-Thế Tôn chính
là Bậc Thầy của cả trời người. Con nay chính là đệ tử của Thế Tôn.
Ca-diếp nói ba
lần như thế Phật đáp:
-Đúng thế! Đúng
thế! Ca-diếp, ông thấy trong pháp Ta có được lợi lạc gì mà bỏ hết những đồ thờ
lửa để xuất gia?
Ca-diếp liền
dùng lời kệ đáp:
Con ở trong đời trước
Nhờ công đức
thờ lửa
Được sinh cõi
trời người
Thọ hưởng vui
năm dục
Cứ thế mãi luân
hồi
Chìm trong biển
sinh tử
Con thấy tai
họa đó
Nên để dược lìa
khổ
Nương phước báo
thờ lửa
Cầu sinh cõi
trời người
Chỉ thêm tham,
sân, si
Cho nên con xa
lánh
Lại theo phước
thờ lửa
Cầu sinh trong
tương lai
Nhưng đã có
sinh rồi
Ắt có già bệnh
chết
Con đã thấy
điều ấy
Nên bỏ đạo thờ
lửa
Bố thí, tu khổ
hạnh
Và phước báo
thờ lửa
Dù được sinh
Phạm thiên
Nhưng không
phải rốt ráo
Do vì nhân
duyên ấy
Cho nên bỏ thờ
lửa
Con thấy pháp
Như Lai
Lìa sinh, lão,
bệnh, tử
Đạo giải thoát
hoàn toàn
Do đó nay xuất
gia
Như Lai, Đấng
Giải Thoát
Là Bậc Thầy
trời người
Vì nhân duyên
như thế
Nên nương theo
Thế Tôn
Như Lai đại Từ
bi
Hiện vô số
phương tiện
Và các sức thần
thông
Để dẫn con vào
đạo
Sao lại còn
bằng lòng
Đi theo đạo thờ
lửa.
Lúc bấy giờ vua
Tần-tỳ-sa-la cùng mọi người nghe lời kệ của Ca-diếp vô cùng vui mừng, càng sinh
lòng cung kính, tin tưởng tuyệt đối với Đức Phật, hiểu rõ Như Lai là Bậc Nhất
Thiết Chủng Trí, và đều biết Ca-diếp là đệ tử của Phật. Lúc ấy trong không
trung, chư Thiên rải các thứ hoa trời, tấu các thứ nhạc êm dịu và cùng xướng:
-Lành thay Tôn
giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đã khéo nói lời kệ ấy.
Đức Thế Tôn
biết mọi người đã tin tưởng chắc chắn không còn nghi ngờ, lại xem thấy căn tính
của họ đều đã thuần thục nên vì họ mà thuyết giảng:
-Đại vương nên
biết thân năm ấm này lấy thức là căn bản, do thức sinh ý căn, từ ý căn sinh ra
sắc, mà sắc thì sinh diệt không bền. Nếu đại vương quán sát được như thế thì có
thể biết rõ thân này là vô thường, quán thân là vô thường nên không chấp thủ
thân tướng và do vậy có thể lìa được chấp ngã và ngã sở. Nếu đại vương có thể
quán sắc là vô thường thì cũng có thể xa rời mọi ý niệm về ngã và ngã sở, tức
là hiểu rõ khi sắc sinh thì khổ sinh, sắc diệt thì khổ diệt. Nếu người nào quán
niệm được như thế thì gọi là Giải (cởi mở, tự tại, thoát ly...). Nếu ai
không quán niệm như thế thì gọi là Phược (trói buộc). Thực tính của các
pháp vốn vô ngã và vô ngã sở. Chúng sinh do vọng tưởng điên đảo nên chấp có ngã
và ngã sở, đó không phải là pháp chân thật. Nếu có thể đoạn trừ vọng tưởng mê
lầm, điên đảo thì được giải thoát.
Lúc ấy vua
Tần-tỳ-sa-la suy nghĩ: “Nếu bảo chúng sinh chấp có ngã là bị trói buộc, vậy nếu
tất cả chúng sinh đều vô ngã thì ai sẽ thọ quả báo?” Đức Thế Tôn biết những
thắc mắc trong lòng vua liền nói:
-Tất cả những
việc thiện ác mà chúng sinh làm cũng như những quả báo mà chúng sinh thọ nhận
đều không phải do ngã tạo ra, cũng không phải ngã thọ nhận, nhưng trong hiện
tại lại thấy có tạo ra thiện ác và có thọ quả báo. Đại vương nên lắng nghe thật
kỹ, Ta sẽ vì đại vương mà giảng rõ. Chỉ vì căn, trần, thức hợp với nhau khởi
sinh nhiễm cảnh, tích lũy những ý tưởng ngày càng nhiều, chính do đó mà chúng
sinh mãi chạy theo dòng sinh tử, chịu mọi quả báo khổ đau. Nếu không nhiễm
cảnh, dừng lại những tâm tưởng ràng buộc thì được giải thoát. Do căn, trần,
thức ba nhân duyên ấy hợp lại mà có thiện ác và thọ quả báo, bản chất của chúng
là không có ngã riêng (tính chủ thể, độc lập, riêng biệt). Thí như dùi
cây để lấy lửa, do tay xoay miếng gỗ mà có lửa nhưng tính của lửa không phải từ
tay hay từ gỗ mà có, cũng không lìa tay và mảnh gỗ mà có. Căn, trần, thức cũng
như thế.
Khi ấy vua
Tần-tỳ-sa-la lại nghĩ: “Nếu do căn, trần, thức hòa hợp mà có thiện ác cũng như
có thọ quả báo thì chúng phải thường hợp lại với nhau, không thể xa rời nhau.
Nếu chúng không thường hợp lại với nhau thì sẽ bị đoạn diệt”. Thế Tôn biết ý
nghĩ ấy của vua nên giảng tiếp:
-Căn, trần,
thức ấy không thường còn, cũng không đoạn diệt. Vì sao? Vì chúng hòa hợp với
nhau nên không đoạn diệt, vì chúng có đặc tính riêng nên không thường còn. Ví
như hạt giống là do nhân, do có duyên của đất, nước nên mầm lá mới sinh ra. Hạt
giống sẽ mục nát nên không gọi là thường, nhưng do hạt giống có đặc tính sinh
trưởng thành mầm lá nên không thể gọi là đoạn. Lìa cả khái niệm thường và đoạn
được gọi là Trung đạo. Căn, trần, thức cũng như vậy.
Vua nghe xong
bài pháp, tâm ý khai mở, tỉnh ngộ, nhờ đó xa lìa mọi trần cấu, đắc pháp nhãn
thanh tịnh. Tám vạn na-do-tha Bà-la-môn, đại thần và nhân dân cũng nhờ nghe
pháp mà được xa lìa trần câu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Chín mươi sáu vạn
na-do-tha chư Thiên cũng nhờ nghe pháp mà xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn thanh
tịnh. Vua Tần-tỳ-sa-la từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính lễ xuống chân Phật rồi
chắp tay thưa:
-Vui sướng
thay! Đức Thế Tôn đã lìa bỏ ngôi Chuyển luân thánh vương xuất gia học đạo,
thành Bậc Nhất Thiết Chủng Trí. Trước kia con đã ngu si muốn giữ Thế Tôn lại để
cai trị một nước nhỏ. Nay được diện kiến Đức Đại Từ, lại được nghe chánh pháp
nên rất hổ thẹn về lỗi đã qua, kính xin Thế Tôn mở lòng từ bi nhận cho con sám
hốì. Ngày trước con có nguyện xin nếu Phật đắc đạo thì độ con trước, nay ước
nguyện đã thành tựu, nhờ ân Thế Tôn mà con đã thấy được chân lý. Từ nay con
nguyện cúng dường đầy đủ tứ sự cho Thế Tôn và chư Tăng, không để thiếu thốn,
cúi mong Đức Thế Tôn ở lại vườn Trúc để nước Ma-kiệt-đề mãi mãi an vui.
Phật đáp:
-Quý hóa thay!
Đại vương có thể xa rời pháp tam bất kiên để cầu quả tam kiên, Ta nay chấp
thuận để vua được tròn đầy tâm nguyện.
Vua Tần-tỳ-sa-la biết Phật đã chấp thuận lời thỉnh của mình đến ở trong vườn Trúc nên