Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 7

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 9590)
Quyển 7


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN VII


Phẩm 19: GIÁO HÓA CHÚNG SANH

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:

- Thế nào là Đại Bồ tát đi vào sanh tử tinh tấn khổ hạnh từ một cõi Phật đến một cõi Phật giáo dưỡng chúng sanh, trang nghiêm đạo tràng. Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa, cũng không thấy chúng sanh, cũng không tự thấy ta có pháp hóa độ. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đại Bồ tát giữ gìn tâm thệ nguyện lớn vô biên giáo dưỡng chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa cũng không thấy chúng sanh. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu, đều là Không, đều là tịch tĩnh, không hình, không tướng vì không thể thấy. Tất cả mỗi pháp tự thể là Không, mỗi mỗi chúng sanh tự thể là Không, mỗi quốc độ tự thể là Không, mỗi pháp Niết bàn tự thể là Không, mỗi Bồ tát tự thể là Không. Này Tối Thắng, Bồ tát phải quán như vậy, thâm nhập pháp yếu, ngộ rõ các pháp là Nhất tướng như vậy. Các pháp trí tuệ vô vi vắng lặng, tịch tĩnh, không bị chấp trước. Đại Bồ tát cũng như thế, điều phục ý hướng theo đạo, tâm khó bị chướng hoại thì chắc chắn đạt đạo Vô thượng chánh chơn thành Bậc Tối Chánh Giác, chí như kim cương cũng không thối giảm, dùng pháp vô vi trang nghiêm cội đạo thọ như ngọc anh lạc. Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi tới đạo tràng ngồi dưới cội thọ vương đã hàng phục, sẽ hàng phục những người chưa được hàng phục. Trong khoảng thời gian ấy, Bồ tát không khởi tâm mạn như có ý nghĩ: “Ta thắng người kia”, “Ta cùng người kia bằng nhau”, “Người kia không thắng ta”. Tăng thượng mạn, Tăng trung mạn, Tăng hạ mạn; Trung thượng mạn, Trung trung mạn, Trung hạ mạn; Hạ thượng mạn, Hạ trung mạn, Hạ hạ mạn, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ, tư duy trừ bỏ các tâm mạn ấy. Bồ tát cũng không có tâm ganh ghét, đố kỵ, cống cao. Bồ tát nhập định quán sát chúng sanh phải độ người chưa độ nên dùng quyền phương tiện đi vào năm đường, tám chỗ không nhàn. Nếu có chúng sanh đáng nhận lãnh giáo hóa, Bồ tát liền cùng người ấy làm bạn tri thức, hoặc làm cha mẹ, anh em, quyến thuộc hoặc làm vị trưởng giả đại phú giàu sang tùy theo chúng sanhcấp thí cho người nghèo thiếu, xuất ra vô lượng vàng, bạc, vật báu xa cừ, mã não, chơn châu, hổ phách, ngọc minh nguyệt đẹp và ngọc báu Như ý; hoặc dùng thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh cấp thí mà không có tâm hối tiếc. Lại nữa, nếu có người đến chỗ Bồ tát khẩn cầu xin đầu, mắt, tay, chân, tài sản quốc gia, vợ con, đồ dùng bảy báu, Bồ tát đều có thể bố thí cho mà không có niệm tưởng bố thí. Khi ấy Bồ tát liền nhập Pháp giới tự tại định ý tam muội chánh họ, dùng quyền phương tiện giảng nói pháp hư vô cho chúng sanh đó: “Các vị nên biết, pháp là vô vi cũng không có pháp nào là vô vi”. Bồ tát phân biệt sáu tình đều vô chủ. Nếu mắt thấy sắc, sắc cũng không đúng. Chúng sanh ngu mê ở trong đó khởi thức tư duy phân biệt. Nhãn thức lf vô chủ. Với tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết trơn mịn, ý phân biệt pháp, Bồ tát quán sát đều vô sở hữu. Pháp khởi theo chỗ khởi, pháp diệt theo chỗ diệt, khởi không biết khởi, diệt không biết diệt. Mười hai nhân duyên, mười tám pháp trì nhập căn bổn cũng như thế. Có khi Bồ tát nhập Sư tử phấn tấn tam muội, lại có thể thị hiện vô số biến hóa, ở trong đó diễn xướng âm thanh thanh tịnh, hiện ra quốc độ có các báu trang hoàng, hương hoa cỏ thơm xông ướp năm sắc vàng chói, oai nghi tề chỉnh, chí núi An Minh không thể đổi dời. Bồ tát lại hiện vô lượng pháp môn định ý mà Như Lai thường an lạc trụ trong đó, tất cả pháp căn bổn của chúng sanh đều hiện tiền. Khi ấy Bồ tát lại dùng thần túc nhập vô lượng định mà tự thị hiện ngồi kiết già trên tòa sen, tự hiện sắc thân các pháp công đức suốt trong vô hạn lượng A tăng kỳ kiếp, tịnh trừ dấu tích tưởng chấp trước của chúng sanh, hướng dẫn đến con đường giải thoát của Bồ tát, y theo Nhất thiết trí diễn nói pháp cam lộ, tuyên bày ánh sáng trí tuệ, thị hiện trí tuệ Phật không bị nhiễm chấp. Hoặc dùng vật báu quý hiếm dựng tháp bảy báu đầy khắp thiên hạ, hoặc hai ngày thì xong, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày. Hoặc Bồ tát đến trời Phạm Thiên, hoặc đến trời Nhất Cứu Cánh trụ thọ nhiều kiếp mà không thủ diệt độ. Có khi Bồ tát dùng quyền phương tiện nhập định vô vi tịch tĩnh đầy đủ các căn lành, không xả bỏ Nhất thiết trí của Như Lai, dùng sức tam muội giáo huấn chúng sanh. Hoặc có chúng sanh phải nghe âm thanh giáo huấn mà được độ, hoặc có chúng sanh biết nghĩa của vị mà được độ, hoặc có chúng sanh thân được xúc chạm trơn mịn mà được độ, hoặc có chúng sanh ý ngộ pháp thể mà được độ. Khi đó Bồ tát lại suy tư: “Chúng sanh nghe âm thanh tất muốn nghe ta nói nghĩa thanh tịnh. Ta nay phải giảng nói tám âm của Như Lai, diễn giải âm thanh thành tám câu: âm thanh của Khổ, âm thanh của Tập, âm thanh của Tận, âm thanh của Đạo, âm thanh của thấy Khổ hướng Khổ, thấy Tập hướng Tập, thấy Tận hướng Tận, thấy Đạo hướng Đạo. Khi đó chúng sanh nghe âm thanh như thế ý không khai ngộ, muốn thấy ánh sáng, thân thể Bồ tát. Bồ tát nhập định dùng bình đẳng quán liền hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả, tất cả thành bảy báu xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách; đều phát ra ánh sáng. Ánh sáng đó phản chiếu với nhau che mờ cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Khi đó tâm ý chúng sanh không khai ngộ, lại muốn được thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Bồ tát quán sát biết tâm niệm đó liền nhập Vô ngại tâm niệm tam muội, phóng ra ngàn ức vô số ánh sáng từ lỗ chân long, mỗi ánh sáng có hoa sen bảy báu, mỗi hoa sen bảy báu có đài bảy báu, trên mỗi đài có lọng bảy báu, dưới mỗi lọng có tòa bảy báu, trên mỗi tòa đều có Đức Như Lai giảng nói cho chúng sanh về nguồn gốc của Khổ: Khổ phát sanh, không có Khổ thì không có Khổ đế. Tập phát sanh, không có Tập thì không có Tập đế. Tận phát sanh, không có Tận thì không có Tận đế. Đạo phát sanh, không có Đạo thì không có Đạo đế. Chúng sanh Thanh văn đó thấy được ánh sáng, nghe âm thanh giảng nói về Khổ, tâm sanh nhàm chán họa hoạn. Mỗi người tự khởi tưởng khổ, không, vô ngã, tưởng vô sanh diệt, ở trên tòa ngồi chấm dứt nguồn gốc Khổ tương ưng với thanh âm thanh tịnh.

Khi ấy chúng sanh ngồi trên tòa ngửi mùi hương, ý không khai ngộ lại sanh niệm suy nghĩ: “Ý chúng ta ưa thích mùi hương cực diệu mà nay bậc Đại thánh lại giảng nói thanh âm”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập Cực vi chúng hương định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều tỏa hương xông ướp như các loại hương Ngưu đầu, Chiên đàn, Kê thiệt, Ngãi nạp, Bạt hương, Mộng kinh, Mộc mật, Tô hợp; hương của hoa Phân đà lợi, hoa Tu kiền đề, hoa Mãn nguyện tu kiền đề, hoa Thanh liên phương…, trăm ngàn chủng loại hoa như thế biến khắp bốn phương không nơi nào không ngửi được mùi hương. Lúc đó chúng sanh ngửi được hương nhưng ý không khai ngộ, muốn trong mùi hương phát ra tiếng giảng đạo. Bấy giờ Bồ tát biết tâm niệm đó của chúng sanh liền ở trong mùi hương giảng nói sáu loại pháp. Khi ấy chúng sanh ngửi hương tâm ý khai ngộ, chấm dứt sự họa hoạn nơi thế giới này, không còn sanh lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Bấy giờ chúng sanh ngồi trên tòa tham ưa vị, ý không khai ngộ tự nghĩ: “Ý của ta ưa thích vị ngon mà nay bậc Đại thánh chỉ dùng hương giáo huấn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích”. Bồ tát biết suy nghĩ của chúng sanh đó liền nhập Cực vi tịnh vị định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành thức ăn uống cam lộ tự nhiên, tỏa ra mùi thơm vị ngon ngọt vô cùng. Khi ấy chúng sanh tuy được mùi vị đó theo ý muốn nhưng không khai ngộ, ý tham muốn các thực phẩm được dâng hiến tự nhiên trước khi nấu và thấy được hình thể của trái quả theo ý muốn. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập Tốc tật vô ngại tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh tay cầm vô số loại cam lộ tự nhiên. Trong thức ăn cam lộ phát ra các âm thanh: “Vị ngọt bên ngoài, lưỡi nếm biết thưởng thức. Hai pháp giao hội mới khởi trần lao. Ta nay tự tiết chế biết đủ là pháp vô thượng, không sanh khởi sự ham muốn hình thể chi tiết đưa đến thống khổ. Như xe cần bộ khung mới có thể chở nặng, cùi hủi ghẻ lở được thuốc mới tránh khỏi sự đau đớn”. Giáo pháp như thế đều phát ra từ vị. Chúng sanh nghe giáo pháp đó, tâm ý khai ngộ, chấm dứt họa hoạn thế gian cũng không còn sanh trở lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Khi ấy chúng sanh loại ngồi trên tòa, những người ham thích xúc chạm trơn mịn, ý không khai ngộ liền khởi niệm nghĩ: “Nay ý ta ham thích xúc chạm trơn mịn mà nay bậc Đại thánh chỉ nói diệu hương, thật chẳng phải là điều mà tâm ta ham muốn”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập cực dục vi tế nhu thuận định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, sông núi, tường vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều vận y bằng vải kiếp ba tự nhiên, dùng chỉ trời, tơ trời để may. Chúng sanh thấy y, lấy tay xúc chạm tự cảm giác biết mềm nhẹ không gì sánh bằng, khởi ý niệm muốn một y thì trăm tấm y tự đến. Tâm chúng sanh khai ngộ liền tựt rách: “Than ôi! Ta vì sao ham vận y này, há chẳng phải tự rơi đọa, tăng thêm trần lao. Thân chỉ là bộ xương khô, máu thịt bao phủ bên ngoài”. Họ liền nghe trên hư không phát ra các thanh âm: “Thiện nam tử nên biết, năm thú vui cõi đời chẳng phải chơn thật, chẳng phải có thật. Tâm chấp trước cảm giác trơn mịn dần dần khởi lên niệm vướng mắc. Niệm phải tự trách, từ bỏ tâm tham ái kia”. Khi đó chúng sanh nghe thanh âm từ trên hư không liền khai ngộ, chấm dứt nỗi khổ thế gian kia cũng không còn sanh lại, trừ tận gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Bấy giờ chúng sanh loại ngồi trên tòa, người tham ưa pháp, ý không khai ngộ liền tự nghĩ: “Nay ý ta muốn pháp cực diệu. Hôm nay bậc Đại thánh chỉ nói cảm xúc trơn mịn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập Vô lượng pháp giới định ý tam muội chánh thọ hóa đất đai, sông núi, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều giảng nói sáu pháp Ba la mật, không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, sanh diệt, chấp đoạn đều vô sở hữu.

Có khi Bồ tát quán hướng tâm ý của chúng sanh liền giả đặt kế phương tiện tự do thị hiện, hoặc ẩn thân sắc tướng, bay lên hư không hiển bày mười tám thứ biến hóa, qua lại trên hư không không bị ngăn ngại; hoặc hóa hiện quốc độ, thành ấp diễn nói Phật pháp khiến chúng sanh loại đạt được chánh định bất tư nghị của chư Phật. lúc bấy giờ, nhân dân ở trong thành ấp do Bồ tát hóa hiện, mỗi người đều không có tâm hiềm hận, cùng kính trọng nhau như cha mẹ, anh em; biết khiêm cung, tự hạ, luôn cung kính bậc trưởng thượng. Khi đó Bồ tát lại nhập Vô dụ quang minh làm cho các Bồ tát nhập ánh sáng này ngồi kiết già hoặc ngồi trên tòa cao, hoặc ngôi trên tòa sen đầy khắp thế giới không có nơi nào không có, hoặc hiện thân Phật ngồi trên hoa sen báu đều diễn nói sáu pháp Ba la mật của chư Phật, pháp không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát. Bồ tát lại dùng mười tám pháp bất cộng, bốn pháp vô sở úy của Như Lai gia bị cho chúng sanh khiến mỗi người đều được độ. Bấy giờ Bồ tát lại dùng sức thần túc phóng ánh sáng lớn, hiện rõ ức trăm ngàn cõi nước thế giới của chư Phật. Mỗi ánh sáng dẫn đến chỗ ức trăm ngàn chúng sanh. Họ nương theo ánh sáng đến đó nghe pháp nên được độ. Mỗi lỗ chân lông (của Bồ tát) có mười ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có mười ức quốc độ. Hóa quốc độ đó tự nhiên có, tự nhiên hiện ngọc báu ma ni, dùng các loại báu quý hiếm để chạm trổ trang hoàng trong nước. Ngọc báu ma ni treo trên hư không cách đất mười nhận. Ánh quang của ngọc ấy sáng tỏ soi chiếu khắp nơi. Lại có ngọc báu ma ni lạ thường dùng để trang nghiêm. Trên mỗi vật báu có mười ức hằng hà sa các quốc độ Phật, mười ức trăm ngàn lầu quán, đài gác. Mỗi lầu quán có mười ức trăm ngàn tòa sư tử liên hoa báu ở cõi Phật. Mỗi tòa sư tử có mười ức trăm ngàn thần bảo liên hoa của quốc độ. Trên mỗi hoa sen có mười ức trăm ngàn Đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử. Mỗi Đức Như Lai phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười ức trăm ngàn cõi Phật. Mỗi cõi Phật có mười ức trăm ngàn công đức sư tử vô úy của Như Lai. Mỗi công đức vô úy có mười ức trăm ngàn chúng sanh cư trụ. Mỗi chúng sanh có mười ức trăm ngàn câu Pháp cú nghĩa tam muội và các pháp của Phật. Mỗi câu Pháp cú nghĩa tam muội có ức trăm ngàn kinh pháp theo đó thiêu đốt trần lao. Cho đến các pháp môn thiền định cũng như vậy, trong mỗi pháp môn diễn nói vô lượng trí, tướng mạo, pháp bất thoái chuyển, vô số loại trí nghĩa vị không đồng. Trong mỗi pháp luân được chuyển đều độ cho mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi quốc độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi quốc độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn cõi Phật, mỗi quốc độ biến hóa tự có hướng thiện ác đưa chúng sanh loại đồng đến Phật đạo. Bồ tát Đại sĩ nhập tam muội này tự hiện vô lượng oai thần biến hóa, cảnh giới tam muội chưa từng có, chưa từng thấy; những pháp biến hóa vô cùng lạ thường, chẳng phải pháp mà tâm ước lượng, chẳng phải pháp mà ý vẽ ra. Pháp đó, trong, ngoài, trung gian đều không xứ sở không thấy lúc đến cũng không thấy lúc đi. Vì sao như vậy? Đó là vì thể tự nhiên của các pháp. Bồ tát tu hành trăm kiếp muốn chấm dứt cấu uế của mình, thực hành thệ nguyện của Như Lai gia hộ chúng sanh, Bồ tát lại ở trong vô hạn lượng số kiếp không chấp, không trụ cũng không bị nhiễm; lại cũng không thể lập thành danh tự, suy tìm căn bổn vĩnh viễn không có xứ sở. Nếu có người muốn giả đặt phương tiện suy tư tìm kiếm cứu cánh của định này, biến hóa tạo ra hình tướng, nghĩa lý vô cùng sâu xa không thể nghĩ bàn thì mới chính là tương ưng với sự tu tập pháp của chư Phật, chẳng phải pháp mà hàng La hán, Bích chi Phật tu tập.

Này Tối Thắng, Bồ tát lại phải tư duy lý đó. Bồ tát nhẫn nại khó khổ dạo trong tám nạn, quán tâm chúng sanh có ý ái dục, có người nhiều dục, có người ít dục đều biết tất cả. Có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay có ít, Bồ tát đều biết tất cả. Nếu chúng sanh kia có tâm ái dục, mê đắm nữ sắc, suy tư đo lường đẹp, béo, trắng; tâm vui thích không thể xa lìa, khi ấy Bồ tát lại giả hiện phương tiện, rộng bày phương kế vì họ thị hiện để họ quán tưởng, ngộ rõ đường ác, bất tịnh. Bồ tát ở trước chúng sanh hiện thân vô thường, bốn đại tan rã phơi bày tứ tán. Một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày hình thể sình trương hôi thối không sạch, hoặc thây chết máu thịt tiêu hủy, gân xương còn dính liền nhau. Bồ tát lại hiện vô số loại hình biến hóa khác, hoặc hiện xương sọ, xương tay chân mỗi thứ ở một nơi, lâu ngày biến chuyển trắng tợ như màu lông chim bồ câu, ngày tháng trôi qua lâu thì nát tan trở lại như đất. Bồ tát khiến chúng sanh quán như vậy xong, họ liền tự khai ngộ biết dục là sai lầm, biết rõ hạnh phàm phu đọa vào đường ác, chẳng thể quay về chánh đạo nên tâm hối hận tự cải đổi, không theo nghiệp trước mới hợp với pháp của Bồ tát, tôn kính tu tập phạm hạnh, thể nhập cõi thanh tịnh, tẩy rửa cấu uế dâm dục, tu luyện thần khí, thành tựu pháp vô thượng chí chơn chánh giác, thanh tịnh quốc độ của mình, giáo dưỡng chúng sanh. Đó là Bồ tát quán tâm ái dục rồi nói pháp khiến họ được thành tựu đạo quả. Bồ tát phải biết, nếu có chúng sanh không có tâm ái dục, ý ràng buộc theo Tiểu thừa không theo Đại thừa thì Bồ tát khuyến trợ họ thành tựu đạo Bình đẳng Chánh giác, dùng pháp trí tuệ bất nhị hướng đạo, chỉ dẫn cho họ biết con đường chánh, an lập nơi Đại thừa không chấp nê nơi đạo Tiểu thừa. Họ từ vô số kiếp tích công lập đức, tu thiện không mệt mỏi nhưng tâm ý mê mờ sai lầm, không phân biệt chơn ngụy nên nay mới tự ngộ biết không đến được cứu cánh. Thế nào là đạo bất nhị của Bồ tát? Bồ tát tu hành đạo bất nhị thường thanh tịnh mà không trụ chấp tịnh, trong tâm thanh tịnh, bên ngoài dạo chơi hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát luôn tịch tĩnh mà bên ngoài hiện như loạn động, ở trong tịch tĩnh dạo chơi mà hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát nhập định xưa nay chưa từng sai lầm, từ định ý khởi, ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát từ xưa bố thí tâm không hối tiếc, giữ gìn tâm ý kiên cố không nghĩ tưởng quả báo, ngoài giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ bỏ ba tưởng. Đó là đạo bất nhị. Giới luật của Bồ tát xưa nay chưa từng khiếm khuyết, lại dùng luật cấm ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Trí tuệ giáo hóa của Bồ tát thật không giới hạn, bên trong kiểm soát tâm ý khiến không phân tán cũng dùng pháp đó giáo hóa chúng sanh khiến họ vượt qua đất rộng, không rơi vào đầm lo sầu. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát tu tập chánh định tam muội nhẫn nhục, thị hiện thân ở nơi núi đầm, chốn không người tinh cần tu tập khổ hạnh, hoặc ở gần thôn xóm hiện thân đi khất thực; hoặc trải qua một năm cho đến trăm ngàn năm, hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, ở trong đó thị hiện thân nhận lãnh vô lượng khổ. Khi đó nhân và phi nhân ở trong núi, hoặc loài quỷ La sát có hai chân, bốn chân, vô số chân, mỗi tên đều cầm dao gậy đến xúc phạm Bồ tát. Hoặc dùng dao bén cắt mũi Bồ tát. Mũi Bồ tát rơi xuống lại mọc trở lại như quả Diêm phù. Tối Thắng nên biết, quả Diêm phù kia nếu hái một trái thì sanh ra hai trái, hái hai trái thì sanh ra bốn trái, hái bốn trái thì sanh ra tám trái, hái tám trái thì sanh ra mười sáu trái, hái mười sáu trái thì sanh ra ba mươi hai trái. Lần lượt như vậy, cây toàn là trái, không còn thấy thân cây cũng không thấy cành lá, nhánh ngọn. Bồ tát nhập định tu tập nhẫn như thế. Nếu có người đến cắt mũi Bồ tát, cắt một thì sanh hai, cắt hai thì sanh bốn, cắt bốn thì sanh tám, cắt tám thì sanh mười sáu, cắt mười sáu thì sanh ba mươi hai. Lần lượt như vậy, thân toàn là mũi không còn thấy thân hình, cũng không thấy tay, chân, đầu, mắt. Chúng sanh chỉ thấy vô số mũi, ngay lúc đó sanh niệm hối hận vì đã cắt mũi Bồ tát, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ tát. Khi đó Bồ tát xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện trở lại thân hình như trước không khác, từ từ cử động hiện hơi thở ra vào, lại mở mắt như có lời muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợpđộ thoát cho họ. Bồ tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.

Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ tát cùng vây quanh mà móc mắt Bồ tát. Mắt rơi ra liền sanh trở lại. Ví như giã nát ngọc lưu ly thanh bột nếu có người muốn nhặt tất cả bột lưu ly đó thì không thể được, ví như vô số quả Tỳ la rải đầy trên đất, giã nát như hột cải không thể lượm nhặt lên được nhưng mỗi hạt đều có ánh sáng phản chiếu với nhau, chúng sanh chỉ thấy thân thể Bồ tát toàn là mắt, không còn thấy thân thể tướng mạo lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hậnviệc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ tát. Khi ấy Bồ tát xả tam muội, tâm ý an tườngtừ định khởi, hiện thân trở lại như cũ không khác, từ từ cử động thị hiện hơi thở ra vào như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc xuống đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợpđộ thoát cho họ. Sau đó Bồ tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.

Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ tát tay cầm dao bén chặt đứt chân tay Bồ tát. Chân tay Bồ tát sanh ra lại như cây Cù đa la. Cây Cù đa la kia, nếu có người đến đốn chặt cành lá, nhánh ngọn thì các nhánh cây bị chặt rời khắp trên đất trong khoảnh khắc khảy móng tay theo hơi đất sống lại như cũ. Mỗi cành lá, nhánh ngọn đều thành cây. Khi ấy Bồ tát cũng nưh vậy, toàn thân đều là các chi chân tay không còn thấy thân hình lúc trước. Chúng sanh chỉ thấy toàn chân tay trên thân Bồ tát, không còn thấy hình tướng của thân lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hậnviệc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân hình lúc trước của Bồ tát. Bồ tát liền xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện thân hình trở lại như trước không khác, từ từ cử động, hiện hơi thở ra vào, mở mắt như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh tùy thời thích hợpđộ thoát cho họ. Đó là nói Bồ tát với người có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có nhiều hay ít đều biết tất cả. Bồ tát cũng không tự nghĩ: “Ta ở trong trần lao hao phí công sức của mình”, cũng không nghĩ: “Các chúng sanh này dễ khuyến dụ”. Bồ tát làm mà không thấy làm cũng không thấy có người nhận lãnh lời dạy. Hai việc làm và giảng dạy tự thể đều là tự thể đều là hư tịch. Bồ tát không thấy là một, cũng không thấy là chẳng phải một. Một tự thể chẳng phải một, huống chi nói có một gọi là một pháp. Tự đặt tên gọi giả nói là mắt. Mắt tự thể của nó là tên gọi giả. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sắc, thanh, hương, vị, cảm xúc trơn mịn, và pháp cũng như vậy. Ngôn từBồ tát dùng để nói một pháp đó là muốn khai pháp môn, mở bày vô lượng cửa dẫn đến pháp Vô nhằm giáo huấn chúng sanh.

Bấy giờ ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Thế nào là chúng sanh có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít, Bồ tát đều biết tất cả?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát Đại sĩ dạo đến thế giới vô lượng cõi Phật, ở mỗi cõi Phật quán sát loại chúng sanh hữu hình, các loài bò, bay, máy, cựa; loài sâu bọ, loài có hơi thở cho đến loài kiến có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều phân biệt, suy tính rồi cho thuốc. Nếu có chúng sanh nhiều nóng giận thì hiện hóa để chỉ rõ pháp khổ, không, vô thường; hoặc hiện ra cảnh thú, trùng nhai nuốt, rúc rỉa; hoặc hiện cảnh họa giặc cướp, binh đao; hoặc hiện cảnh nạn nước, lửa thiêu cháy. Các biến hóa như thế không thể tính kể. Nếu tâm chúng sanh đó giác ngộ thì Bồ tát tùy theo đó giáo giới. Chúng sanh nhận lãnh lời giáo hóa liền ở nơi đó được độ thoát. Nếu có chúng sanh thấy cảnh biến hóa vô thườngtâm không giác ngộ thì khi ấy Bồ tát lại dùng tuệ phương tiện nhập Nhẫn tam muội; tam muội đó tên là Vô thường quán. Lại có tam muội tên Từ hàng phục khử khuể tam muội. Nếu Đại Bồ tát nhập tam muội chánh thọ đó thì có thể hàng phục, trừ bỏ tâm nóng giận. Nếu có loại chúng sanh cực ác như quỷ thần La sát, cọp sói, giặc cướp tệ ác đến chỗ Bồ tát muốn làm hại thì chưa đến nơi, ở giữa đường liền quay trở lại. Do vậy nên sức của Từ định che chở khắp thế giới, ức cai cõi đều nương nhờ tế độ. Người thể nhập được Từ tam muội có mười pháp độ. Mười pháp ấy là gì? Đó là trí tuệ thậm thâm thực hành vô lượng nghiệp. Nhớ rõ pháp Tổng trì, tâm khó ngăn ngại, phá hoại. Tự thân không có tính lường, dùng pháp giới để lường tính mà thể nhập vào vô lượng pháp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã tu tập; dùng pháp ấn vô thượng để ấn chứng. Nương tựa lực Như Lai làm tăng trưởng lợi ích cõi Phật. luôn tự lập chí tịnh tu đạo tràng, kiến lập nghiệp Bồ tát. Người thực hành như thế là tương ưng với pháp luật, tương ưng với vô sở sanh, mắt được khai mở đột nhiên đại ngộ. Mắt tuệ thanh tịnh ĩnh viễn không còn bị bụi trần làm mờ mắt, đạt được chủng tánh của mắt. Được mắt thanh tịnh của Phật, mắt tuệ tối thượng, mắt thấy sâu xa, mắt pháp thường định, mắt thiện tri thức dùng làm bảo hộ, mắt đạo thậm thâm; đạt mắt biện tài, lời nói không ngăn ngại; đạt được mắt không còn si, tâm không phân biệt bỉ thử cũng không do dự; thể nhập mắt pháp môn hướng dẫn cho chúng sanh mù tối, phân biệt ý nghĩa mở bày pháp môn cam lộ, gần gũi chơn thiện tri thức, thành tựu tâm đạo, cảnh giới đã chứng không thể chướng ngại cũng không người nào có thể hủy hoại. Đó gọi là Bồ tát phân biệt các nhãn thành tựu đạo nghiệp làm bạn lành cho người thế gian, hiển bày oai tướng, làm chỗ yên vui cho kẻ chưa sanh niệm lành, dùng pháp giáo hóa làm cho chúng sanh an lập căn lành vô ngại, công đức thanh tịnh sở nguyện tất có quả báo, nuôi dưỡng pháp chơn chánh gặp pháp giải thoát, đoạn trừ lưới si, nổi mây dày trí tuệ khắp cả cõi hư không, dùng pháp Hiền Thánh ngộ rõ tâm cấu uế, chí nguyện đã phát luôn hiện tiền, tâm niệm đã phát trọn không có nạn si, tín căn kiên cố, công nghiệp vô tận, gần gũi tôn thờ chư Phật, trừ bỏ tưởng khổ vui, tu tập tâm đạo sâu xa, đạt tuệ báu quý, cung phụng bậc trí như hương hoa vi diệu được gió thổi đi khắp nơi cho mọi người được nghe pháp, khiến người có tâm cấu ác đều được thanh tịnh. Tối Thắng nên biết, nay Ta ở trong cõi Diêm phù lợi, tại quốc thành Tỳ Xá Ly này, Ta dùng mắt thịt quán cõi nước ở các phương thấy khổ não, sầu lo không nơi nào hơn xứ này nhưng lại ở đây hiện chủng tánh Như Lai. Hiện nay chúng sanh ở đó không có hương thơm, chỉ có mùi hôi thối. Mùi xú uế ấy xong lên tận mười tám do diên trên hư không. Chư Thiên vốn là người, người là mầm gốc của chư Thiên. Chư Thiên ấy cũng biết quán túc mạng: “Công đức ta đã tích tập đều từ thân người. Nếu không từ thân người gieo trồng gốc công đức thì không thể có phước báo”. Tối Thắng nên biết, khi ấy chư Thiên mỗi vị đều tụ lại có ý muốn xuống thế gian nên đều bay trên hư không. Khí hôi thối ấy kết thành mây dày khắp nơi. Chư Thiên ngửi mùi tanh hôi bất tịnh của thế gian liền quay trở lại không xuống nhân gian. Vì vậy nên người có mùi hương tinh khiết không thể kham trụ ở đó. Bồ tát Đại sĩ thực hành tâm đại từ bi khi giáo hóa không chọn lựa quốc độ là thơm hay thối, là tịnh hay bất tịnh, cũng không có tâm nghĩ rằng: “Ta nay ưa muốn kham nhẫn giáo hóa nơi dó, không kham nhẫn giáo hóa nơi kia”. Như Ta ngày nay ở tại đây, cõi Nhẫn, giáo hóa chúng sanh duyên đã hoàn tất. Chư Như Lai Đẳng Chánh Giácmười phương đều từ xa khen ngợi, mỗi vị tự ở thế giới của mình bảo với bốn bộ chúng: “Ở phương đó, chỗ đó có Đức Phật tên đó, danh hiệuNăng Nhân Như Lai trụ tại cõi Nhẫn đó như trụ trong năm đỉnh nước sôi, trong năm ngọn kích sắt bén nhọn, trong năm lưỡi dao kiếm, trong năm ngọn lửa cháy dữ dội, trong năm đường hoảng loạn, trong năm chỗ không thể cứu, trong năm gánh nặng nạn tai. Đức Phật ấy có thể trụ trong đó giáo huấn chúng sanh thật là kỳ diệu, phân biệt các pháp Ba la mật Hiền Thánh”. Chư Thiên thanh tịnh thân không cấu uế đến nơi gặp mây hôi thối liền quay trở lại trời, về trong cung điện ra hậu viên, vào trong ao Vô ưu bảy ngày bảy đêm tự tắm gội mà vẫn lo mùi hôi thối cõi người vương bám trên thân, tâm không còn ưa thích muốn dạo chơi cõi người. Khi ấy hương của chư Thiên theo gió bay xa, lan xuống cõi hư không một vạn tám ngàn do tuân. Hương ấy lại còn lan xuống hơn số đó, gặp khí nùi liền lan xuống cõi hư không, mùi hương thơm đến tận hai ngàn do tuần. Chư Thiên tuy có hương công đức nhưng không bằng hương trì giới của bậc vô dục. Bồ tát phải quán phước lộc ẩm thực của chư Thiênvĩnh cửu nhưng khi phước hết mới hối hận thì đã không kịp, nên chỉ ham muốncõi người hưng khởi nghiệp công đức. Khi ấy ý chẳng lẽ còn thấy có hương thơm, mùi thối hay sao. Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, tuy ở trong năm ngọn lửa cháy khổ não dữ dội, tâm vẫn không mệt mỏi, nhàm chán cũng không hối hận, ý luôn nhớ nghĩ độ thoát chúng sanh. Nếu có bậc Hiền Thánh thần thông dùng thần lực của mình đưa một người phàm lên cõi hương xông ướp ở hư không rồi đưa trở lại nhân gian, khí hương xông ướp trên thân thể người ấy suốt hai mươi mốt ngày mới tan. Giới đức trọn vẹn của bậc vô dục trải qua nhiều kiếp hương giới đức ấy hoàn toàn không mất. Thế nên bậc Bồ tát Đại sĩ đồng trụ với thế gian, ở lâu dài tại thế gian, lại ở thế gian làm ngọn đuốc sáng, tuy cần lao mà không cho là khổ, ý đạo hưng thạnh, tâm không khuyết giảm. Đó gọi là Bồ tát quán sát chúng sanh có tâm nóng giận hay không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều biết tất cả.

Khi ấy ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ tát nhất tâm tư duy quán sát chúng sanh có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay ít đều biết tất cả?

Đức Phật dạy:

- Khi đó Bồ tát nhập Minh tuệ chánh thọ tam muội quán khắp thế giới đến tận bờ mé hư không. Ở trong đó có loại chúng sanh một chân, hai chân cho đến vô số chân, trời, rồng, quỷ, thần, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, nhân hay phi nhân đều biết rõ căn duyên của họ, phân biệt rõ ràng chi tiết, suy tư sâu xa thấy rõ một cách rốt ráo như thật. Nếu có chúng sanh nhiều ngu si thì vì họ lập phương tiện diễn nói pháp mười hai nhân duyên căn bổn: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Cánh lạc (Xúc), Cánh lạc duyên Thống (Thọ), Thống duyên Ái, Ái duyên Thọ (Thủ), Thọ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên lão, tử, sầu ưu khổ não. Với người có tâm loạn tưởng, bất tịnh thì dùng trí vô tận diễn nói pháp thuận nghịch: Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì Cánh lạc (Xúc) diệt, Cánh lạc diệt thì Thống (Thọ) diệt, Thống diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thọ (Thủ) diệt, Thọ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sanh diệt, Sanh diệt thì Tử diệt, Tử diệt thì không còn sầu lo, khổ não, các hành bất tịnh nữa. Lậu là họa lớn, Niết bànvi diệu. Bồ tát quán các tướng mạo rồi vì họ diễn nói pahsp cứu cánh chấm dứt nguồn cội khổ như thế. Nếu có chúng sanh tâm si sâu dày, thức không sáng suốt thì Bồ tát dần dần đưa họ vào đạo, dẫn đến nơi an tĩnh, lại giảng rõ pháp Bổn vô, pháp không sanh diệt, pháp không chấp đoạn, phân biệt tướng hưng suy của ba đời. Thức của họ không thể diệt si hành quá khứ nên Bồ tát mở bày pháp môn soi sáng làm xuất hiện diệu trí, hưng khởi đầy đủ công đức Phật đạo, không bỏ việc làm thiện tri thức của Bồ tát, thường đến pháp đường nhàn tĩnh của Bồ tát, quán nhập pháp thâm yếu của các Đức Như Lai. Lại phải tư duy mười pháp kiên cố. Thế nào là tư duy mười pháp kiên cố? Gần gũi Pháp thân Phật tạng, thâu nhiếp niệm không thể nghĩ bàn lại thành một. Ngộ rõ Không, không niệm cũng không thấy có nhiều, tự khởi tự diệt cũng không có chủ, các công hạnh đã làm không có đầu mối, không thể hộ trì phát sanh các đạo. Cảnh giới hư không của pháp giới cũng không cùng tận. Cởi bỏ sự ràng buộc, tự cởi bỏ tâm chấp trước chúng sanh; nương căn lành thành tựu Nhất thiết trí. Siêu việt cảnh giới, thành tựu tất cả trí tuệ vô lượng, trí tuệ mẫn tiệp; tâm sung mãn nguyện Bồ tát. Thực hành theo ngôn hạnh đã làm của chư Bồ tát thanh tịnh, chưa từng quên mất nghĩa lý giáo pháp của Như Lai. Không bỏ tướng của tất cả pháp tánh, những pháp nhỏ nhiệm ý đã thể nhập không sai lầm. Tâm như sức kim cương không thể phá hoại. Với pháp thù thắng biệt truyền của Bồ tát mà chư Phật đã trao truyền không có chúng sanh nào đáng có thể độ. Pháp bất nhị đã nói không thể chuyển dời. Đó gọi là mười pháp kiên cố của Bồ tát mau thành tựu đạo quả, giữ đạo không khó.

Này Tối Thắng, dó gọi là pháp thượng diệu vô tận của Bồ tát, cần phải nhớ nghĩ tu hành.

 

 

 

Phẩm 20: TAM ĐẠO DIỆT ĐỘ

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng chắp tay, ở trước Đức Phật thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn, đạo đức của Đức Như Lai Chí Chơn không giới hạn, không nương vào cửa đạo cầu giải thoát, tâm cung kính ưa thích tinh tấn tu học nơi thanh tịnhpháp kim cang tam muội không thể xưng lường. Nay con nghe Như Lai nói diệt độ, thanh tịnh ba đường quy thành một càng không có hai tên cũng không chấp trước hai. Nếu suy tư như vậy thì cần gì phải cầu đạo Vô thượng chí chơn? Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn vì chúng con giảng rõ để tâm của những người khát ngưỡng đạo từ bỏ nhận thức sai lầm.

Khi đó Thế Tôn quay kim thân về bốn hướng, mắt chăm chú nhìn các vị trong hội, thấy chúng hội đều tịch tĩnh vô danh, mỗi người đều không có các niệm, rồi lại nhìn ngài Tối Thắng bảo:

- Câu ông hỏi thật tốt lành, thật khó được nghe! Như Lai sẽ vì ông mà giảng rõ để người học đạo ở tương lai vĩnh viễn không còn do dự.

Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:

- Con ưa muốn nghe.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Gốc đạo thanh tịnh không sanh cành nhánh uế trược. Vì thể tánh thanh tịnh nên các pháp thanh tịnh. Lại nữa, với pháp tánh thanh tịnh phải dần dần phân biện hữu số và vô số. Vô số tịnh thì đạt được ba đời tịnh. Vì liễu tri ba đời nên quán ba cõi là Không. Đó gọi là Vi tịnh tam muội. Tối Thắng nên biết, pháp diệt độ của ba đường, phẩm của chúng không đồng, chí hướng mỗi pháp khác nhau. Thân là gốc cấu uế, niệm là ao cấu uế, tưởng là bụi trần lao, thức là chủ ràng buộc. Diệt một còn ba thì không đạt đến thanh tịnh. Diệt hai còn hai cũng không đạt đến thanh tịnh. Diệt ba còn một cũng không đạt đến thanh tịnh. Diệt bốn còn lại Không mới đạt đến thanh tịnh. Nhất thiết trí thanh tịnh cũng vậy, từ sơ đạo tích lên đến tận quả Vô trước, lại từ Nhất trụ địa đến Thập trụ địa đều diệt bốn, trở về bốn quy, bốn ngại. Thế nào là bốn? Bốn pháp đó là: Thân là gốc cấu uế, phàm phu đều có. Niệm là ao cấu uế chảy ra bốn dòng phóng dật. Tưởng là bụi trần lao làm khởi lên tám vạn niệm ái. Thức là chủ ràng buộc bó buộc tam hữu. Vì thế nên bậc Đại thánh thị hiện có ba đường dường như có hơn kém nhưng thật ra hóa độ chúng sanh diệt trừ vô số pháp sai biệt, đạo ở Niết bàn không lìa hư tịch. Niết bàn của Bồ tát lấy độ người làm danh. Niết bàn của Bích chi Phật hiện thần túc làm danh. Niết bàn của Thanh văn hiện kém hẹp làm danh. Lại nữa, này Tối Thắng, Niết bàn của Bồ tát lấy từ, bi, hỷ, hộ (xả) để giáo dưỡng chúng sanh, lập phương tiện hướng dẫn một người vào đạo, kiểm thúc thân tâm, các căn điều hòa an vui vô cùng an lạc. Ngay khi đó ý thức được an tĩnh giải thoát, không còn niệm thế gian, các tình thức đều thanh tịnh; thanh tịnh như Niết bàn vĩnh tận, nhưng không sở hữu. Đó gọi là vô niệm, tương ưng với vô sở niệm cũng không thấy niệm, niệm cũng là vô niệm. Người học pháp vô niệm, học cũng như không học. Sắc cũng là vô sắc, cũng không thấy sắc. Tâm, ý, thức, niệm cũng không suy nghĩ phân biệt. Từ thân năm ấm mới đạt đến vô hình. Pháp thể thanh tịnh không thấy có niệm mà là vô sở niệm. Tối Thắng nên biết, phàm nói Niết bàn thì Niết bàn như vậy chẳng lẽ là xa vời hay sao!? Chớ quán như vậy! Vì sao? Vì thể tánh của pháp vô niệm là vô hình, quán thể tánh đó chính là Niết bàn. Thể tánh của Niết bàn chính là pháp quán, là một chứ không phải hai cũng không có sai biệt. Niết bàn vô danh nên không thể thấy, cũng không thể lập tên gọi Niết bàn. Này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ học đạo Niết bàn thanh tịnh đó thì mới tương ưng với đạo, tương ưng với niệm vô niệm.

Này Tối Thắng, ông lại phải phân biệt, Bồ tát Đại sĩ muốn tu hành liễu đạt đạo thanh tịnh, thể tánh của Niết bàn đó thì phải tu hạnh thanh tịnh. Thế nào là Bồ tát tu tập thanh tịnh hạnh của mình? Đó là luôn làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không tỳ vết cấu uế. Thế nào là thân thanh tịnh không tỳ vết cấu uế? Khi đó thân Bồ tát đã thanh tịnh nên ngộ rõ các cảnh ngoài thân cũng thanh tịnh, tự thân hư tịch nên ngộ rõ các thân là Không, thân tịch tĩnh thì biết các thân cũng tịch tĩnh, tự thân giải thoát thì các thân cũng như vậy. Bồ tát lại phải tư duy quán pháp, liễu tri giải đãi cũng là không giải đãi. Tự thân không kiêu mạn thì đạo chẳng lẽ có kiêu mạn? Cho nên Bồ tát ngộ rõ thân không có mạn. Bồ tát khởi niệm quán pháp ác của thế gian, thấy thân như hình bóng, tiếng vang, không thấy tưởng thanh tịnh, đạt niệm thanh tịnh vô tưởng thì mới tương ưng với Niết bàn. Đó gọi là đạo Niết bàn thanh tịnh không sai biệt của Đại Bồ tát.

Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:

- Thế nào là thể tánh thanh tịnh vô dục, dục mà không dục của Bồ tát?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Bồ tát Đại sĩ dạo trong năm đường, lưu chuyển trong sanh tử, phương tiện thị hiện đúng thời thích hợp, có khi nói thân thanh tịnh tức luận về vô sanh, thấy sanh tử là không sanh tử, ngộ rõ biết là vô sanh. Sanh và tử là một chứ không khác cũng không có vô số tên gọi sai biệt. Bồ tát lại phải phân biệtthân hành, thông đạt vô sanh, thấy sanh tử bình đẳng thì biết thân hành đạt nội ngoại pháp. Thân hành là gì? sự hưng suy của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ không dấu tích, hiện tạivô ký, tương lai không danh hiệu. Lại nữa, này Tối Thắng, quá khứ vĩnh viễn diệt tận, tương lai thì vô cùng, hiện tại thì đang dời chuyển, Bồ tát cũng phải tư duy pháp tận và bất tận. Thế nào là tư duy pháp tận và bất tận? Khi ấy Bồ tát phân biệt, thông đạt hoàn toàn tịnh tưởng hư không đều là vô tận, giải thoát vắng lặng không có tưởng niệm. Người có tưởng niệm đối với giới luật Hiền Thánh chính là có sự thiếu sót hơn.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Thuở trước Ta thành Phật ngồi dưới cội đạo thọ bảy ngày bảy đêm quán cội cây ấy không rời, tâm nhớ lại hằng sa chư Phật quá khứ do tự giác ngộ pháp gì nên đạt được pháp gì. Này Tối Thắng, khi ấy Ta lại nhớ chư Phật quá khứ lâu xa về trước thể đạt thân pháp rồi mới đắc quả Tối Chánh Giác. Nhân duyên hội họp có thức, có tưởng cũng không thấy, chấp đoạn sanh diệt. Như thế, này Tối Thắng, người quán như thế thì gọi là thân pháp. Hễ thân tịnh thì đều quy về biển trí. Tối Thắng nên biết, ý nghĩa của quy về biển, việc ấy có mười nghĩa. Mười nghĩa ấy là gì? Một là quy về biển của Phật quán pháp không hình tướng. Quy về biển chúng sanh vượt qua nạn hữu. Quy về biển pháp vì tu tập các trí. Quy về biển phước điền lập giáo vô căn. Quy về biển ấm thị hiện pháp do uế. Quy về biển trí tuệ phân biệt vô số phương pháp giáo giới. Quy về biển nghĩa căn bổn vì tăng lớn căn lành. Quy về biển trụ tâm liễu tri vô số niệm khởi trong tâm ý chúng sanh, ngộ vô lượng, biết vô ngại. Quy về biển hạnh vì không trái nguyện. Quy về biển hoằng thệ biết rốt ráo nguồn gốc sanh tử. Này Tối Thắng, đó là ý nghĩa của mười cửa quy về của Đại Bồ tát, phải nhớ nghĩ tu hành thì đều quy về pháp thân vô lậu của Như Lai. Bồ tát lại phải quán thân vô lậu của Như Lai không trụ Bổn vô, không rơi vào ba cõi, biết rõ Bổn vô là một pháp thân. Quán thân vô lậu như trụ Bổn vô, trụ mà không thấy trụ cũng không có pháp trụ. Dùng thân vô lậu vào biển sanh tử, thị hiện sắc thân như khôngsắc thân, không bờ mé, không hình tướng, không thể thấy được. Sắc thân đã diệt cũng không thấy diệt, cũng không thấy pháp Bổn vô của sanh thân như trụ Bổn vô. Thân thanh tịnh của Như Lai cũng không có tỳ về dơ uế, vào chỗ chúng sanh thì tùy theo hình chất của chúng sanh, theo tướng của chúng sanhthị hiện, biết rõ sự thanh tịnh của thân chúng sanh. Tự thân thanh tịnh thì thân chúng sanh thanh tịnh, là một chứ không phải hai cũng không phải nhiều thân. Pháp Bổnbình đẳng. Pháp Bổn vô không có đạo, không thấy có đạo, cũng không có pháp thế gian, pháp hữu lậu hay vô lậu; cũng không thấy có giáo giới ba thừa là La hán, Bích chi Phật, Bồ tátPhật đạo; cũng không thấy mười phương, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. Đối với các đạo pháp Hiền Thánh đều không bị chấp trước. Đó gọi là Bồ tát thực hành tương ưng với thanh tịnh, tương ưng với vô sở ưng. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy khẩu ngôn thanh tịnh. Thế nào là lời nói của miệng tương ưng với thanh tịnh? Lúc đó Bồ tát nhập Hư không giới thanh tịnh tam muội quán khắp ba ngàn thế giới, trong đó có loại chúng sanh hữu hình, tất cả hiền hay ngu, thanh bạch hay xấu xa đều quy về Không, đều là thanh tịnh. Bồ tát lại phải tư duy đẳng quán; ở trong pháp đệ nhất nghĩa không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng. Vì sao? Vì quán tướng bình đẳng thì không thấy bình đẳng cùng với không bình đẳng, tướng cùng với vô tướng. Bồ tát lại dùng tướng bình đẳng quán sát các pháp, không thấy đạo phápkhông giới hạn, không thấy pháp thế gian là có giới hạn, không thấy Hiền Thánh siêu việt tam hữu, không thấy sức phàm phu kém hẹp. Tối Thắng nên biết, Bồ tát phân biệt âm thanh thanh tịnh, không chấp trước niệm tưởng chúng sanh, khéo quán sát âm thanh, quán rõ là không có tiếng vang; không thấy buồn vui là thường hay vô thường, vui trong pháp điên đảo hay pháp không điên đảo. Bồ tát biết rõ pháp tất cả pháp của chúng sanh đều thanh tịnh, không dục nhiễm cũng không chấp đoạn sanh diệt, không có ba độc căn bổn dâm, nộ, si. Bồ tát lại phải quán sát mười hai pháp nhân duyên, mười tám pháp bổn trì, từ si đến tử đều là thanh tịnh. Si cũng không biết Hành do ta tạo, Hành cũng không biết do si mà hiện hữu. Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt. Pháp không thấy pháp thì sao lại có Si, Hành. Như vậy, này Tối Thắng, pháp không biết pháp, sanh là sanh, diệt là diệt. Pháp không tự biết sanh cùng với vô sanh, diệt cùng với bất diệt cho nên nói là không chấp đoạn sanh diệt.

Khi ấy Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Si, Hành ba đời theo thân quay lại, có thân thì có Hành sanh theo, không có thân thì Hành diệt, cho đến lão, tử cũng như vậy. Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng rõ điều nghi này để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn tâm nghi.

Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Si không làm nhiễm thân, thân không nhiễm si. Si cũng không thấy ta có thân, thân cũng không thấy ta có si, cả hai đều thanh tịnh, cũng không có ngô ngã nên nói ngã tự nó là hư tịch. Đó gọi là tất cả pháp Bồ tátthanh tịnh. Đã nói là thanh tịnh thì sao lại có lời phải, sao lại có lời quấy? Lời nói không ở trong cũng không ở bên ngoài, không thấy lời nói có ra, có vào thì sẽ đầy đủ mười nghĩa kiên cố, phân biệt thú hướng chủng ấm của chúng sanh. Mười nghĩa ấy là gì? Khi ấy Bồ táthóa độ chúng sanh nên trước cầu pháp giải thoát, vì tinh tấn không chấp trước nên hiện vô số biến háo, vì dùng Nhất thiết pháp Không nên hiện lực vô ngại, vì ở trong tất cả pháp được tự tại nên hiện Tức ý lực, vì không chuyển nên hiện tâm ý thức hồi chuyển, vì nghĩa vị nên phân biệt, vì hiển bày trí tuệ nên hiện tự tánh pháp lực, vì nói pháp cho chúng sanh nên phân biệt nghĩa vị, vì an trụ Chánh pháp nên hiện sức vô úy, vì hiển bày tất cả trí vô lượng nên hiện biện tài, vì bất nhị nên hiện lực bất nhị. Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ tát phân biệt thú hướng chủng tánh của chúng sanh không ở trong cũng không ở ngoài không ở trung gian hai cực thì có thể nói Bồ tát có dục không?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng có.

Đức Phật hỏi:

- Có thể nói dục: dâm, nộ, si là Bồ tát chăng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

Đức Phật lại hỏi:

- Nếu không cho dục: dâm, nộ, si là Bồ tát thì có thể nói các triền phược cấu uếBồ tát chăng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát không chấp trước lời nói cũng không chấp trước không có lời nói. Tất cả các pháp đều chẳng có chấp trước hay không chấp trước. Với mắt, tai, mũi, miệng (lưỡi), thân, tâm (ý) cũng không thấy có chấp trước hay không chấp trước. Âm thanh diễn nói như tiếng gió thổi, do duyên hòa hợp nên mới có âm thanh; âm thanh của hiền ngu, xấu đẹp không phải là nhiều, không trụ bên trong cũng không trụ bên ngoài, tìm ở trung gian cũng không thể được.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát trụ pháp Bổn vô bất động tam muội tư duy niệm động chuyểnviệc đã làm của mình đều như hư không bình đẳng, chẳng phải trụ hay không trụ cũng không có các tưởng. Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả tiếng vang từ thanh âm lời nói của chúng sanh đều là Không chẳng phải thật, là pháp giả dối không thể nương cậy.

Lúc đó ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Pháp Thánh đế của Như Lai đưa đến thành tựu đạo quả Hiền Thánh. Nếu pháp phương tiện hư giả chẳng phải chơn thật thì vì sao nói thành tựu Tối Chánh Giác?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác suy tư đạo pháp chơn lý như thật, vì đạt được pháp chơn thật nên ngộ biết các pháp chẳng phải chơn thật, chẳng phải hiện hữu. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát dạo quanh năm đường truyền dạy cho chúng sanh, tùy theo nhân hạnh sẵn có của họ mà độ thoát cho họ, quán sát danh tự, âm thanh của chúng sanhchuyển Pháp luân vô thượng, theo cú nghĩa pháp khiến họ biết được quả báo ứng, chúng sanh có khổ, có vui nên nói nguồn gốc của khổ. Bồ tát vì ngộ rõ các pháp nên lời nói đều là vô ngôn thì có gì là lời nói, lời nói từ đâu xuất, liễu tri lời nói không có chỗ xuất sanh. Lúc đó Bồ tát lại vì chúng sanh đang có lạc tập mà nói pháp căn bổn của Tập: Tập đó sanh như thế nào, nhân như thế nào, duyên như thế nào. Phân biệt nhân duyên Bổn vô, đầu mối của Tập, không thấy có Tập cũng không thấy có danh tự. Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả âm thanh của chúng sanh đang có lạc tập đều là Không, chẳng phải chơn thật. Lại nữa, Bồ tát tùy theo báo ứng thuở xưa của chúng sanh, dùng đạo giáo huấn khiến người nghe pháp thực hành thuận theo pháp, cũng không biết hướng của quả báo ứng từ sự thực hành đó. Bồ tát lại phải tư duy chúng sanh đang có lạc tập, thông đạt hoàn toàn các pháp không thấy xuất sanh, không dừng trụ nơi ngôn ngữ âm thanh. Khi ngồi hay đi Bồ tát luôn nhất tâm, tuy ở nơi hoảng loạn mà luôn như ở chỗ an tĩnh. Nếu ở chỗ đại chúng Hiền Thánh vắng lặng tịch nhiên, ý muốn cất lời nói liền tự dừng lại, suy tư lời nói đó có chấp trước hay không chấp trước. Bồ tát không thấy Tận cùng với không có Tận, với tất cả các pháp cũng không thấy Tận, vĩnh viễn không xuất hiện dấu tích thanh âm lời nói từ ý chấp đoạn sanh diệt. Lại nữa, Bồ tát tư duy về tám hạnh của chúng sanh lạc đạochúng sanh tu tập sẽ hướng đến Niết bàn. Chánh ngôn, chánh nghiệp cho đến chánh định, các pháp như thế, không phải pháp như thế đều quán như hư không bình đẳng một tướng không hai, không trái nghịch. Đó gọi là khẩu ngôn thanh tịnh, không tỳ vết dơ uế của Đại Bồ tát.

Lại nữa, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy sự thanh tịnh của ý thức. Vì sao nói ý thức của Bồ tát thanh tịnh? Khi đó tâm Bồ tát thanh tịnh cũng không tỳ vết, tâm Bổn vô thanh tịnh không thấy có nguồn gốc. Nguồn gốc của tâm đó không thể nhiễm ô, không thể là tâm tạo tác các nạn. Vì sao? Đại Bồ tát liễu tri tâm vốn tịnh, không thấy có tịnh. Người thế gian nhiều ngu si nhiễm chấp điều đó. Bồ tát tư duy thể đạt Không nên không chấp trước, tu tập phân biệt rốt ráo phương tiện quyền xảo vốn tự thanh tịnh. Bồ tát phải biết nguồn cội tâm đó xưa nay không qua lại, không phân biệt cao thấp, tôn ti, quý tiện; không thấy xưa có nay không, không thấy nay có xưa không; không nhớ nghĩ gốc công đức. Đó gọi là Không, gọi là vô sanh, gọi là Niết bàn.

Đức Phật hỏi:

- Người nhớ nghĩ gốc công đức đó phải chăngliễu tri nguồn cội tâm thức?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Chẳng phải.

Đức Phật hỏi:

- Nội tâm không liễu đạt Không thì phải chăng có thể thông đạt pháp ngoại tướng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Chẳng phải.

Ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Nếu như vậy thì vì sao lại nói là Không?

Đức Phật ạy:

- Tâm vốn là Không, chẳng phải là tự ngã cũng chẳng phải không tự ngã, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải chẳng là tâm. Nếu Bồ tát định tâm quán không thì chẳng tự thấy tâm. Tự tâm là Bổn vô thì ngoại tướng cũng là Bổn vô, là một chứ chẳng phải hai, chẳng phải vô số tên gọi sai biệt. Tâm chẳng phải ngã tâm thì vô tâm là tâm. Ngã tâm chẳng phải tâm thì vô ngã là ngã. Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã. Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngâ sắc. Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã. Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngã sắc. Sắc ngã, tâm ngã chẳng phải là sắc ngã, tâm ngã. Cho đến thanh, hương, vị, xúc tế hoạt, ý, pháp chẳng phải là ngã ý, ngã pháp cũng chẳng phải là ý ngã, pháp ngã. Vì sao? Tâm vốn không thì ngoại tướng cũng không. Do biết ngoại tướng Không nên thông đạt hoàn toàn các pháp cũng như Không, là một mà không phải hai, không có vô số hình tướng. Tất cả các pháp cũng như vậy, không thấy xưa có nay không, cũng không thấy nay có xưa không. Vô cũng không phải là vô, hữu cũng không phải là hữu. Hữu không biết do đâu có hữu. Vô không biết do đâu có vô. Không có vô nên tự thể luôn là vô. Có hữu nên tự thể luôn là hữu. Hữu không sanh ra hữu, vô không sanh ra vô. Không có vô nên tự thể Không là vô, có hữu nên tự thể Không là hữu. Hữu không biết vô, vô không biết hữu. Tất cả âm thanh đều là Không, chẳng phải chơn thật. Đó gọi là tâm Bồ tát thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó không thể chìm đắm trong ba mươi pháp sáu nhiễm ô, vĩnh viễn không chấp trước sự cấu uế xưa nay của tâm Đại Bồ tát. Lại dùng quyền phương tiện khéo léo thông đạt Bổn vô nên tự tịnh cũng không ở nơi thanh tịnh khởi tưởng chấp trước nên liễu tri pháp Không hoàn toàn thanh tịnh. Bậc nhập định ý tự tại tam muội thì có thể trở lại trú xứ trong sanh tử, qua lại năm đường vun trồng các gốc công đức. Người có gốc công đức biết tâm, ý, thức là không có tâm, ý, thức; lại dùng bổn tâm thương xót đến tất cả, thức biết rõ chúng sanh là Không, là vô sở hữu. Ngã, nhân, thọ mạng hoàn toàn thanh tịnh. Bồ tát lại dùng gốc công đức ban đều cho tất cả khiến chúng sanh loại tinh tấn tu tập đạo. Chúng sanhđạo bình đẳng không hai. Người quán như thế thì gọi là Bổn mạt thanh tịnh. Bồ tát lại dùng thanh tịnh bình đẳng quán dâm, nộ, si tức là đạo. Đạo thanh tịnh: si thanh tịnh. Hai pháp đó là một chứ không phải hai, cũng không phải nhiều. Bồ tát quán bổn mạt tự thể là tịnh, không chấp trước các uế trược.

Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Thân hành thanh tịnh nên không làm ác. Miệng nói lời thanh tịnh luôn quy về chí thành. Ý niệm thanh tịnh từ bi với tất cả. Các hạnh đầy đủ mới xưng là Bồ tát.

Khi Thế Tôn nói phẩm Bổn vô thanh tịnh này xong, năm ngàn vị Bồ tát đều được Nhất sanh bổ xứ, vô số ngàn người đều phát đạo ý bình đẳng vô thượng

 

 

Phẩm 21: THỪA VÔ TƯỚNG

 

Ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Đại Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật liễu đạt nhất tướng vô tướng như thế nào? Lại dùng vô tướng phân biệt nhất tướng? Thế nào là Bồ tát dùng tâm thanh tịnh dạo nơi ái dục, từ trong ái dục lại đạt được thanh tịnh?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát thực hành phương tiện theo vô tướng, tâm thanh tịnh dạo quanh năm đường, mười phương thế giới, hoặc sanh vào cõi hữu hình hay vô hình trong Dục giới. Tuy ở trong cõi đó mà không nhiễm cõi đó do cùng các vị thiện nam, thiện nữ lấy niềm vui trong pháp làm vui. Bồ tát lại đến cõi hữu hình cùng chư thiên, người trụ nơi cung điện, hoặc ở chỗ Phạm Thiên nói pháp thừa vô tướng vi diệu cho Phạm Thiên vương, ở trong chúng Phạm Thiên có khi kinh hành, có khi giữ sự im lặng của Hiền Thánh. Bồ tát ở trong đó độc tôn không ai có thể theo kịp. Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát ở đó hiển bày đạo giáo vi diệu, từ từ hàng phục chư Thiên khiến họ tu tập chơn lý, trừ bỏ tâm suy tư cho rằng chúng Phạm Thiênthanh tịnh. Bồ tát trụ ở cõi hữu hình sanh xuống cõi Dục, nội tâm luôn an lạc tịch tĩnh, độc cư nơi núi rừng. Tuy một mình ở trong núi nhưng ý luôn thiền định. Có khi Bồ tát thị hiện có nhà cửa, vợ con theo mình, lại cùng ở với chúng sanh lập nghiệp, địa vị cao sang thì hiện thấp hèn, địa vị thấp hèn thì hiện cao sang, quán tâm chúng sanh. Bồ tát khi qua lại, đứng ngồi, nói năng, đi lại… không khởi tâm kiêu mạn cũng không tự ti. Vì sao như vậy? Vì Bồ tát đã thông đạt hoàn toàn pháp Bổn mạt thanh tịnh. Lại nữa, Bồ tát lại thể nhập vào trăm ngàn loại định chánh thọ tam muội, dùng sức oai thần tam muội quán sát ba ngàn đại thiên thế giới, hiện thân tướng có thần túc hào quang sáng chói, tuệ phương tiện dạo khắp hóa độ tự tại, tâm phải thanh tịnh thì mới gọi là vô tướng. Đại Bồ tát tương ưng với định đó thì mới được cầu đạo thừa vô tướng, không thấy người khác có sanh, không thấy người khác vô sanh. Sanh lấy vô sanh để tu tập đạo cũng không có tưởng với tướng của đạo Bổn vô Hiền Thánh, không cầu tướng cũng không cầu vô tướng. Liễu đạt tướng của đạo là vô tướng, khởi thì liền khởi, diệt thì liền diệt. Có tướng thì hướng đạo, không có tướng thì hành diệt, có tướng thì hành cũng diệt. Đó gọi là Bồ tát ngộ được tướng của đạo. Đại Bồ tát cũng không cầu tướng cho là đạo tướng. Vì sao? Tự thể của đạo là vô tướng nên không cầu vô tướng là tướng của đạo, không thấy hợp tan cho là tướng của đạo, không thấy gốc mười hai nhân duyên, ngã, nhân, thọ mạng; từ si nên có Hành… là có đạo tướng. Lại cũng chẳng thấy không có ngã, nhân, thọ mạng; từ si nên có Hành… là có đạo tướng. Vì sao? Tự thể đạo là vô tướng cũng không thấy tướng, không nhận thức sai lầm cho rằng do nhiều pháp sanh từ đạo tướng, liễu tri bốn đại là thân – phi thân, là thường – vô thường, là Không – phi Không, là ngã – phi ngã; giữ bỏ hợp tan đều chẳng phải chơn thật. Đó gọi là Đại Bồ tát tương ưng với pháp phải tương ưng, không khác cũng chẳng phải không khác, không thấy khác cũng không thấy chẳng khác thì mới tương ưng với đạo tướng vô tướng. Thân thiện, thân bất thiện; thân hữu ký, thân vô ký; thân hữu lậu, thân vô lậu; thân hữu vi, thân vô vi; thân thành tựu, thân thất bại, giữ bỏ – hợp tan, với tướng hay vô tướng phân biệt đều là Không nên không sở hữu. Bồ tát quán thân như cảnh mộng, như hình bóng, như tiếng vang, như dợn nắng giữa trưa; không thấy thân là Không cũng không thấy thân là chẳng phải không; không thấy có tưởng cũng không thấy thân không có tưởng; không thấy thân có nguyện cũng không thấy thân không có nguyện, không thấy thân cũng không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với vô dục. Không thấy thân cũng không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên không tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Cho đến mười tám giới cũng như vậy. Pháp giới như thị nên không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với đạo tướng. Từ si sanh ái cũng như vậy, không cùng đạo tướng tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Tất cả các pháp Danh sắc, Lục nhập không cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đại Bồ tát lại phải thể nhập Diệt tận định ý bất động tam muội, sau đó quán đạo tướng không cùng mười tám pháp bổn trì tương ưng hay chẳng phải không tương ưng, pháp tánh Không cùng mười hai nhân duyên tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Vô hạn vô lượng không thể nghĩ bàn cấu uế trần lao không cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Cho đến pháp tánh, các tình cũng không cùng mười hai nhân duyên tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Cho đến lão, tử và pháp không có dâm, nộ, si đều không cùng đạo tướng tương ưng, cũng không phải không tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Hữu số, vô số không cùng đạo tướng tương ưng cũng không phải không tương ưng. Đạo tướng là không hai, không cùng với hữu số, vô số tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Với đệ nhất nghĩa thì có thế gian, không có thế gian; hữu lậu, cô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; pháp thiện, pháp ác hoặc tốt, hoặc xấu, Bồ tát đều thực hành theo pháp môn bất nhị cũng chẳng thực hành theo pháp môn bất nhị, tâm ý không bị hoại để cầu đạo tướng. Bậc không cầu đạo tướng thì không cùng đệ nhất nghĩa và các pháp hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; pháp thiện, pháp ác hoặc xấu hoặc tốt tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Lại nữa, Đại Bồ tát với tướng của các pháp vô tướng không thấy tướng, chẳng phải không thấy vô tướng. Đạo vô tướng đó cũng không thấy tướng. Đó gọi là đạo tương ưng với vô tướng. Tướng của vô tướng, pháp đó tự thể vắng lặng như hư không vô tướng nhưng chẳng phải không có tướng, phải ứng hợp với tương ưng mà không có pháp tương ưng đó. Đại Bồ tát đắc đạo tướng định ý đó như thế thì ở trong các cảnh giới đều được tự tại, nhập định đó xong phân biệt tự thân trên mỗi lỗ chân lông có vô hạn lượng không thể nghĩ bàn thế giới chư Phật đều hiện trước mặt. Đã hiện thế giới lại hiện ra các chúng đệ tử tùy tùng, chúng Bồ tát khát ngưỡng muốn nghe pháp không chán đủ. Bồ tát khiến đại chúng đó đều thấy ba ngàn đại thiên quốc độ, từ kim thể của Như Lai phát ra vô lượng ánh sáng; mỗi ánh sáng có vô số vô lượng cõi Phật. Bồ tát ở trong cõi Phật đó hiện thân sắc tướng ở trong đại chúng xiển dương pháp lớn. Người nghe pháp tâm kiên cố không xả bỏ kim cương định ý tam muội. Bồ tát lại ở cõi đó suốt trăm ngàn ức kiếp dạo khắp giáo hóa, thị hiện quyền trínhư khôngquyền trí, không thấy người được quyền trí hóa độ. Tuy ở cõi đó mà tâm như hình bóng, dợn nắng, ảnh trong gương, tâm không có niệm, trải qua số kiếp dài lâu truy tìm không thấy nguồn cội, ở trong khoảng thời gian ấy sanh tâm giải đãi. Bồ tát lại không nghĩ chúng sanh dễ giáo hóa: “Ta trong một ngày, một đêm giáo hóa khắp nơi, khắp cả hằng sa thế giới chư Phật suốt ức ngàn vạn kiếp. Trong pháp giáo hóa của chư Phật, ta là thù thắng”. Đại Bồ tát nhập Đạo tánh vô tướng định như vậy phân biệt rõ ràng các lỗ chân lông trên thân, dạo khắp giáo hóa cũng không mệt mỏi, nhàm chán. Người không nhận lãnh giáo hóa, không quá lo lắng về dâm, nộ, si thì Bồ tát làm thanh tịnh thế giới ấy, hướng dẫn họ đến nơi đại hội của Đức Như Lai, nhưng Bồ tát không thấy có dài ngắn, khởi niệm bất tịnh. Vì sao? Đại Bồ tát ở trong vô lượng pháp giới hàng phục tâm ý, nhẫn với các trần lao, hạnh chưa từng có, hạnh không thể ví dụ, hạnh kiến lập tinh tấn đều phân biệt rõ; định bất tư nghị, định vô đạo tướng, định chơn tế tướng là một chứ không phải hai cũng không sai biệt. Bồ tát làm cho chúng sanh phân biệt đạo tướng. Với pháp hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; hữu dục, vô dục không thấy cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đạo tướng không cùng hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu ký, vô ký; hữu dục, vô dục tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đạo tướng không cùng mười hai nhân duyên tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng; cũng không tương ưng với duyên si, hữu ái, sanh, lão, bệnh, tử. Mười hai nhân duyên không cùng đạo tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Duyên si, hữu ái, sanh, lão, bệnh, tử không cùng đạo tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ tát đắc Đạo tướng định ý này thì không thấy tương ưng, không thấy không tương ưng. Đó gọi là Đại Bồ tát ở trong Đạo tướng định ý tương ưng với pháp không tương ưng, với định vô tướng cũng không thấy tương ưng, cũng không thấy chẳng tương ưng. Đó gọi là tương ưng với pháp không tương ưng, chẳng phải pháp mà hàng La hán, Bích chi Phật có thể biết. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới của họ. Chư Phật Thế Tôn không thể nghĩ bàn vào khắp tất cả mười phương thế giới hiện các tướng tốt, oai nghi, lễ tiết, mười tám pháp biến hóa, Sư tử phấn tấn vô úy tam muội. Này Tối Thắng, lúc đó Đại Bồ tát đầy đủ Đạo tướng định ý của Như Lai, không xả bỏ định ý thệ nguyện kim cang dùng pháp độ của chư Phật độ người chưa được độ nhưng cũng không thấy độ, cũng không thấy không độ. Tâm vị Đại Bồ tát trong khoảnh khắc một niệm từ tam muội khởi, không xả bỏ chúng sanh khổ áchmười phương, suy tư, tìm đến nơi cấp thí tứ sự y phục, thức ăn, voi ngựa, bảy báu, giường chiếu đồ nằm, thuốc trị bệnh; dùng quyền tuệ độ tất cả chúng sanh. Tất cả vì chúng sanh không vì bản thân. Bồ tát đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác giáo hóa xiển dương Chánh pháp cũng không có tâm chán đủ, đi vào các cõi Phật khiến chúng sanh ở các nơi đó đều được nghe giáo pháp. Với người chưa giác ngộ, Bồ tát làm hưng long Phật sự, hiện Nhất thiết trí, biết rõ tâm niệm của họ rồi đến nơi đó giáo hóa. Bồ tát nhập Đạo tướng định ý này thể nhập tâm ý thức của các loại chúng sanh trong khắp hằng sa ương số cõi Phật, quán sát niệm khởi của chúng sanh, phân biệt hạnh đã làm trong quá khứ của họ hướng theo đường địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh, hướng theo Thiên đạo hay nhân đạo. Đại Bồ tát trong khoảnh khắc khảy móng tay đều có thể phân biệt hướng sanh của chúng sanh như thế, hoặc có chúng sanh tu hành thiện đạo tương ưng với Đạo tướng định, Bồ tát cũng biết chúng sanh đó có tâm tiểu thừa, tâm Bích chi Phật hay tâm Bồ tát. Như thế, Đại Bồ tát đi khắp các cõi Phật lễ bái, phụng sự chư Phật Thế Tôn, làm thanh tịnh các cõi Phật, làm sung mãn các ý niệm của tất cả chúng sanh. Bồ tát ở các cõi Phật hoặc thấy loại chúng sanh có tâm xan tham liền tự thân thị hiện bố thí lớn, ở cõi Phật đó dựng lên lọng bố thí, dùng Phạm âm thanh tịnh thông báo cho tất cả mọi người: “Chư Hiền nên biết, tôi tên Nhất thiết thí vô cầu báo. Nếu có ai thiếu thốn vật gì từ y phục, thức ăn uống, thuốc trị bệnh, giường nằm… cho đến tài sản quốc gia, vợ con, ngựa voi, bảy báu, tôi đều cấp cho”. Bồ tát bố thí từ sơ phát tâm đến khi thành Phật, trừ ba điều không bố thí còn ngoài ra đều bố thí tất cả. Ba điều đó là gì? một là cha, hai là mẹ, ba là sư trưởng. Đó gọi là vị Lập căn Bồ tát ở các cõi Phật thực hành bố thí. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng quyền phương tiện khéo léo dạo khắp hằng sa cõi nước ở mười phương, thấy chúng sanh nào có tâm lười biếng thì thị hiện thân trì giới, thực hành mười tám pháp, hoặc ở dưới cội cây, nơi đồng trống, trong hang sâu, nơi chốn núi cao, ẩn cư trong rừng sâu ân cần tôn thờ giữ gìn giới pháp không phạm. Khi đi vào nhân gian thì giữ gìn oai nghi lễ tiết ra vào, đi đứng, khi đi, khi ngồi tâm luôn dè dặt, trọn không rời giới, ngộ rõ cấm giới vốn không sở hữu, có sanh thì đều có diệt, tất cả là vô thường: “Thân ta và thân người là một chứ không khác”. Đến như cảnh thanh tịnh, từ địa này đến địa khác lên đến thập địa, Bồ tát không thấy thập địa là ngăn ngại, cũng không thấy đạt đến thập địavô ngại. Giốn như chim bay trên hư không không có dấu chân, ngộ rõ vạn vật đều Không như hư không, vật cũng là phi vật, phi vật cũng là vật. Đại Bồ tát cũng như vậy, dạo đến vô lượng các cõi Phật, không cả tâm hoằng thệ kiên cố, nhiếp hóa chúng sanh giải đãi kia an trụ thể nhập vào Đạo tướng chánh định. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng trí tuệ quyền xảo đến hằng sa cõi ở mười phương thấy chúng sanh có tâm giải đãi, luôn sân hận chưa có khi nào tâm an vui, Bồ tát ở đó hiện thân nhẫn nhục. Nếu có người mắng chửi vẫn lặng im mà không đáp lại. Nếu có người chặt đứt tay chân, hủy phá thân hình, tâm Bồ tát vẫn không đổi khác, không khởi ý phẫn nộ, giữ tâm như đất, quán rõ thân này do bốn đại hợp thành thần thức lìa khỏi thì tan hoại, có gì đáng quý. Bậc trí phân biệt thân này chẳng phải là một nên không khởi tâm tham. Cũng như người đồ tể xẻ con bò thành bốn phần, beiets rõ thân đó thỉ chung đều không có gì để sở hữu, Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, ngộ rõ thân này là vô chủ cũng không có gì để sở hữu. Thân này là gì? Thân này của ai? Danh tướng, tên gọi đều không chơn thật. Hoặc có Bồ tát do nhân thiền định thực hành nhẫn nhục, ở nơi đồng trống vắng vẻ không người ngồi thẳng thân dưới cội cây nhất tâm tư duy. Người đi đường và kẻ chăn bò mang vác cỏ và củi đi qua bên cạnh dùng ngọn cỏ ngoáy vào lỗ mũi Bồ tát, hoặc thọc vào lỗ tai Bồ tát. Bồ tát tư duy đã thuần thục, nhìn thấy xong lại nhắm mắt, tâm ý vắng lặng, ý không loạn cũng không có tưởng khác. Hoặc có kẻ đi thẳng đến dùng gạch ngói, đá quăng ném làm vỡ đầu, sưng mắt, hủy hoại thân thể Bồ tát. Tâm Bồ tát cũng không biến đổi, không khởi loạn tưởng. Đó gọi là Đại Bồ tát do nhân thiền định thực hành nhẫn nhục, tiếp độ chúng sanh không thể nhớ nghĩ hết. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng lực bất tư nghị đến hằng sa cõi nước ở mười phương, thấy có chúng sanh luôn có tâm lười biếng, kiêu mạn. Bồ tát ở nơi đó hiện thân tinh tấn, nhiếp hóa chúng sanh an trụ nơi giải thoát. Khi ấy Bồ tát vì một chúng sanh nên suốt trăm ngàn kiếp tâm không giải đãi cũng không cảm thấy mệt mỏi, nhàm chán. Vì sao? Vì Bồ tát đã liễu đạt pháp giới Không, không sở hữu, dùng đạo pháp của Như Laiđộ thoát cho người đó. Tuy độ chúng sanh mà không thấy độ, cũng không thấy không độ. Đó gọi là Đại Bồ tát chuyên chú tinh cần, tâm không biến đổi cũng không có tưởng khác. Bồ tát ở trong đó nhận lãnh khổ não. Hoặc gặp lúc cõi đó kiếp thiêu lửa cháy lên tận Phạm Thiên, hoặc gặp lúc nước dâng lên tới Phạm Thiên, hoặc gặp gió thổi đến các cõi làm vỡ nát như bụi sương, Bồ tát luôn ở đó giữ gìn các loại chúng sanh, làm cho họ an trụ giải thoát, không hoảng loạn. Đó gọi là Đại Bồ tát đến hằng sa cõi nước ở mười phưong, thấy tâm chúng sanh loạn không định, Bồ tát ở đó hiẹn thân tọa thiền, hoặc ngồi nơi thôn xóm, hoặc ngồi ở cội cây, hoặc ngồi ở hang sâu, trong rừng núi trải qua trăm ngàn kiếp tâm không có tưởng khác, dẫn độ chúng sanh khiến tâm họ không loạn động. Lúc bấy giờ Bồ tát ở bên đường nhập định, tam muội đó tên là Vô hình tưởng định. Người nhập định này hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, trời đất vỡ tan, núi sông cây cối đều tan nát, các nguồn suối, sông, biển đều khô cạn, Bồ tát ngồi thiền nhập định, tâm không biến đổi cũng không có tưởng hư hoại. Có kẻ chăn bò vác củi và cỏ đi qua bên cạnh, hoặc dùng ngọn cây thọc vào mũi, hoặc chọt vào tai, hoặc lấy tay vén mí mắt để nhìn, hoặc banh miệng để xem răng, hoặc nắm giật tóc trên đỉnh đầu nhưng không thể được, hoặc dùng dao bén cắt móng tay Bồ tát nhưng không thể được. Vì sao? Đều là vì sức oai thần của thiền định không thể phá hoại của Bồ tát. Chư Phật mười phương lại thêm sức oai thần khiến Bồ tát không gặp khổ não. Đó gọi là Đại Bồ tát đến hằng sa cõi nước ở mười phương thấy chúng sanh có tâm ý loạn liền tự nhập định, từ kiếp này đến kiếp khác không mệt mỏi, nhàm chán. Lại nữa, Đại Bồ tát lại dùng quyền phương tiện khéo léo đi đến hằng sa cõi nước, quán thấy chúng sanh có tâm ngu si mê hoặc, Bồ tát ở nơi đó thị hiện trí tuệ, vì chúng sanh đó phân biệt nghĩa thú, tư duy các việc ở hiện tại và các việc ở ba đời; con đường thứ lớp của các địa, từ địa đến địa, từ vô địa đến địa. Cũng như chim bay không bị ngăn ngại, Bồ tát cũng như thế, chẳng phải hình tượnghình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng; chẳng phải vật là vật, vật là chẳng phải vật. Thế nào là chẳng phải hình tượnghình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng? Khi ấy Bồ tát nhập Hư không tế định ý chánh thọ quán thế giới phương khác, quả thuốc, cây cối, núi sông, đá vách đều rỗng không như hư không. Đại Bồ tát cũng như thế, thấy tất cả thế giới như hư không bình đẳng. Đó gọi là Đại Bồ tát quán chẳng phải hình tượnghình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng. Chẳng phải vật là vật cũng như vậy. Bồ tát lại thể nhập, thị hiện Chúng trí tự tại định ý, trừ bỏ tưởng ngu si ám muội cho chúng sanh, khiến họ đều an trú đến bờ giải thoát bên kia. Đó gọi là Đại Bồ tát đến mười phương vô lượng thế giới quán thấy chúng sanh có tưởng ngu si mê hoặc, vì họ hiện tuệ sáng để họ vĩnh viễn không còn ngu tối.

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33128)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6518)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12157)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12778)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34708)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9827)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10722)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10490)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10695)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10443)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16230)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21805)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7099)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12710)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12759)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16204)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16505)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13834)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16557)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12095)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13784)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11728)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16277)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14325)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16185)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12059)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14010)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11994)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12605)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14972)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13104)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14508)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20653)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10923)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20667)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20337)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17618)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31841)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12001)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant