Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 3

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 10270)
Quyển 3


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN III

Phẩm 8: ĐỒNG CHƠN

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Bồ tát trụ ở bát địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát trụ ở bát địa luôn phải đầy đủ tuệ thần thông quán sát căn tánh của chúng sanh, quán chí hướng của họ mà vì họ thị hiện, lại dùng thần thông dạo đến các cõi Phật quán sát các hạnh vi diệu thù thắng của chư Phật, trở về tự trang nghiêm cõi Phật của mình, tự đến nơi tôn thờ lễ kính chư Phật, quán thân tướng của Phật là Không, vô sở hữu, học tập biết nhẫn nhục, phân biệt các căn, luôn trụ trong chánh định như ảo, tâm ý an định, biết rõ pháp Bổn vô. Các công đức đã tạo theo thân khí lúc trước, mỗi mỗi đều theo chỗ tu tập của mình mà đều thành tựu. Bồ táttu tập quá Không, vô tướng, vô nguyện nên không có hình tượng, vượt qua ba cõi vĩnh viễn không bị chúng buộc ràng, tuệ vô sở niệm không có sanh diệt. Do vô sở sanh nên gọi là Tuệ. Làm mà không thấy làm cũng không tạo tác, đó gọi là Tuệ. Ở trong chỗ vô hạn, đều không dừng trụ cũng không có trụ xứ. Vì tuệ thanh tịnh nên không nương tựa vào thức. Vì sao như vậy? Do không tưởng niệm nên tuệ không giới hạn, dùng sức phương tiện không dừng tham dục, cũng không trụ sắc hay vô sắc. Tuy ở chỗ cấu nhiễm mà không bị nhiễm trước. Này Tối Thắng, đó gọi là đại trí, xa lìa dâm, nộ, si không có ngu mê, vĩnh viễngiải thoát mà không hạn lượng, không ràng buộc, không đoạn dứt, trừ bỏ mười hai duyên mà vô minh là pháp căn bổn, không thấy ngô ngã, không trụ tham dục biết rõ chúng là một, không tưởng cầu sắc, nghĩ đang trụ trong tất cả sắc. Đó gọi là nghiệp của đệ bát Bồ tát. Bồ tát trọn không tùy duyên, không có họa hoạn phiền não, không cùng với si, không hữu vi cũng không phải không hữu vi, không cầu phước nhưng chẳng phải không có công đứcBồ tát đã vượt qua các ác và các sự phi pháp cho nên như thế. Pháp tánh thường trụ, Bồ tát không thấy có kẻ ngu làm điều phi pháp, trong thân, tâm thức của Bồ tát không cảm thấy sầu lo, ý không loạn tưởng dong ruổi theo niệm khác. Này Tối Thắng, đó gọi là Tuệ. Bồ tát phân biệt quán Không, liễu tri vô sanh, đoạn diệt tâm chấp thường không để nó phát khởi; phòng hộ sáu giác quan trọn không để tà dấy khởi, thệ nguyện cao xa không có giới hạn, tu nghiệp đồng chơn mà không sai thứ lớp. Nếu thấy có người lui sụt nơi xuống địa dưới thì liền dụ dẫn khuyến tấn khiến họ tăng thượng trở lại. Bậc tuân phụng pháp không rời bỏ luật bổn đã tu của chư Phật thân tâm hỷ lạc không gì vui bằng, phát triển tâm lạc đạo không rời Pháp thân, không xa Thánh chúng, không có trói mở. Lại phải tu tập pháp của đạo lẫn thế tục. Vì nương pháp tánh nên không đoạn các học xứ, cẩn thận giữ gìn cấm giới. Do gốc thanh tịnh nên không thể tận. Biết rõ đang ở trong sanh tử đều có lúc tận. Chúng sanh lưu chuyển trong năm đường xoay vần qua lại cũng không chịu dừng. Bồ tát biết rõ trụ nơi vô thường rồi cũng sẽ tận diệt. Ngoại đạo dị học tuy đạt ngũ thông nhưng không rời trí thế gian, chỉ mong cầu sống lâu, về sau mất thần túc thì cũng mạng chung liền trở lại sanh tử. Hoặc có chúng sanh siêng năng tu tập pháp Ngũ giới, Thập thiện được sanh vào cõi người, cõi trời; ở cõi trời Dục tinh cần tu tập Ngũ giới tự nhiên đạt được đầy đủ công đức. Hoặc có chúng sanh ở cõi Sắc giới tu học Không định, lấy niệm hỷ lạc làm thức ăn, không nhớ đến gốc khổ. Hoặc có chúng sanh tâm thức trong lành mong cầu giải thoát, tự nghĩ đã đạt được Niết bàn vô tướng vĩnh viễn tịch tĩnh. Bọn họ đều tự tu tập không đạt đến chỗ diệt độ rốt ráo. Bồ tát ở địa thứ tám quán rõ các chỗ đó nên không nhiễm trước, luôn tuyên giảng pháp khuyến tấn người học đạo khiến họ xa lìa các cách tu tập trên.

Tối Thắng nên biết, đạo nghiệp đồng chơn cũng phải lánh xa đạo Nhị thừa, từ Tu đà hoàn đến Bích chi Phật đều có sự bất toàn. Bồ tát trọn không niệm pháp La hán. Vì sao? Vì chỗ dụng tâm của Nhị thừa nương tựa vào đạo Niết bàn. Bồ tát không học cách tu của hàng Duyên giácphát tâm của hàng Duyên giác không phải là tâm đại bi. Người học đạo như thế đều chẳng phải chơn chánh. Nếu có Bồ tát muốn giải thoát rốt ráo thì nên tu học đại trí tuệ, biết rõ gốc ngọn các pháp không thể tận cùng, nguyện không rời bỏ tất cả chúng sanh, tu pháp Như Lai là tánh bất diệt. Do trí tuệ vô cùng bất khả kiến nên đạo quả đúng thời liền được thành tựu. Các lời Bồ tát nói đều đúng như thật với tâm hoằng thệ nguyện đã phát. Với pháp mười lực, mười tám pháp bất cộng thù thắng, Bồ tát cũng không tư lự nghĩ suy cũng không thể cùng tận. Bậc đệ bát Bồ tát khi du hóa giữ gìn tâm ý, thực hành nhẫn nhục không thể nghĩ bàn; tâm không nghĩ điều quấy, không có các niệm ác. Bồ tát không có tâm sân hận đối với chúng sanh cũng không khởi tâm cạnh tranh với người khác, không hướng dẫn người đến chỗ bại hoại, cẩn thận hộ trì thân khẩu, không phạm dối trá, hộ trì chúng sanh, tự mình cẩn thận tu tập pháp bổn. Bồ tát không theo các bộ phái tà quấy, luôn tư duy thiện nghiệp, không có tâm ái dục nên có thể trang nghiêm thân như thân tướng của Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Tối Thắng:

- Bồ tát tu hạnh đồng chơn luôn phải tu tập âm hưởng nghĩa cú. Thế nào là nghĩa âm hưởng của Bồ tát? Lúc đó Bồ tát biết các pháp là Không, không nhiễm các kiến, tư duy vô tướng, không khởi loạn niệm, phân biệt vô nguyện, vĩnh viễn xa rời tam hữu. Với pháp không dâm dục, bổn tánh tự tịnh, không khởi niệm sân nộ, khiến chúng vĩnh viễn không khởi sanh. Quán rõ vô minh không chút mê mờ. Lại phải tư duy pháp tương lai, quá khứ, hiện tại đều không khởi các pháp tự nhiên, không thấy khởi diệt, không thấy sanh tử, không bị báo ứng, tin tưởng làm việc thiện hay ác biết rõ chắc chắnquả báo, tu khẩu nghiệp thanh tịnh không nói lời dối trá. Tâm Bồ tát thông suốt, tu tập không vọng động, các việc đã làm đều thù thắng không bỏ sót pháp nào, luôn tự tư duy các pháp như mộng ảo. Giả sử có tà niệm liền tự biết rõ, chí tánh nhu hòa, giữ gìn tâm ý khiến không sanh khởi điều ác. Bồ tát luôn sanh vào nhà bậc sĩ phu thanh tịnh chơn chánh. Giả sử ở tại nhân gian thì đầy đủ các đức, có tám mươi tướng đẹp, âm thanh tuyệt diệu của chim phượng. Bồ tát không có tâm trang điểm mà vẫn đẹp vi diệu như Phạm Thiên, trừ tâm dâm, nộ, si không còn sầu muộn, hoàn toàn không có nét mặt khó chịu sân hận đối với người khác, công đức đã tạo chưa từng quên mất, tùy theo pháp căn bổn nên đại vĩnh viễn an lạc, luôn dùng pháp ngữ khuyến tấn chúng sanh, hàng phục ngoại đạo tà học dị thuật. Do Bồ tát rời xa khổ não nên không còn bị nạn nguy hiểm, đã có đầy đủ pháp của chư Phật. Đối với mọi người, Bồ tát luôn nhẫn nhục, thân tâm chí mật, hiện tại bị mắng chửi nhưng vẫn điềm nhiên không báo oàn. Nếu bị chúng sanh đánh đập vẫn không có niệm oán hận, cũng như đất bằng bao dung thọ nhận vạn vật trọn không thức tưởng tăng giảm ý. Vì sao? Đó là do pháp tánh từ xưa đến nay vốn Không. Giả sử có kẻ có tâm phẫn nộ thì Bồ tát hoàn toàn không hận, nhìn thấy rõ mặt giận dữ của người như ảo như hóa nên không khởi tâm đối nghịch hướng về người. Nếu người có niệm ác, Bồ tát giả vờ như không biết, tự mình tư duy: “Ta nay quán suy chân lý biết là Không, trong tương lai không xa lìa, không khởi duyên này. Người này trước đây có tâm giận dữ, ta nên thận trọng với tâm ấy”. Giả sử có người đến khen ngợi, Bồ tát cũng không vì thế mà vui mừng. Nếu bị người đánh đập cũng không sầu não. Vì sao? Vì Bồ tát không thấy có thân mình và sự đau đớn do gậy gộc của người đánh đập. Tất cả đều do Bồ tát đã tích tập công hạnh hàng phục tâm ý. Bồ tát ở nơi nhàn tĩnh, quán xét nội thân phải chịu sanh, già, bệnh, chết, vô thường, khổ đau, sầu lo phiền muộn, các nạn khủng bố, đói khát, nóng lạnh; lại quán sát thân này bại hoại, là pháp vô thường. Thân này là vật chứa đựng các khổ não, là nơi tật bệnh tích tụ. Thân này như hư không, khi chết trả về gốc tứ đại. Thân này là vô ngã, vô sanh, vô diệt. Chúng sanh trong ba cõi mãi bị trôi nổi chìm đắm trong dòng ái dục, không có khi nào dừng nghỉ, trước phải chế tâm không để nó khởi nhiều vọng tưởng. Lại phải suy tư về nguồn gốc của dòng ái dục. Chúng sanh ở trong ba cõi xúc chạm với sanh tử nên không ngừng thọ thân. Bồ tát lại phải tư duy về dòng tà kiến. Chúng sanh ngu si, theo điên đảo chấp vào sáu mươi hai kiến mê lầm của thế gian. Bồ tát suy tư về vô minh lưu, thấy rõ chúng sanh trong ba cõi si mê không hiểu biết, không biết chơn đạo, cho bất tịnh là tịnh, trở lại theo dòng thác dục, cho khổ là lạc, cho vô thường là thường, cho phi thân (vô ngã) là thân (ngã). Không suy tư trừ bỏ tham trọc mà tự thân buông thả ngày đêm không tu tập, đến già vẫn không ngừng dâm dục. Có tiền của không bố thí. Không nghe lời Phật dạy. Đó gọi là bốn pháp hiểm nguy làm tăng thêm gốc ái, ý suy nghĩ, thân hành động cùng duyên các nhập.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát trụ trong định tịch tĩnhquán niệm, bỏ ác trừ dục bất thiện đó, theo lời dạy của chư Hiền Thánh không có tâm khổ vui, tu tập thấu đạt nghĩa lý sâu xa của Tứ đế, chứng ngộ sanh là khổ, ái là nguồn cội khổ, thanh tịnh là tận, tu tập Đạo để vượt qua khổ. Khi có họa hoạn áp bức thân này, Bồ tát tuyệt nhiên không thể khởi tâm tham, thẩm suy nguồn gốc từ đâu có sanh, theo bổn tánh quán niệm pháp đó liền biết nguồn gốc của khổ từ thân sanh, do nhân ái Tập sanh, ái diệt thì chứng Tận, vô dục thì thành tựu Đạo. Bồ tát luôn có tâm từ mẫn, không có niệm hại, nuôi lớn đạo tâm, thương xót giáo hóa chúng sanh đau khổ, khuyên họ sanh tử là khổ cần phải nhổ tận. Nét mặt Bồ tát luôn hòa nhã hoan hỷ đối với chúng sanh mê mờ, khuyên dạy chúng sanh khiến họ phát tâm đạo. Lời nói (của Bồ tát) luôn trôi chảy, sâu sắc, không ngập ngừng, biết tướng các pháp, nghĩa của chơn lý, thông dạt hoàn toàn các pháp, tùy thời mà nhập. Nếu có người tìm đến vấn nạn, Bồ tát theo căn cơ của họ mà ứng đối không trở ngại. Khi Bồ tát trả lời, từ ngữ không sai loạn. Tâm Bồ tát luôn từ hòa, thương yêu tất cả chúng sanh, nhớ nghĩ tất cả loại chúng sanh hữu tình không tránh khỏi sự đau đớn của bệnh tật, suy hao nên vì họ mà giả bày phương tiện mong họ được giải thoát. Bồ tát lại khởi tâm bi mẫn đồng cảm với tất cả chúng sanh đang ở trong hoạn nạn đói khát, nóng lạnh, được mất, không cách nào thoát khỏi tội nạn nên suy tư pháp phương tiện khéo léo mong làm cho họ được an vui. Bồ tát lại dùng tâm hỷ nghĩ đến các thế gian, thấy đều có nạn lo sợ khổ não: “Ta phải dùng phương cách khiến họ được an ổn”. Bồ tát luôn có tâm thủ hộ, nguyện độ những kẻ sanh trong tám nạnba cõi, ngu si, mê mờ không thấy chánh đạo; suy tư mong muốn độ cho họ được giải thoát. Tâm thương yêu chúng sanh của Bồ tát không lay động, tuy thực hành pháp đó mà tâm ý không nhiễm trước, không vì khuyến khổ mà sanh tâm niệm thoái chuyển, luôn ngưỡng cầu đạo Vô thượng chánh chơn. Bồ tát đối với trí tuệ thông đạt không nhàm chán, cho là đủ. Nếu ở trong chỗ đờn ca xướng hát năm dục lạc, Bồ tát cũng không sanh tâm hoan hỷ, thấy rõ các pháp thế tục đều là ảo hóa, tất cả vạn vật đều trở về với vô thường, không bị tám pháp sở kiến làm điên đảo rối loạn tâm, luôn xa lìa như tránh lửa hừng, không ở trong đó bị người làm não loạn. Nếu có người có tâm giận dữ hướng về Bồ tát thì hoàn toàn không thể hại được dù chỉ nhỏ như một sợi lông. Được người tôn kính, Bồ tát cũng không dám phạm. Giả sử có người muốn hại Bồ tát, Bồ táttừ bỏ vô số thân ở các nơi khác nhau cũng đều có thể nhẫn nhục, không sanh loạn tưởng. Do mong được đầy đủ hạnh đồng chơn, Bồ tát lại quán pháp của thân tâm hợp thành, tan hoại, có gì để tham chấp mà xem nó như vật báu. Theo duyên tu tập đó thì kết quả chắc chắn đạt được thân Phật, ắt hẳn đạt được bí tạng của Như Lai, phát thệ nguyện lớn, nguồn cội của đạo giải thoát cứu cánh. Bồ tát tu tập phương tiện quyền xảo biến hóa vô cùng. Nếu ở trong chốn ngoại đạo dị học thì hiện thân đi vào lửa nằm ngồi tự tại, lại từ trong lửa đứng dậy mà không bị lửa làm hại rồi dạy cho bọn họ biết có đạo chơn chánh. Tâm họ tự hối cải, tu hạnh thanh tịnh. Bồ tát giáo hóa kẻ có tâm ngu mê khiến họ phản tỉnh quy chơn. Từ thân sanh Thiên, Bồ tát giảng pháp cho chư Thiên hiểu rõ địa vị cõi trời cũng phải suy hoại. Với pháp phương tiện quyền xảo, không pháp nào Bồ tát không thông tỏ. Tứ Thiên vương Thích, Phạm đều tự quy kính đảnh lễ. Đó là do Bồ tát tích tập công hạnh nên có đạo đức thù thắng siêu việt, hàng nhị thừa không thể sánh bằng. Trí tuệ thông đạt đồng chơn của Bồ tát cũng không có giới hạn, tâm niệm rộng lớn không có hạn lượng. Lời Bồ tát nói ra đều có ích lợi không làm tổn hại ai dù chỉ nhỏ như sợi lông. Vì vậy nên trí tuệ của Bồ tát không thể cùng tận, phân biệt rõ ràng rành mạch pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; biết rõ chúng là Không, không có sở hữu. Bồ tát đã thông đạt nhẫn tuệ nên đạt được tất cả trí tuệ, không nghĩ tất cả pháp là thường hay vô thường, suy tư liền được thể nhập trí tuệ vô cực. Nếu cùng âm thanh của tiền nhân qua lại, Bồ tát tư duy lời dạy như tiếng vang trong núi. Hiểu rõ được điều đó thì gọi là quyền tuệ. Bồ tát cũng quán sát pháp tánh không của hữu vi, vô vi. Chơn lý vắng lặng như hư không, giả đặt nên có tên gọi là “tai”. Bồ tát không nhớ nghĩ tự thân đã đạt đạo quả, những kẻ hạ liệt không thể theo kịp; cũng không tự nghĩ đã tu hành giới luật, tôn thờ giáo pháp, hoàn toàn không khởi ý nghĩ suy vô số niệm. Đó gọi là quyền tuệ đồng chơn không biên tế. Trong khi tu tập hòa nhẫn, không nhẫn, đảnh nhẫn, bất thoái chuyển nhẫn, Bồ tát như thật quán sát không hư vọng, tu Tam ma địa, không trụ Bổn không, không niệm kiên thật, không nghĩ quán tưởng, không niệm hữu tưởng, cũng không mong cầu khởi nguyện tưởng. Pháp giớinhất tướng cũng không hình mạo, tư duy sanh tử không có thỉ chung, không bố thí vì không có pháp bố thí; không thấy quá khứ, tương lai, hiện tại xoay vần qua lại, đều không chơn thật. Quá khứ đã diệt, hiện tại không trụ, tương lai không sanh, có đức không thấy có đức, không đức không thấy có đức, không phải có đức, chẳng phải không có đức, chẳng phải chẳng có vô đức; liễu tri hữu đức, vô đức đều vắng lặng không tịch. Không có tên gọi sanh diệt, trước đoạn. Bồ tát lại quán vô sanh thì thấy không có chỗ sanh, không thấy vô sanh, phân biệt hữu sanh cùng với vô sanh đều hư ảo, không phải thật là một cũng không phải là hai, không thấy có chứng đạo quả độ thế gian, cũng không thấy văn tự ngôn giáo phần đầu, phần giữa, phần cuối; không thấy có giải tán không hợp với thế tục, lại kh«ng thấy có tụ họp đồng với thế tục cùng lưu chuyển.

Như vậy, này Tối Thắng, pháp tu đồng chơn là pháp sâu xa khó lường, không thể nghĩ bàn, không pháp nào có thể sánh. Không thấy đạo nhẫn hợp cùng trí nhẫn, không thấy trí nhẫn hợp cùng đạo nhẫn, cũng không phải không hợp. Không thấy vô đạo hợp cùng vô trí, không thấy vô trí hợp cùng vô đạo, đạo nhẫn và đạo tự chúng không cùng hợp, chẳng phải không có hợp cũng không phải không hợp. Vì sao? Vì tánh tự nhiên. Tối Thắng nên biết, thế gian có hai pháp khiến kẻ tân học có tư tưởng hồ nghi. Hai pháp khiến khởi nghi ngờ đó là gì? Đối với Bồ tát tu trăm ngàn pháp nương tựa vào Nê hoàn cho là đã giải thoát, người tu tập như thế thì có tổn giảm. Hoặc có Bồ tát biết tánh Nê hoàn mãi mãi là giải thaots nên không khởi tâm thi thiết nhiễm trước sanh tử, không theo, không lìa, biết rõ là một chứ không phải vô số tên gọi từng phần. Bồ tát tuệ nhẫn trọn không sanh tâm nhưng phân biệt có pháp Đại thừa bình đẳng này, pháp Đại thừa bình đẳng kia. Vị ấy thể nhập ngộ được Không tuệ, không chấp trước, không dứt đoạn, không bị nhiễm ô thì mới gọi là bình đẳng. Tánh bình đẳng quán rõ không buộc, không mở, vì vô sở tạo nên vô sở sanh. Bậc không thấy tự nhiênsanh diệt, bậc giải thoát như vậy mới gọi là tự nhiên. Không thấy tự nhiên, không thấy vô nhiên, thông đạt tự nhiên đều vô sở hữu, đó gọi là thanh tịnh, là diệt nhiên.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát tích tập công hạnh, trí tuệ vô cùng cực, tu tập vô sanh tuệ không thể tận. Từ lúc đầu học đạo tích tập công đức đến khi tới đạo tràng, ngồi dưới cội Phật thọ hàng phục ma oán thành đạo vô thượng, Bồ tát trước phải thể nhập tâm định nhẫn tuệ này, sau đó mới nhập Sư tử phấn tấn độc bộ tam muội, phóng ánh sáng lửa lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên cõi nước. Người thấy ánh sáng này đều thông đạt nhẫn tuệ, tâm thức liền nhu hòa không cương bạo, luôn dùng tâm từ mẫn nhiếp trì thân, khẩu, ý; ngôn giáo thanh tịnh trọn không tổn giảm, hiểu rõ pháp vô vi, tôn kính Phật đạo, tâm chí trụ trong chánh định không loạn tưởng, đối với người khác luôn khiêm hạ không kiêu mạn, đạo quả công đức mỗi ngày thêm lớn, triền kết oán ác, vĩnh viễn không còn mầm rễ. Đến tận các cõi Phật phương khác, chúng sanh đều cảm ứng biết được ánh sáng oai thần của Bồ tát giáo hóa chúng sanh, không ai không được độ. Bồ tát quán sát ánh sáng ấy hoàn toàn vô sở hữu, phân biệt tướng mạo cũng không phải chơn thật. Bồ tát lại phải phân biệt tướng trạng khởi lên của sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức. Quán thông đạt tướng của năm ấm như thế nào? Thấy có ánh sáng thì gọi là sắc, có hình chất cũng gọi là sắc, nhận lãnh giao phó cho nhau cũng là sắc, hộ trì tự thân cũng là sắc, nếu cho người khác cũng là sắc. Sau đó Bồ tát phải liễu tri sự khởi diệt của thống (thọ), do duyên gì mà có thống (thọ) đó? Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ, Bồ tát luôn nghĩ nhớ phân biệt mà không khổ lạc, huống chi đang nhập định mà có thọ thì điều đó là không thể có. Thấy rõ nó chính là tướng của thọ, những pháp nhớ kỹ đã qua thì trôi nổi dong ruổi không ngừng, niệm khởi lên tìm kiếm nhớ lại những pháp của quá khứ, hiện tại hay tương lai, nam hay nữ và vô số hạn lượng các pháp khác gọi là tư tưởng. Bồ tát biết rõ tưởng đó không đến, không đi cũng không có nơi chốn, hư ảo không thật cũng không có danh hiệu cho nên gọi là tư tưởng. Như khi thấy làm việc thiện ác, hữu ký hay vô ký, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, có chỗ tạo tác không bị chướng ngại, khi đó Bồ tát thấy việc làm thiện chẳng phải là không thiện, thấy việc làm ác chẳng phải là không ác. Lại nữa, có khi cũng không làm thiện, cũng không làm ác. Này Tối Thắng, đó gọi là hành. Bồ tát lại phải quán thấy rõ nguyên nhân nào mà có thức. Thức chẳng phải là một tướng. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng gọi là thức. Pháp sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc) cũng gọi là thức. Thông đạt pháp hưng suy của xúc cũng gọi là thức. Ở trong tư tưởng cũng gọi là thức, rời khỏi tư tưởng cũng gọi là thức. Có thiện, có ác cũng gọi là thức; không thiện, không ác cũng gọi là thức; chẳng phải có thiện, chẳng phải không thiện cũng gọi là thức. Bồ tát biết rõ thức từ đâu sanh và từ đâu diệt, biết rõ nó là vô sanh cũng không có khởi diệt. Thông đạt pháp này chính là thức.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát đồng chơn xả bỏ thân đã thọ, ngay lúc đó thân căn ý thức của Bồ tát không loạn, không thọ thân trung ấm mà chịu khổ nạn. Chúng sanh khi chết thần thức trụ trong thân trung ấm, theo gốc tội phước nặng nhẹ mà chịu nạn. Bậc Bồ tát Đại sĩ trong khoảnh khắc phát tâm, theo hướng đã phát nguyện liền đến thọ hình mà không chịu khổ nạn. Tối Thắng nên biết, bậc đồng chơn Bồ tát luôn cùng với bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ tát là bạn hữu, theo hầu dạo xem cõi Phật thanh tịnh, chọn lựa cõi Phật cực diệu tối thượng, phát tâm dõng mãnh ưa thích bố thí, làm Phật sự. Bậc đệ bát Bồ tát đắc được tự tại, theo nhân duyên đó giáo hóa tất cả các nơi, tuyên nói các pháp không cùng tận, luôn khéo léo giảng dạy làm vui chúng sanh.

Khi đó các Bồ tát trong chúng hội, mỗi vị đều tự nghĩ: “Hôm nay Đức Như lai tuyên giảng tuệ nghiệp, khen ngợi hạnh đồng chơn, quả báo công đức không gì sánh bằng. Nay quán chỗ tu tập của Bồ tát Tối Thắng với nghiệp đồng chơn cũng không trái nghịch. Nếu ngài Tối Thắng thành đạo Tối Chánh Giác vô thượng thì khi đắc Phật đạo sẽ có danh hiệu gì? Cõi Phật của ngài công đức trang nghiêm thanh tịnh như thế nào? Chúng Bồ tát thành tựu ra sao? Tôn kính tu tập pháp luậtsai biệt không?”. Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm của chúng Bồ tát trong hội, ngay lúc đó liền ở trên tòa ngồi mỉm cười. Từ miệng Phật phát ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng chiếu khắp mười phương vô hạn thế giới, che mờ ánh sáng của mặt trời mặt trăng, làm ẩn khuất cung điện của ma. Ánh sáng đó trở lại nhiễu quanh Phật vô số vòng rồi nhập vào đỉnh đầu của Phật. Lúc ấy các Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y bày vai phải, chắp tay lễ Phật hỏi về ý nghĩa Phật mỉm cười. Đức Phật không cười mà không có lý do, tất cả đều mong muốn nghe lời dạy của Phật. Bấy giờ Thế Tôn bảo chúng hội:

- Các vị có thấy vị Bồ tát Tối Thắng này không?

Các Bồ tát thưa:

- Vâng! Chúng con đã thấy.

Đức Phật bảo các Bồ tát trong pháp hội:

- Trong Hiền kiếp này, sau khi một trăm Đức Phật nhập diệt sẽ có Đức Phật hiện ở đời hiệu là Sư Tử Oai. Đức Như Lai ấy xuất hiện ở đời là Bậc Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước tên là Như Kim Vô Dị. Lúc ấy quang cảnh của cõi Phật đó vô cùng thần diệu, ngũ cốc tự nhiên mọc đầy, không phải mua bán. Nhân dân sung túc, thành quách nghiêm trang tề chỉnh, đều làm bẳng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và ngọc ma ni. Cõi Phật đó bằng phẳng, có tám đường giao nhau đều do các báu làm thành. Đất mềm mại như y mịn cõi trời. Gióng như cõi trời Đâu Thuật, y phục, thức ăn uống, cung điện, nhà cửa, vườn hoa, ao tắm, đường sá, lầu gác đều cao ngất vi diệu thù thắng. Cõi nước của Đức Phật ấy có oai thần công đức như thế. Chư Thiên tự nhiên hiện ra đờn ca khảy nhạc réo rắt, dựng lên một tràng phan tên là Hương vũ bảo diệu hoa, che khắp đại chúng, bảo hộ Chánh pháp không thiếu mất, hướng dẫn làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Nay vị Bồ tát Tối Thắng này từ cõi này diệt độ sẽ sanh vào thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Nộ. Khi Bồ tát Tối Thắng sanh vào thế giới đó, Đức Phật Vô Nộ vì các Bồ tát tuyên nói tám ngàn bốn trăm pháp môn vi diệu đặc thù, xiển dương đạo giáo quy về một cú nghĩa, xoay vần luân chuyển không dứt đoạn Tam bảo, khiến cho tất cả chúng sanh an lập tâm bất thoái chuyển.

Khi Đức Phật nói xong, các vị trong pháp hội đều khen ngợi:

- Lành thay! Lành thay! Bồ tát Tối Thắng thành Phật sao nhanh như vậy? Nguyện ở đời tương lai, chúng con được sanh vào cõi Phật đó được gặp Đức Sư Tử Như Lai xuất hiện ở đời, được nghe dạy đạo giáo tu tập hạnh đồng chơn như ngài Tối Thắng.

Bấy giờ các Bồ tát trong hội tự lặp lại, nói:

- Nguyện cho tất cả chúng sanh đều đạt được pháp Tuệ nhẫn trí giống như chúng con hiện nay nghe pháp này không có tâm sợ hãi, không có tâm do dự.

Lúc đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát tu hành tích tập đầy đủ các đức, hiển bày vô lượng ngôn giáo thù thắng, đúng thời thị hiện, không pháp nào không thể nhập. Hoặc hiện làm thân phàm tục người già cô đơn, hoặc làm thân trẻ em. Lại dùng quyền biến đi vào bốn đạo cùng bậc đã chứng Tu đà hoàn kết bạn, nói pháp thượng thừa khiến vị ấy không giải đãi. Lại dùng phương tiện đến chỗ các vị Tư đà hàm khuyến tấn khiến họ đoạn trừ năm thứ nạn tai, có thể đắc đạo mà không phải trải qua bảy lần sanh trở lại. Hoặc ở cõi trời giảng pháp cam lộ cho các vị công hạnh thuần thục không trở lại thế gian. Hoặc ở cùng hội với các bậc chơn nhân vô cấu, vì các vị ấy giảng sáu mươi tám pháp khổ của thân, khiến họ tựt hấy hạnh tu đó là nhỏ hẹp chẳng phải đạo vô thượng, tự mất trí tuệ sáng, làm tổn hoại kinh pháp. Hoặc thị hiện chứng đạo Bích chi Phật, hiển bày mười tám pháp thần biến, lặng lẽ chỉ dạy khiến họ được giải thoát; trong tâm dùng quyền tuệ hợp với tâm người; tùy duyên cho thuốc khiến các vị ấy không có tâm tăng giảm. Hoặc cùng với chúng tân học mới phát đạo tâm, tu tập định hanh tịnh, làm cho chúng sanh đều thấy sắc thân và có thể khiến ba ngàn đại thiên cõi Phật ở trong lòng bàn tay, chúng sanh trong đó cùng nhau cúng dường, qua lại mà không có tâm tăng giảm.

Bấy giờ có vị Bồ tát tên Cứu Sướng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay ở trước Đức Phật thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn, tam muội chánh định ấy có tên là gì mà có thể khiến ba ngàn đại thiên cõi nước, cảnh giới mười phương đều ở trong lòng bàn tay, chúng sanh ở trong đó khởi tâm cung kính cúng dường mà không có tâm tăng giảm?

Đức Phật bảo Bồ tát Cứu Sướng:

- Tên của tam muội chánh định đó là Thanh tịnh. Tất cả chúng sanh đều thấy sắc thân hiển hiện biến hóa không có gì không dung nạp, nhưng quốc độ cảnh giới vẫn như cũ không khác cũng không tăng giảm. Giả sử ba ngàn đại thiên cõi nước và hằng hà sa vô lượng cõi Phật đều ở trong lòng bàn tay, chúng sanh trong đó cùng nhau thờ phụng, bố thí, làm việc phước; nằm, ngồi, kinh hành tùy theo ý muốn mà mỗi người đều không biết nhau, chỗ thân mình đang trụ có bị dời đổi hay không. Cứu Sướng nên biết, đó đều là sức oai thần do công đức bố thí của Bồ tát đồng chơn tạo ra. Chúng sanh ở ngay chỗ hiện hóa cũng không thấy thân, ngay cả chúng sanh đang ở trong đó cũng khiến họ không có tâm tăng giảm.

Lúc đó các chúng ngồi trong pháp hội: trời, rồng, quỷ, thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chơn đà la, Ma hưu lặc, nhân và phi nhân, mỗi chúng đều tự khởi ý nghĩ muốn Bồ tát Tối Thắng thị hiện sức oai thần của tâm định ý thanh tịnh. Đức Thế Tôn biết tâm chúng hội đều mong muốn như vậy, liền bảo Bồ tát Tối Thắng:

- Này Tối Thắng, ông nay nên vì tất cả chúng sanh và các vị trong chúng hội hiển bày tam muội thanh tịnh định ý để các vị ấy có thêm tín tâm.

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng tuân theo lời dạy, nương sức oai thần của Đức Phật, liền ở trên tòa nhập chánh định tam muội khiến mười phương vô số cõi nước, trời, rồng, nhân dân, các quỷ thần vương cùng quyến thuộc của chư Thiên, Bồ tát hữu hình trong hội đều hiện trong lòng bàn tay; hiển bày các vị ở trong đó có vị thiền định, có vị kinh hãi, có vị khởi công đức làm Phật sự. Các việc hiện ra đều đặc thù, vi diệu khó gì có thể sánh bằng, không gì có thể ví dụ so sánh. Hiện thần túc xong, tất cả các vị trong pháp hộimười phương tới đều trở về chỗ cũ như trước không khác. Bồ tát Tối Thắng cũng vẫn ngồi trên tòa, y phục trang nghiêm tề chỉnh, không mất oai nghi.

Khi ấy Bồ tát Cứu Sướng nói với ngài Tối Thắng:

- Sức oai thần tam muội của Bồ tát hiển bàycông đức siêu việt vô hạn lượng, hiển thị sức cảm ứng oai thần thật không có gì sánh bằng mới có thể dung nạp mười phương thế giới ở trong lòng bàn tay phải mà các thế giới không tăng, không giảm. Chúng tôi phải nỗ lực gia công lập đức, tinh tấn tu tập pháp Định ý thanh tịnh để đạt được hạnh đồng chơn của Bồ tát.

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bảo ngài Cứu Sướng:

- Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói. Nếu có kẻ tân học phát tâm mong muốn tu tập pháp đồng chơn thì phải nghĩ nhớ nỗ lực gia công thanh tựu đạo quả, giữ tâm không thoái chuyển. Bồ tát tinh cần có hai mươi pháp cần phải thực hành, giữ gìn, ủng hộ không tăng giảm. Hai mươi pháp không khuyết lậu đó là gì?

Khi Bồ tát tu hạnh đồng chơn phát thệ nguyện lớn, tâm không bị phiền não ngăn che suy tư muốn nhổ tận nạn nguy hiểm. Đó là sự tinh cần không thoái chuyển.

Lại nữa, Bồ tát tập hợp đồ chúng dạy bảo đạo giáo, pháp vô hình tướng, luôn giảng về không vô, hư tịch. Đó là hạnh đồng chơn không thoái chuyển.

Lại nữa, Bồ tát quảng bố công đức khiến cho kẻ hạ liệt thoát khỏi trói buộc, trước trừ bỏ không nghĩ nhớ tham, sau mới dạy pháp Ba la mật vô cực.

Lại nữa, Bồ tát thấy chúng sanh đang có nạn khốn liền tự thân đến giáo hóa, an ủi người đó khiến vị ấy không còn dau khổ, luôn niệm tâm dưỡng dục không thay đổi.

Lại nữa, Bồ tát tu khổ hạnh trải qua vô số nạn, cầu bậc minh sư tham vấn thọ học giới luật, cung kính tu tập Chánh pháp, luôn nhớ nghĩ thọ trì sáu pháp căn bản vô.

Lại nữa, Bồ tát cầu đạo vô thượng, tâm không buộc ràng với vinh hoa thế tục mà bị nhiễm ô. Tâm luôn tinh cần tu tập các tuệ thần thông, tu tập Chỉ Quán, trừ sự ràng buộc của tâm ái dục.

Lại nữa, Bồ tát tùy thời thích hợp, quán xét rõ phương tiện quyền biến vô giác tri, trước dạy bảo cho kẻ có tâm si khiến họ thông đạt, sau mới dạy họ về pháp phương tiện.

Lại nữa, Bồ tát phát tâm thệ nguyện có được tướng tốt trang nghiêm thân mình, tự thanh tịnh vùng đất mình ở bằng sắc hoàng kim. Các quyến thuộc thân gần cũng đồng một tướng.

Lại nữa, Bồ tát phát thệ nguyện rộng lớn độ chúng sanh, không có tâm khiếp nhược, e dè hay bị chướng ngại. Tuy ở trong sanh tử mà không màng sướng khổ, lập chí kiên cố hàng phục ngoại đạo.

Lại nữa, Bồ tát tạo lập vô số nghiệp công đức phước báo, luôn nhớ nghĩ chúng sanh, không tự nghĩ vì bản thân mà có tâm ràng buộc. Tư duy, dùng tuệ quán sát hiểu rõ Tứ đế.

Lại nữa, Bồ tát mặc áo giáp thệ nguyện đó từ vô số kiếp cầu đạo vô thượng, trọn không sanh ý nghĩ: “Ta tu tập chơn thật, người kia tu hạnh đó thì có tổn hao”.

Lại nữa, Bồ tát có tâm bao dung kẻ phàm phu, vì người đến quy y nói pháp vi diệu, chỉ bày đường thẳng tắt để họ biết hướng tu tập, noi theo pháp tiền nhân liền nhận được pháp cam lộ.

Lại nữa, Bồ tát quán sát việc thế gian, với pháp vua chế định không sanh tâm phản đối, thiện thì tuân theo, ác thì lánh xa, không có tâm cống cao hủy báng phong tục.

Lại nữa, Bồ tát phải nhập chúng học tập như chúng Phạm chí, chúng Trưởng lão, quán sát lễ nghi những gì đáng thực hành thì phải biết cách thực hành, đáng ngồi thì biết cách ngồi, đáng nằm thì biết cách nằm, giữ oai nghi thích hợp không sai sót. Đó gọi là Bồ tát đồng chơn biết nhập chúng.

Lại nữa, Bồ tát luôn phải tu học pháp nhẫn vô thượng, không có tuệ sanh diệt mà đầy đủ tất cả Phật pháp, du hóa mười phương vô lượng cõi Phật, mong đạt được tất cả các pháp Tổng trì, các loại trí tuệ, quán sát trí tuệ không cùng tận, luôn nhớ nghĩ tu tập hạnh đồng chơn.

Lại nữa, Bồ tát giữ chánh bình loạn, không theo hệ phái tà quấy, có đủ các pháp thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ phương tiện, ba mươi bảy phẩm pháp, không, vô tướng, vô nguyện. Tâm không giải đãi cũng không nhàm chán, trọn không quên tâm đại thệ. Đó gọi là tâm đồng chơn kiên cố.

Lại nữa, Bồ tát tập hợp các công đức lành đã tạo tự buộc thân tu tập các tướng hảo để tự trang nghiêm, tiêu trừ kiêu mạn, vô minh, tà kiến. Bồ tát đồng chơn toàn thân thanh tịnh không nhiễm ô, không thấy cảnh giới có tịnh hay không tịnh. Như vậy mới là viên mãn công đức tướng hảo, vô lượng phước nghiệp đều đầy đủ. Bồ tát cũng không giải đãi, có tâm thoái chuyển. Vì sao? Vì vị Bồ tát đồng chơn phát thệ nguyện hoằng hóa không bỏ bổn nguyện, quảng bá tuệ nghiệp tinh tấn không mệt mỏi. Đó gọi là Bồ tát tu hạnh đồng chơn.

Lại nữa, Bồ tát phân biệt pháp ảo hóa dối gạt, quán rõ chúng là hư tịch vĩnh viễn không sở hữu, cũng không có hình chất để có thể thấy được. Bồ tát trưởng dưỡng tâm tinh tấn chuyeent u bổn nghiệp với mười sáu phần pháp mà không thủ xả. Bồ tát tu tập tâm bi, luôn tự suy tư: “Mong rằng ta sanh đến bất cứ nơi nào đều luôn tự suy nghĩ xuát gia, không nương tựa nơi nhà thế tục”. Khi đó người đời tự khởi tưởng thức, tâm ý nhiễm trước, khởi lửa dữ thiêu đốt gốc thiện, đọa vào năm đường, đều là do tham dục vô minh ràng buộc. Nếu có Bồ tát phân biệt năm dục, biết chúng đều không chơn thật, nỗ lực tư duy vĩnh viễn không cùng chúng trụ. Giả sử Bồ tát nghe ở rừng núi mênh mông nơi phương khác có người tu khổ hạnh, muốn đoạn trừ dục liền tìm phương tiện khuyến khích hướng dẫn chúng sanh đến nơi đó. Gặp được người tu khổ hạnh đoạn dục, tâm ý thanh lương khôngphiền não nóng bức, các chúng sanh đó đều phát đạo tâm, trừ bỏ năm dục dần dần theo đạo, dạo các cõi Phật lễ bái, tôn thờ, cúng dường chư Phật Thế Tôn. Bồ tát lại hướng dẫn họ thể nhập nghĩa lý sâu xa của pháp thâm diệu. Sau đó họ mới có đầy đủ công đức bố thí, giới, nhẫn, ân và chí ý tinh tấn kiên định, nhất tâm nhập định, niệm không dong ruổi, quyết tu trí nghiệp vô hạn lượng.

Thưa ngài Cứu Sướng, đó gọi là đạo tu hành của Bồ tát đồng chơn, rộng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nếu có Bồ tát mới phát tâm tu học phúng tụng giảng luận hai mươi hạnh nghiệp này, sau đó mới có thể phát tâm tu tập đạo tích đồng chơn.

Khi Bồ tát Tối Thắng giảng nói pháp này, một vạn bảy ngàn người đều phát tâm rộng lớn mong muốn tu hai mươi hạnh nghiệp đồng chơn, mười ngàn trời người đều được pháp nhẫn vô sở tùng sanh, lại có vô số loài chúng sanh tăng thêm công đức, tâm không thoái chuyển. Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Lành thay! Bậc Khai sĩ, ông đã làm cho nhiều chúng sanh được lợi ích, nhiều chúng sanh được độ thoát. Nếu có Bồ tát phát tâm hoằng thệ đó thì phải tập hợp các công đức đã tạo, không giải đãi, nỗ lực thực hành khuyến trợ người khác tu pháp thí, muốn dùng đó khai hóa các loài chúng sanh, cùng nhau vượt dến bờ giải thoát Nê hoàn giới, vĩnh viễn không còn qua lại. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp tu đồng chơn, công đức không thể lường. Nếu có Bồ tát phát tâm muốn học thì thường phải tu tập hai mươi pháp hạnh, mới có thể dần dần thể nhập kho Pháp bảo thâm diệu. Này Tối Thắng, phải tu học như vậy. Người học như thế thì ứng hợp với đạo của bậc đệ bát Bồ tát.

  

Phẩm 9: ĐỊNH Ý

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Thế nào gọi là bậc Thường tịnh Bồ tát ở địa thứ chín thanh tịnh địa của mình?

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc cửu trị Bồ tát tu tập Nhất tâm giải môn định ý, chánh định tam muội không tổn giảm mảy may, ở chỗ tịnh hay không tịnh luôn nhất tâm. Tuy ở chốn trần lao đầy sân hận, Bồ tát không khởi loạn tưởng, sanh vô số niệm, quán biết tâm ý thức chấp trước của chúng sanh bị duyên khổ đau phiền não trói buộc, do nhân báo ứng mà bị họa đó, lại cầu pháp quyền phương tiện hư dối, phải cầu phương tiện thiện xảo nào để được vĩnh viễn diệt độ mà được độ thoát. Bấy giờ bậc đệ cửu Bồ tát Đại sĩ phải tư duy về tưởng chấp trước đó đều do tưởng không thuận Chánh pháp; từ Vô minh, Hành nên có duyên báo ứng đó, chỉ có nhất tâm khởi phát đạo niệm, niệm Phật, pháp, các giới, thí, thiên, niệm An ban, nhiếp trì thân và niệm tử vong, thủ hộ tất cả khiến không còn phiền loạn, tinh tấn tu tập như cứu lửa thiêu thì công đức đạt được sung mãn tất cả. Nội tâm chí nguyện đều hướng về đạo quả, tu tập tuệ thông không pháp nào bỏ sót, luôn nhớ nghĩ tư duy thương xót tất cả chúng sanh: “Do duyên gì mà chúng sanh có họa hoạn trần lao?”. Bồ tát theo lý tự quán sát tìm hiểu nguồn gốc nguyên nhân, thấy đều do Vô minh mà có quả báo đó, do quả báo của Hành phát sanh thì có thần thức. Thức đã có nơi nương náu thì gọi là Danh sắc. Danh sắc đã sanh đầy đủ thành lục nhập, do nhân nội ngoại tướng nên khởi cánh lạc (Xúc). Tâm đã nhiễm trước nên lại chuyển sanh Thống (Thọ), hiểu rõ khổ vui mới sanh Ái dục; căn Ái dục đã sanh thì cùng nhau thọ nhập (chấp thủ) sanh, lão, bệnh, tử, sầu ưu, khổ não; dần dần làm lớn thêm báo ứng của dục ái. Bậc đệ cửu Bồ tát quán báo ứng đó, suy tư sâu sắc về sự ràng buộc của trần laohư ảo, chẳng phải chơn thật mà chúng sanh lại chấp chân lý không có thật, tự quán nhân duyên báo ứng. Bồ tát lại biết chúng sanh phân biệt quả đó thật đều không có xứ sở, ứng với điều không ứng, báo với điều không báo. Bồ tát lại dùng pháp chơn quán thanh tịnh khiến chúng sanh đã được thanh tịnh. Bồ tát luôn suy tư khuyến khích họ nỗ lực tinh cần tu định ý, trước phương tiện quán một cõi Phật có bao nhiêu chúng sanh lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô lượng trang nghiêm; có bao nhiêu chúng sanh nhập thiền định tịch tĩnh, dùng phương tiện thần túc biến hóa hiện khắp nơi; lại có bao nhiêu chúng sanh đảm đương trọng trách vì người mà nhổ tận gốc khổ để họ không còn phiền não. Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ tam kết sử thành tựu đẩy đủ đạo tích; có bao nhiêu chúng sanh đã làm suy yếu tam cấu, luôn được đến với đạo, vĩnh viễn không còn khổ; bao nhiêu chúng sanh không còn nạn do năm hạ phần kết sử trói buộc, không còn trở lại thế giới này; có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ năm thượng phần kết sử, đến được giải thoát tự an vui. Bồ tát lại dùng ngũ nhãn thông quán sát các nơi u tịch mà giáo pháp chưa truyền đến, nơi đó đang có các bậc Duyên giác ở trong núi rừng, tùy thời xuất hiện nhân gian giáo hóa. Bồ tát lại tư duy nơi đó có thể thân cận hay không thể thân cận. Như thế nào lại nói vị Tộc tánh tử nhất tâm quán sát các loại chúng sanh trong một cảnh giới Phật lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô thượng trang nghiêm? Khi vị Tộc tánh tử Bồ tát trụ ở địa thứ chín nếu thấy chúng sanh có tâm kiên cố liền tạo lập phương tiện quyền xảo làm thiện tri thức, tùy thời giáo huấn làm cho họ thêm tinh tấn, ủng hộ họ thành tựu ý chí kiên cố không bị lui sụt tan hoại, khai thị khuyến tấn khiến họ hiểu được pháp sâu xa, không tư lự viển vông đến gần trong nạn nguy hiểm. Giả sử ngay lúc đó, phía trước có lửa lớn cháy hừng hực thiêu đốt một cõi Phật sáng rực, chúng sanh từ trong đó theo đường (của Bồ tát) đến thế giới khác, nghe có Đức Phật giảng dạy đạo pháp, pháp không sanh, không diệt, không già chết liền có thể tinh tấn như trước. Với những ai mất thân tự quy thì an ổn đến với thân khác không bị thiêu đốt, không còn nhiệt não, được tự thân chiêm bái Đức Phật kia, lễ bái phụng thờ cúng dường, tích tập pháp công đức thù thắng vi diệu liền được thành tựu cũng không thoái chuyển. Giả sử nếu gặp biển rộng nước sâu, khắp cõi Phật trên, dưới, chung quanh đều như thế không khác, chúng sanh kia ở trong đó lập thệ nguyện có thể tự nương tựa, không khiếp sợ nạn tai vẫn làm việc công đức, chí nguyện kiên cố không lay chuyển. Đó gọi là bậc Bồ tátcửu trụ địa tâm đại từ mẫn, không từ bỏnhiếp hộ tất cả chúng sanh. Như thế nào lại nói bậc Bồ tátcửu địa quán chúng sanh nhập định tịch tĩnh, thần túc ứng hóa khắp nơi? Lúc đó nếu Bồ tát thấy chúng sanh ở tận trong núi sâu, nơi không có người, nhiệt tâm tư duy nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Khi ấy Bồ tát lại thấy chúng sanh đó từ tứ thiền xuất, nhập tam thiền, nhị thiền, sơ thiền. Bồ tát lại quán thấy có chúng sanh chỉ nhập sơ thiền, không nhập nhị, tam, tứ thiền; hoặc có người nhập nhị thiền, không nhập sơ, tam, tứ thiền; hoặc có người nhập tam thiền, không nhập sơ, nhị, tứ thiền; hoặc có người nhập tứ thiền, không nhập sơ, nhị, tam thiền. Bấy giờ Bồ tát cũng thấy có chúng sanh nhập Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ. Hoặc Bồ tát quán thấy chúng sanh chỉ nhập Không xứ, không nhập Thức xứ, Bất dụng xứ; hoặc có vị chỉ nhập Thức xứ, không nhập Không xứ và Bát dụng xứ; hoặc có vị chỉ nhập Bất dụng xứ, không nhập Không xứ và Thức xứ. Hoặc có vị chỉ trụ tâm trong đệ tứ thiền, không trụ tâm trong tam thiền và cấp thiền định trên dưới của tam thiền. Bậc Bồ tát trụ đệ cửu địa liền đi đến cùng người ấy kết làm bạn lành, khiến họ thành tựu công đức, không để họ sanh tâm mỏi mệt nhàm chán. Có thể làm cho chúng sanh đều chắc chắn thành tựu tâm kiên cố mới đáng được gọi là bậc cửu trụ địa. Thế nào gọi là bậc Bồ tát trụ đệ cửu địa đảm đương trọng trách, vì người mà nhận lãnh nhiệm vụ trọng yếu, luôn thay họ nhổ tận gốc khổ, làm cho họ không còn phiền não? Lúc đó Bồ tát dùng quyền phương tiện liền trụ trong năm đường, tùy thời cung cấp các vật dụng thích hợp như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Nếu có chúng sanh ở trong tám nạn, ba đường ác, Bồ tát liền đến đó độ khiến cho người đó không còn khổ não. Hoặc có chúng sanh ở trong chốn địa ngục, ngạ quỷ, Bồ tát liền ban ân rộng lớn khiến mỗi chúng sanh đều được no đủ. Đó gọi là bậc đệ cửu địa Bồ tátchúng sanhđảm đương trọng trách. Thế nào gọi là Bồ tát khuyến dụ chúng sanh đoạn trừ tam kết, khiến cho thành tựu đạo tích, dần dần được chứng quả, vĩnh viễn không còn khổ đau? Lúc đó Bồ tát dùng phương tiện quyền xảo hiện vô số biến hóa, giảng dạy pháp Thanh văn, Duyên giác; giảng về sự hỷ lạc của Niết bàn vắng lặng vô vi, hoặc giảng về pháp vô sanh, vô diệt, hư vô của Bồ tát Đại sĩ. Sau khi đã biết rõ tâm niệm của chúng sanh đó, Bồ tát trước tiên luận về pháp yếu Đại thừa Phương đẳng như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, đại từ, đại bi, tứ thiền, tứ đẳng, căn, lực, giác ý, bát Hiền Thánh đạo và Tam ma địa. Chúng sanh đó nghe xong tâm ý kinh sợ, lông toàn thân đều dựng đứng. Bồ tát tùy theo tâm ý họ khuyến tấn khiến họ thành tựu đạo quả. Có khi Bồ tát quán sát chúng sanh từ xưa đã phát tâm Bồ tát nhưng lại tự nghĩ mệt mỏi, nhàm chán vì không thể đạt được, liền muốn thoái tâm trở về đạo Thanh văn. Khi đó Bồ tát đến chỗ người đó nói: “Ngài tích chứa công đức từ xưa đến nay đã tu tập rất nhiều, các tướng tốt rạng ngời đang trang nghiêm thân, rộng dộ chúng sanh tu tập Phật độ, vì sao lại thoái lui trở về đường nhỏ?”. Người đó nghe xong vô cùng hối hận, tự trách: “Hỡi ôi! Ta sao lại như thế này? Thật là đáng xấu hổ mới để cho bậc Bồ tát đạo nhãn thần thông thấy oán trách! Ta nay tự mình phải dõng mãnh tích công lập chí, giữ gìn tâm hoằng thệ vì tất cả chúng sanh, không bỏ nguyện xưa”. Khi Bồ tát đó khởi tâm niệm này, trời đất chấn động sáu cách, làm rung động cung điện của ma khiến ma vương không còn an ổn trên chỗ ngồi của mình. Lúc đó tệ ma tự nghĩ: “Trời đất chấn động sáu cách, là ai thị hiện ra điềm tốt như vậy? Chẳng phải Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Nếu không phải như thế thì chắc là bậc Vô dục đắc A la hán mới khiến có điềm tốt đến như vậy. Nếu như không phải thế thì phải là Bồ tát phát tâm kiên cố lập nguyện Đại thừa, muốn cầu thành Phật một mình dạo đi trong ba cõi thương xót sự nguy khốn của chúng sanh. Nếu không phải thế thì chắc là một trăm hai mươi tám tội vương, con vua nước Cách sanh vào trong địa ngục dùng lý giáo hóa, tâm không tăng giảm. Đây có thể là sự cảm ứng của sức thần biến đó. Nếu không phải thế, ta có vạn đứa con đều dõng mãnh kiên cường, tài năng phi thường luôn ở cạnh ta thống trị sáu cõi trời. Đứa con nhỏ nhất của ta tên Ác Tử, bản tánh hung bạo, làm việc không nhân từ. Ta sẽ sai hắn đến xem thử để biết việc gì ở địa ngục, biết rõ thiện ác, phân biệt hiền ngu. Hắn cũng có sức thần túc cảm động đất trời. Nay phong cho hắn tên Trị Tội để trị Pháp vương, trị vì tội không biết cao thấp, lập tức dẹp đi điềm cảm ứng thần biến”. Ma lại suy nghĩ: “Ta có kẻ hầu cận tên A Bàng cũng có thể biến hiện oai đức vô lượng. Đúng ngày hắn sanh, đất trời chấn động lớn; nếu hắn mạng chung, đất cũng chấn động lớn. Hắn có thể lập tức biến hiện các việc vô cùng quái dị”. Ma vương suy nghĩ miên man như thế xong liền dùng thiên nhãn quán sát ba ngàn đại thiên thế giới, bèn thấy bậc tu hành đoạn dục đắc đạo quả Tu đà hoàn nay mới phát tâm Đại thừa. Ma suy nghĩ: “Đúng là người này muốn làm trống rỗng cảnh giới của ta. Phải tìm cách để làm tiêu hoại thiện tâm của hắn”. Khi ấy tệ ma tự thân cùng binh tướng ma đến chỗ của vị thiện nam tử. Thấy bậc Bồ tát trụ cửa địa thân tâm luôn an tịnh, tâm ma vương kinh hoàng, lông toàn thân dựng đứng liền tự rút lui, không còn dám tiến tới. Đó gọi là sức cảm ứng từ thần đức thường tịnh của Bồ tát ngộ được đạo tích tịch tĩnh thành tựu đạo vô thượng, lập thệ nguyện trọn không rời bỏ.

Vì sao nói bậc cửu trụ địa Bồ tát quán chúng sanh loại biết được tam kết suy yếu, đắc Tư đà hàm, không còn dục, nộ, si, vĩnh viễn không còn khổ? Khi đó Bồ tát quán chúng sanh kia từ xưa đến nay tích chứa công đức, có người căn tánh thông lợi, có kẻ căn tánh chậm lụt. Bồ tát cũng thấy tâm chúng sanh thuần thục, hướng về việc thành tựu đạo quả, ý không thoái chuyển quyết đạt đạo lớn. Khi ấy người có căn tánh thuần thục thì khuyên bảo họ tinh tấn tu tập đạt đầy đủ các gốc công đức, thành tựu đạo quả. Bồ tát hướng dẫn để tâm họ không giải đãi, suy tầm để có thể thành tựu tứ quả, hoặc vượt lên trên chứng đắc quả thứ tư, không lưu trệ nơi quả A na hàm. Tất cả đều là công đức thường tịnh của địa thứ chín, chưa từng trái nghịch, xả bỏ tâm hoằng thệ. Đó gọi là Bồ tát siêng năng tinh cần tu tập không thể xưng lường, không chấp báo ứng mười hai nhân duyên. Bồ tát trụ cửu địa tu tập thường tịnh nên đạt thanh tịnh, hoặc từ người khác nghe được pháp nhu thuận, tự thân phản tỉnh nhớ nghĩ theo pháp đó, nhất tâm chuyên cần chí hướng học tập, luôn ở nơi nhàn tĩnh, quán sát căn cơ của người trọn không sai lầm. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị Tư đà hàm.

Thế nào là Bồ tát giúp đỡ chúng sanh đoạn trừ họa năm kết sử trói buộc, sanh lên cõi trời, tinh tấn tu tập, diệt độ cũng không trở lại thế gian này? Lúc đó Bồ tát lên cung trời ấy giảng pháp vô sanh, không đoạn diệt, rồi ở trước các vị ấy nhậ Diệt tận định thị hiện diệt độ. Các vị trời chứng quả A na hàmthế giới đó tâm đều khởi ý nghĩ khuyên nhau nỗ lực đạt đến cảnh giới Vô dư Niết bàn để bát Niết bàn. Bồ tát tuy hiện pháp thù thắng vi diệu nhưng tâm không biến đổi, có bao nhiêu tâm niệm đều tự biết; vô số việc trong các kiếp lâu xa, chỗ đã phát tâm ý thú ra sao đều liễu tri tất cả, không thấy có mất đi hay sanh trở lại, cũng không thấy có nơi dừng trụ, quán niệm không có chỗ sanh vốn không có xứ sở, tự đạt đến thanh tịnh vắng lặng vô vi. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A na hàm.

Thế nào là Bồ tát quán sát chúng sanh giáo dưỡng người học đạo đạt được tâm không chấp trước? Lúc đó Bồ tát trụ đệ cửu địa dùng thiên nhãn quán ba ngàn đại thiên thế giới, ai sắp tận trừ các lậu, ai được đạo quả. Quán như thế rồi, Bồ tát hoặc thấy có mười, có trăm, có ngàn, thậm chí đến vô số không thể tính đếm người đoạn trừ kết sử cùng lúc, cùng ngày, sắp thành tựu tâm vô cấu, đắc A la hán. Khi ấy Bồ tát dùng sức thần túc trong một ngày đi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, dùng quyền phương tiện ủng hộ họ, khiến cho mỗi người theo chí hướng thích hợpđạt được tâm vô chấp, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, được giải thoát tịch tĩnh. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A la hán.

Thế nào là Bồ tát khuyến trợ các vị tu tập Duyên giác thừa đạt được tâm vô chấp? Khi đó Bồ tát lại dùng thiên nhãn quán sát các thế giới, những nơi u tịch trong núi cao hay đất bằng, thấy có các vị độc cư tu tập định Chỉ tịch tĩnh một cách thiện xảo, tư duy về bốn mươi ba pháp định chỉ tâm. Bấy giờ Bồ tát cũng đến nơi ấy, cách chỗ đó không xa trải cỏ trên đất, ngồi kiết già để niệm trước mặt, cũng không có tà kiến, nội tâm tư duy muốn thị hiện phương tiện để giáo hóa, hoặc thị hiện sấm chớp âm thanh vang rền, hoặc hiện ra các cây cối cọ xát với nhau phát sanh ra ánh sáng của lửa sáng hơn ánh sáng lửa thường; hoặc hiện ra tiếng kêu của các loài cầm thú, chim phượng. Khi ấy Bồ tát ở trước các vị đó đột nhiên thân vọt lên hư không hiện mười tám loại biến hiện tự tại, thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân phát ra lửa nước mà không bị tổn hại. Các vị Duyên giác thấy sự biến hóa đặc biệt thù thắng đó, mỗi vị tự nghĩ: “Chúng ta phải cùng nhau tu tập để mau thành tựu Phật đạo có các tướng trang nghiêm thân. Chúng ta nên cùng khuyến trợ nhau tinh tấn tu tập không lười nhác”. Các vị ấy, mỗi người ở mỗi thời điểm khác nhau rời khỏi khu núi rừng kia đi vào xóm làng, đến từng nhà khất thực để tự nuôi sống. Khi ấy các vị đó hoặc nghe tiếng âm nhạc trống đờn, hoặc tiếng khóc than bi lụy, nội tâm xót xa thương cảm như bị lửa thiêu, đột nhiên tự ngộ trừ tận các lậu, tâm ý giải thoát nên có hiệu là Vô Trước Duyên giác. Việc làm của Bồ tát trụ ở cửu địa là như thế, trí tuệ thông đạt không cùng cực. Bậc Duyên giác tuy có công đức quang tướng cũng không bằng tướng công đức một sợi lông của Đức Như Lai. Các vị ấy hợp nhau tu tập tạo công đức khiến mỗi lỗ chân lông trên toàn thân đều có công đức thì cũng không bằng công đức tướng mi trắng giữa chặng mày của Đức Như Lai. Họ lại tu tập để được tướng đó thì cũng không bằng công đức đảnh tướng của Như Lai. Giả sử chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều trọn đức tin với Phật, với Pháp, với Tỳ kheo Tăng, giả sử tín tâm đó gấp trăm, ngàn, vạn lần hơn nữa cũng không bằng một phần trăm, ngàn, vạn lần đức tin của người có đức tin tôn thờ Pháp. Lại nữa, giả sử người có đức tin tôn thờ giáo pháp tập hợp công đức trí tuệ, nghe pháp, bố thí suốt ba ngàn cõi cũng không bằng gốc công đức đã tạo của bậc kiến đạo. Lại nữa, nếu mỗi vị kiến đạo đem công đức đó, cho đến vô cấutrí tuệ của mình gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức trí tuệ của một vị Duyên giác. Giả sử trong ba ngàn đại thiên thế giớivô số các vị phát tâm Bồ tát, trí tuệ tri thức của các vị đó gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức đã tạo của một vị A duy việt trí. Lại đem trí tuệ của các bậc Bồ tát A duy việt trí trong ba ngàn đại thiên thế giới trên gấp lên trăm, ngàn, vạn lần để so sánh thì cũng không bằng một phần trong trăm, ngàn, vạn phần công đức đã tạo của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ. Lại nữa, giả sửvô số Bồ tát Nhất sanh bổ xứ trong ba ngàn đại thiên thế giới cũng không bằng công đức tuệ lực của một Đức Như Lai.

Này Tối Thắng, tâm trí quán chiếu sáng tỏ của bậc Bồ tát trụ ở cửu địa là như thế, thông tỏ tâm ý của chúng sanh ba đời, theo bệnh mà điều trị, tế độ cho tất cả. Ta nhớ lại khi Ta còn tu tậpcửu địa đã độ thoát cho vô số người mê mờ. Từ khi mới phát tâm đến khi trụ ở địa thứ chín, trong khoảng thời gian ấy Ta đã độ một A tăng kỳ vị A la hán, trừ tâm cấu uế cho họ khiến vĩnh viễn không còn chút cấu uế. Từ Tu đà hoàn đến A na hàm cũng có một A tăng kỳ vị, tất cả đều thực hành Tứ đế, tu tập tưởng tri diệt. Lại khuyến khích chúng sanh phát tâm Bồ tát, mỗi vị đều lập ý chí kiên cố không thoái chuyển gồm một A tăng kỳ vị. Sau cùng, khi giáng thần xuống cõi Dục sanh vào cõi trời Đâu Thuật, Ta muốn đoạn trừ dây ái, năm mười chín tuổi suy tư về mối họa của dục ái thế gian. Lúc ấy Ta dùng sức lực dõng mãnh biện tài vô sở úy, bỏ sạch tất cả, thần thức an định tận trừ các lậu, pháp hư ngụy; dùng tâm vô lậu tu tập giải thoát, dùng gươm bén trí tuệ cắt đứt dục trần, chứng được thần thông, tôn thờ hạnh ấy, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, các việc nên đã làm nên không còn thọ thân sau, biết như thật pháp tu tập đại từ mẫn của Bồ tát, oai nghi lễ tiết không thiếu sót, trụ trong công đức tuệ kiên cố, tất cả ma và các ngoại đạo không thể xâm phạm hạnh nghiệp của Bồ tát. Ta vì các chúng sanh đang đầy dục lậu giảng pháp vô lậu, pháp vô sanh diệt, trừ các tưởng chấp trước không có hạn lượng. Tối Thắng nên biết, lúc ấy Ta tư duy nhập vô tận tuệ, quán pháp thọ sanh của chư Phật ở quá khứ, việc làm của các Ngài đều bình đẳng, không thiên lệch. Pháp mà chư Phật Thế Tôn đã tu tập đều bình đẳng; đạo pháp hay thế pháp, hữu số hay vô số, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, với các pháp đó đều bình đẳng. Vì vậy nên gọi là Đẳng Chánh Giác. Pháp bình đẳng là phải bình đẳng với người và mình. Pháp đó đồng với tự nhiên không thấy có khởi, có diệt; tự nghĩ các pháp đã tu tập chính là để thoát khỏi hữu lậu nên phải cấm chế, rộng tu pháp bình đẳng. Nếu tâm tà loạn không tinh cần chuyên chú thì phải niệm điều phục tâm không để dong ruổi, an định tâm rồi thì tất cả đều vô sở hữu, đều bình đẳng đồng như tự nhiên. Lại nữa, nếu tâm không tàm quý phải dùng phương tiện khiến khởi niệm sợ hãi. Lại nữa, nếu lúc đó thân, khẩu, ý làm điều ác, pháp bất thiện thì phải tư duy trừ bỏ, diệt tận không để nó tăng trưởng. Nếu tâm có niệm đố kỵ, ganh ghét, ngu si, đầy pháp hữu lậu thì phải tìm cầu phương tiện thiện xảo trừ bỏ để chúng vĩnh viễn không còn. Nếu khởi tâm niệm giết hại, trộm cướp, dâm dục, nói dối, uống rượu thì phải tư duy thẩm suy nguồn gốc bại hoại của chúng. Nếu ý khởi tham dục mê đắm danh vọng quyền quý, khinh thường người khác; có người thỉnh cầu pháp sâu kín thì sanh tâm sẻn pháp, khinh hủy cấm giới, không thuận theo pháp luật, dạy người tu tập nhập định tịch tĩnh mà không theo pháp thiền định, hoàn toàn không khởi tâm niệm Phật, Pháp, Tăng; tâm sanh cống cao kiêu mạn với pháp sư. Nếu có người như thế thì những người đó đều làm hại thánh đạo, không nên gần gũi tu tập pháp đó. Nếu sanh tâm mạn: một là tự đại, hai là thậm mạn, ba là mạn mạn, bốn là ngã mạn, năm là tà mạn, sáu là đẳng mạn, bảy là vô ngã đẳng mạn, thì phải giữ gìn tuệ ý khiến các tâm đó vĩnh viễn không thể khởi sanh, hiểu rõ chúng đều vô sở hữu, đều vô sở khởi, bình đẳng không phải hai cũng không phải nhiều. Các pháp đó đều tự nhiên, không có xứ sở. Đó gọi là bình đẳng chánh giác của Bồ tát. Nếu tâm khởi niệm loạn tưởng: một là tà kiến, hai là tà niệm, ba là tà ngữ, bốn là tà nghiệp, năm là tà trị, sáu là tà phương tiện, bảy là tà ý, tám là tà định thì luôn phải đình chỉ các tâm niệm đó để chúng không làm tổn hại. Lại nữa, khi tâm khởi sanh ý nghĩ ngang quấy: “Ta luôn được tôn kính” nên sanh tâm khinh thường người khác. Nếu hiện tại có tâm khinh thường người khác thì có thể tương lai sẽ bị khinh khi. “Ta luôn bị người ghét bỏ, nay họ cung kính hắn. Nay họ cung kính hắn hơn ta. Ta phải làm sao ở tương lai họ phải tôn kính ta”. Người ấy lại suy nghĩ: “Từ trước đến nay họ khinh khi ta, hiện nay họ cũng khinh khi ta như lúc trước. Làm sao biết trong tương lai họ không khinh khi ta?”. Nếu người có tâm như thế thì chính là nhành rễ làm hư hoại thánh đạo, theo điên đảo mà càng làm sanh ấm cái phiền não, nương tựa tà kiến theo dục vọng, tự mình đánh mất xa rời nhân đạo. Có khi người ấy tâm niệm khởi mười pháp ác phóng dật bất thiện: một là giết hại, hai là trộm cướp, ba là dâm dật, bốn là nói dối, năm là nói làm chia lìa hai người khác, sáu là nói lời ác, bảy là nói lời thêu dệt, tám là hại hận, chín là tật đố, mười là tà kiến. Nếu thân, khẩu, ý sanh khởi đủ mười pháp đó thì phải lánh xa, không tạo duyên đó, phải trừ bỏ các pháp đó không để chúng làm chướng ngại. Lại phải suy tư nguyên nhân diệt pháp ác, do đâu sanh ra pháp thiện, thông đạt thiện ác đều vô sở hữu, là hư giả, chẳng phải chơn thật; chúng đều bình đẳng không hai. Bồ tát tuy đã thành tựu trụ địa thứ chín nhưng luôn tư duy về các pháp uế trược: “Nay ta sở dĩ thành tựu đạo vô thượng, tu tập đạo Bồ tát đều do tu tập từ mười pháp ác ngu si nên được đầy đủ ngũ phần Pháp thân, đến thẳng Nhất đạo không theo nhiều hướng. Bồ tát phân biệt rõ ràng không, vô tướng, vô nguyện; lại tinh cần tu tập Tứ ý chỉ. Bốn pháp đó là gì? Bốn pháp đó là thân, thống (thọ), ý (tâm), pháp. Quán chiếu thông đạt pháp Không, hướng tâm đến tứ thiền, tứ đẳng, tứ không định, bát duy vô, cửu thứ đệ định. Bồ tát lại cần phương tiện rời xa pháp sanh, thể nhập pháp vô sanh nên mới gọi là đạo Hiền Thánh bình đẳng. Tất cả pháp đều hữu tận mà cũng không hữu tận. Thông đạt tận và vô tận thì mới hợp với vô sanh. Tất cả trần lao là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận. Dục ái trói buộc là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận. Sân hận, xan tham là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn thì gọi là vô tận. Đạo mê loạn là pháp tận của Bồ tát, không giải thoát thì gọi là vô tận. Ý an chỉ nơi pháp đoạn là pháp tận của Bồ tát, nếu không còn ý đoạn thì gọi là vô tận. Căn, lực, giác đạo là pháp tận của Bồ tát, nếu không có chúng thì gọi là vô tận. Bốn quả Sa môn là pháp tận của Bồ tát, không có bốn quả đó thì gọi là vô tận. Có đạo Duyên giác là pháp tận của Bồ tát, hiểu rõ không có Duyên giác thì gọi là vô tận. Có đạo Bồ tát là pháp tận của Bồ tát, nếu không có thì gọi là vô tận. Bình đẳng chánh giác là pháp tận của Bồ tát, không có bình đẳng giác thì gọi là vô tận. Chứng ngộ thành tựu Phật đạo là pháp tận của Bồ tát, không thấy có thành tựu thì gọi là vô tận. Đến cội cây của chư Phật là pháp tận của Bồ tát, không đến đó thì gọi là vô tận. Tu tập tướng hảothanh tịnh cõi Phật là pháp tận của Bồ tát. Giáo hóa nhân dân, hiển dương pháp yếu là pháp tận của Bồ tát. Tu tập pháp không, vô tướng, vô nguyện là pháp tận của Bồ tát. Có tâm mong cầu nên chuyên tâm tu tập gốc công đức là pháp tận của Bồ tát. Tạo lập các công đức, truyền bá đạo lớn là pháp tận của Bồ tát. Tâm Bồ tát trụ không có cao thấp cũng không thấy có trong, ngoài, trung gian là pháp tận của Bồ tát. Không thấy các hạnh tu tập của phàm phu, cũng không thấy hạnh Hiền Thánh là pháp tận của Bồ tát. Tuy ở trong sanh tử nơi pháp nhiễm ô mà không thấy nhiễm trước là pháp tận của Bồ tát. Bồ tát giảng nói về diệt độ, quán diệt độ không còn sanh cũng không trụ diệt vĩnh viễn, chấp giữ diệt độ là pháp tận của Bồ tát. Ngộ rõ chơn tế cũng không tùy thuận là pháp tận của Bồ tát. Không mong cầu xa rời các cõi ma là pháp tận của Bồ tát. Dùng nghiệp tuệ rộng lớn không cho là hèn kém là pháp tận của Bồ tát. Luôn phải tu tập biết thời là pháp tận của Bồ tát. Không xa lánh các pháp duyên khởi là pháp tận của Bồ tát. Không theo chơn lý, không phải không có chơn lý là pháp tận của Bồ tát. Tuy ở nhân gian mà thấy không khác chốn nhàn cư là pháp tận của Bồ tát. Ở trong chốn ồn náo tùy thuận thế tục không giữ gìn oai nghi là pháp tận của Bồ tát. Nếu trụ trong thiền tịch tĩnh mà không diệt thân, ý là pháp tận của Bồ tát. Không thấy có bố thí, hay chẳng phải không bố thí là pháp tận của Bồ tát. Với giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, không thấy có tu tập cũng chẳng phải không có tu tập là pháp tận của Bồ tát. Tự chứng ngộ tam minh, nhãn sanh trí tuệ khởi, dạo qua các thần thông, không thấy trần lao; sanh, diệt luôn trụ ái dục cũng không mệt mỏi nhàm chán là pháp tận của Bồ tát. Ở Tu đà hoàn vị tu tập đạo tích cũng không từ bỏ việc tu tập đạo lớn là pháp tận của Bồ tát. Thấy Phật pháp mất, không mất có tâm sợ hãi, cũng không thấy số kiếp dài ngắn là pháp tận của Bồ tát. Không thấy cú thể, tự thể, vị thể; điều này là hữu số, điều kia là vô số là pháp tận của Bồ tát. Tu tập gốc dâm, nộ, si mà không thành tựu chơn lý là pháp tận của Bồ tát. Không khởi pháp nhẫn cho đến không sanh khởi trí tuệ là pháp tận của Bồ tát. Chín cõi của chúng sanh Dục giớivô tư tưởng giới là pháp tận của Bồ tát. Dạo qua thôn xóm, quận huyện, cung điện của chư Thiên, cung điện của Long vương, các cung điện thần diệu, ở các nơi đó tu tập oai nghi lễ tiết, có nơi đáng gần gũi, có nơi không đáng gần gũi là pháp tận của Bồ tát. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của bậc cửu trụ địa Bồ tát. Sự tu tập của Bồ tát không có pháp nào không bao hàm pháp yếu giải thoát hữu tận vô tận. Chúng sanh khổ não, Bồ tát cũng tập rồi vì họ mà giảng nói tánh của Khổ đế: Nếu nhãn thấy sắc có khổ, có vui thì tư duy nhãn thức đều là hư tịch, tu pháp bình đẳng, tiêu diệt họa hại. Bồ tát luôn dùng Chánh pháp hóa độ chúng sanh đến giải thoát vắng lặng. Đó gọi là Bồ tátchúng sanh khổ mà diễn bày khổ tuệ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, sầu bi áo não là khổ, oán ghét mà phải gặp gỡ là khổ, yêu thương mà phải ly biệt là khổ, mong muốn mà không đạt được là khổ. Nói tóm lại, năm ấm khởi thạnh là khổ. Thấu tỏ khổ đó cũng không khởi diệt. Đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của Bồ tát. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh phiền não thì vì họ diễn thuyết pháp căn bổn của tâm chấp ái: “Tâm ái thâm sâu kiên cố, chấp ái sâu dày khó thể nhổ bỏ. Ta trước có thệ nguyện quyết trừ bỏ sạch. Nếu không diệt tâm ái thì hoàn toàn không thể chứng ngộ”. Khi ấy Bồ tát dần dần chuyển nhập vào pháp quán sát dung nhan. Ở trước chúng sanh, Bồ tát hiện rõ dung mạo của mình. Người xem đều khen ngợi, ai ai cũng tôn phụng. Trong khoảnh khắc, Bồ tát biến hiện thân trở nên xấu xí. Người xem thấy, tâm liền biến chuyển nghĩ đến vô thường: “Thân này chẳng phải chơn thật, không kiên cố. Dung mạo chúng ta dù ở thế gian đẹp đến mấy không lâu sau thì phải biến hoại. Nên phải tự mình tu tập, trừ bỏ tâm chấp trước, không mê luyến ân ái”. Bồ tát lại vì chúng sanhphiền não làm tăng trưởng lợi ích cho họ như thế. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh trú tận thì dùng phương tiện quyền xảo nói pháp cho họ: “Sanh rồi cũng chết, thành rồi cũng bại,. Giả sử tuổi thọ đến ức hằng sa kiếp rồi cũng đều diệt tận, không thể tồn tại mãi. Các Tộc tánh tử nên biết pháp vô thường biến chuyển như ảo như hóa, không chơn thật. Bồ tát ngộ rõ chúng không chơn thật nên mới đạt thanh tịnh, không nhiễm ô. Tập do tích chứa mà không xả bỏ chúng, nên dùng pháp tận diệt quán chúng đều vô sở hữu, cũng không thấy có chỗ khởi diệt”. Nếu có người tâm sanh kiêu mạn, ngu si chấp là thường, là vô thường thì Bồ tát dùng tuệ không, vô tướng, vô nguyện để phân biệt. Có khi Booft át vì họ giảng đạo Nhất thừa cứu cánh dạy các Tộc tánh tử phải nhớ nghĩ tư duy bảy pháp quán, như sự phân biệt sự thành hoại của năm ấm, chúng sanh do đâu mà có tai họa ấm cái, tư duy rõ ràng sự hưng khởi của sắc: “Trước kia do có sắc tướng nên ta sanh thức chấp trước. Do thức nên sanh ra thống (thọ) cùng nhau thọ nhập, khởi ý sanh tưởng chuyển thành hành nghiệp. Đó đều là do một pháp sắc mà biến thành năm pháp”. Thống (thọ), tưởng, hành, thức cũng như vậy. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh khởi lên mười tám ấm độc hại suy hao nhiễu loạn tâm người, khiến tâm họ chướng ngại không đạt đến giải thoát, bèn dần dần dùng phương tiện khéo léo ôn hòa hỗ trợ; phải dùng phương tiện khéo léo khiến họ thành tựu không để họ đọa lạc. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh đó tâm luôn có ái thì dạy họ suy tư không thấy có ly biệt, cũng không thấy bị ly biệt. Đó gọi là đầy đủ bảy pháp quán. Bồ tát cũng không quên bỏ pháp quán hạnh, quán xét bệnh trì trệ, phân biệt lạnh nóng của thân mình. Quán khắp thân mình xong lại dạy cho người khác tu tập được thành tựu.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ địa Bồ tát tu tập pháp Chỉ Quán, cũng không có tâm sợ hãi. Tứ Thiên vương Thích, Phạm, Rồng, Sa môn, Phạm chí và Ma đều không thể nào ẩn thân. Trong khi Bồ tát tu tập Chỉ Quán không bị khó khăn chướng ngại với pháp Chánh giác. Vì thế nên Bồ tát thấy rõ, thông đạt tất cả pháp đều là bình đẳng với pháp phàm phu và đạo Hiền Thánh, tâm như hư không, không thiên lệch. Pháp học hay pháp vô học, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật pháp cũng đều bình đẳng. Lại nữa, có khi Bồ tát thấy có pháp lậu và pháp vô lậu, phân biệt pháp thế tụcpháp độ thế, trừ sạch tâm chấp trước thì mới thành tựu đạo Bồ tát. Vì sao? Vì quán Không nên gọi là tự nhiên. Lửa mạnh tự nhiên đến, lửa mạnh tự nhiên diệt. Không với thật bình đẳng, tướng và vô tướng bình đẳng, nguyện và vô nguyện bình đẳng; pháp ở trong ba cõi đều đồng với tự nhiên. Bồ tát lại phải tư duy pháp sanh bình đẳng với pháp vô sanh; quán pháp và không tu tập quán pháp cũng bình đẳng; nương tựa và không nương tựa, bình đẳng và không bình đẳng, khởi và không có pháp khởi đều là tự nhiên. Chẳng có tự nhiên trong ba cõi bình đẳng, không thấy cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Bồ tát lại phải tư duy suy lường đạo dâm, nộ, si và minh tuệ đều là tự nhiên, thoát khỏi ràng buộc của ái dục mới chính là thành đạo, thể nhập cảnh Nê hoàn đều biết rõ là vô nhị bình đẳng tự nhiên. Đó gọi là Bồ tát tu tập tâm từ mẫn, vì chúng sanh bày vô số các loại nhân duyên, hóa độ chúng sanh tùy theo căn cơ của họ. Bồ tát theo tâm niệm ứng hợp của mỗi người mà phân biệt nói khiến họ đều có tâm hòa thuận trụ nơi đạo Đại thừa, tiêu trừ sạch gốc khổ não. Bấy giờ Bồ tát ở trong đại chúng một mình không sợ hãi, hoàn toàn không bạn lữ mà không cô độc, gốc các công đức như chuỗi anh lạc tự trang nghiêm thân. Nếu ở trong chúng Đại sĩ, Bồ tát liền có thể diễn xướng Phật đạo tối thượng, thương xót hàng Thanh văn không đạt thượng trí. Họ tuy dã dứt hết các lậu nhưng không rời khỏi nơi an trụ, chỉ tự cởi bỏ dây trói buộc phiền não mà không có tâm quảng đại. Bồ tát lại nghĩ đến hàng Duyên giác không có tâm hoằng pháp làm lợi ích chúng sanh. Họ có thánh trí biện tài, tâm thanh tịnh không tì vết, cũng có thể biết căn tánhchí hướng của người khác nhưng chỉ tự thủ ở nơi quốc độ bất tịnh. Vì vậy Bồ tát ở trong đó đặc biệt xuất hiện, giảng nói phân biệt sự thành tựu Phật đạo tôn quý. Mười phương vô số các chúng sanh ưa thích, tin tưởng đều được tế độ. Tâm các vị Duyên giác luôn thương cảm vì không đạt được đạo nên dùng sức dõng mãnh hàng phục ngoại đạo, thường chuyển Pháp luân không ngưng đoạn, pháp lớn vi diệu thù thắng truyền bá khắp thế gian.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ địa Bồ tát thị hiện phương tiện thích hợp giáo hóa khiến không ai không được thể nhập, ngộ rõ Niết bàn cũng như tướng Niết bàn, nghĩa là có chơn lý cũng không có chơn lý. Không tuệ vô chủ cũng không trụ xứ nên gọi là vô vi tự nhiên khoái lạc. Họ cũng không trụ đây, cũng không trụ kia, đều không xứ sở, không hình, không đối tượng nên không thể thấy, trụ vô sở trụ. Đó gọi là vi trụ, gọi là trụ pháp giới. Đó gọi là vi tận, là vô sở sanh. Đó gọi là Niết bàn tịch diệt vô vi. Chỉ còn ba mươi bốn pháp vi tế kết, ngoài ra các trần lao không còn làm chướng ngại. Khi bậc cửu trụ địa Bồ tát đắc Chánh giác, hiện tại diệt bốn pháp, tương lai diệt bốn pháp, quá khứ diệt bốn pháp, ngồi dưới cội Phật thọ hàng phục ma xong, giữ tâm nhẫn điều hòa, ý thể nhập định vô tướng, quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới: “Ta nay ở tại cõi thế gian ngũ trược này sẽ thành Phật. Điều mong cầu đã làm xong không còn nghi ngờ gì nữa. Ta nay nên dùng phương tiện quyền xảo vì chúng sanh tuyên bày đạo nghĩa trừ sạch các lậu kết để họ thành tựu như ta hôm nay không khác”. Lúc đó các Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giácmười phương, mỗi vị đều ở cõi của mình từ xa khen ngợi: “Hôm nay ở phương đó, quốc độ đó có Đức Phật xuất hiện, có đủ ba mươi hai tướng của Đại nhân, tám mươi nét đẹp trang nghiêm thân. Ánh sáng chiếu đến nơi u tối, thanh âm như loài chim loan phượng. Lành thay! Phật chủng không bị dứt đoạn”. Khi chư Phật mười phương nói lời đó, ba ngàn đại thiên thế giới hiện ra chấn động sáu cách. Chư Thiên, Rồng, Thần, Càn đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chơn đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân, các loại Ma như Thiên ma đều kinh hoàng, không ở an nơi chỗ của mình, đều cùng nhau tụ hội đến nơi Phật ngự, cúi đầu kính lễ, tự quy mạng, theo hầu Đức Như Lai thành Tối Chánh Giác. Tất cả đều đạt tâm thanh tịnh, không có oán hận, đều có tâm tôn trọng pháp cam lộ, đầy đủ các điều thiện, đạo pháp vô lậu; tâm niệm dõng mãnh tu tập các pháp giải thoát. Đức Phật quán sát tâm niệm thích ứng của chúng sanh tùy thời thị hiện nói pháp khiến mỗi người đều được thỏa chí. Vì diệt trần lao, đạt được giải thoát tịch tĩnh hoàn toàn nên dạy chúng sanh loại trừ tâm ngô ngã, dứt hẳn tâm bỉ thử, không còn chấp tướng, không thấy nương tựa pháp hay nương tựa phi pháp, chẳng phải không có nương tựa cũng chẳng phải không có không nương tựa, đốn ngộ các pháp bình đẳng như hư không, như tiếng vang, như ảo hóa không có thật. Đó là đến được bên kia bờ sanh tử không còn sanh trở lại trong vòng sanh tử tuần hoàn. Công đức phước báo hưng long đạo nghiệp của bậc cửu trụ địa Bồ tát cũng không cùng tận, tu tập chơn chánh không còn tâm niệm hoài nghi, ở trong các pháp vô lậu cũng không còn chút nhiễm ô, ở trong các pháp không còn nhiễm ô, không thấy thủ xả, thoát khỏi hoàn toàn cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Tâm đều quy về trí tuệ vô sanh, giảng rộng truyền bá khắp nơi khiến mọi người đều được nghe hiểu.

Như vậy, này Tối Thắng, hạnh nghiệp tu tập của bậc Bồ tát cửu trụ địa oai thần cao vút, siêu việt khác thường thế gian. Nếu ở trong chúng, Bồ tát giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết. Mọi hành động, mắt nhìn đều thuận theo Chánh pháp, vận y phục cũng không hào nhoáng. Nếu muốn vào quốc độ, quận huyện xóm làng, Bồ tát mang pháp y, bình bát, tâm luôn thư thái, đi đứng qua lại, ngồi, nằm, đứng dậy tâm luôn suy tư chơn lý. Lời nói êm dịu nhu hòa không có tâm hung ác, lời giảng pháp như hư không, không có tâm niệm chấp trước, tu khổ hạnh đạt đến chỗ thâm sâu, không tạo duyên báo ứng, tâm niệm hành động đều chuyên chú vào Phật đạo.

Này Tối Thắng, Bồ tát trụ cửu địa vì thế có tên là Nhất trụ phi cửu trụ. Với địa thứ tám, thứ bảy, thứ sáu, thứ năm, thứ tư, thứ ba, thứ hai và sơ địa, Bồ tát đều chẳng trụ. Bồ tát tinh tấn tu tập đệ thập địa, Pháp thành địa, Đế địa, Vô khủng cụ địa, cũng có tên là Như Lai địa; Đạo địa, Định địa, Vô sở úy địa, Quán địa, Tuệ địa, Tự nhiên tánh địa. Bồ tát đạt được pháp thập địa đó thì không còn tên gọi Bồ tát phải xưng là Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Chúng Hựu, không ai sánh bằng, đầy đủ mười tám pháp thù thắng, giảng pháp luôn biện tài không khi nào không đúng thời. Các hạnh viên mãn thị hiện sanh lên cung trời Đâu Thuật thanh tịnh không tì vết, hoặc thị hiện giáng thần tiếp độ chúng sanh. Đó gọi là Bồ tát cửu trụ địa thanh tịnh địa của mình. 

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32581)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11939)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant