Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn

18 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 19177)
Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn

KINH ƯU BÀ DI TỊNH HẠNH PHÁP MÔN


- Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579

- Dịch Phạn sang Hán: Mất tên người dịch, nay dựa vào Bắc Lương Lục.; Nguyên tác: 2 quyển [1] [2]

- Việt dịch: Thích nữ Diệu Châu, Chùa Phước Thiện Nha Trang.

- Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Ðỗng Minh, Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

 

 

Quyển thượng

 

PHẨM THỨ NHẤT: TU HÀNH.

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở trong cung điện Hoan Hỷ, vườn Phất Bà La của Di Già La Mẫu (Tỳ Xá Khư Mẫu). Lúc này, Tỳ Xá Khư Mẫu cùng một ngàn năm trăm thanh tín cận sự nữ đến chỗ Phật cúi đầu lạy sát chân Ngài, rồi lui ngồi qua một bên.

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Sáng sớm con đến đây có duyên sự gì?

Tỳ Xá Khư Mẫu thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nghe Như Lai nói lược qua về pháp vô thượng sâu xa khó hiểu tên là Ưu Bà Di Tịnh hạnh. Cúi xin Thế Tôn hãy thương xót chúng con mà giảng nói phân biệt tướng pháp vi diệu ấy. Sau khi nghe pháp này để về sau chúng con sẽ thường yên ổnan lạc trong cõi trời, người cho đến khi giác ngộ.

Phật dạy Tỳ Xá Khư:

- Lành thay! Lành thay! Này thiện nữ! Về vô lượng kiếp thuở xa xưa, con luôn thích nghe pháp và đã cùng quyến thuộc từng thỉnh cầu ta giảng pháp này.

Nghe Phật nói nhân duyên thuở trước, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng khôn xiết và thưa Phật.

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai giảng nói để con được hiểu rõ.

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Hãy lắng nghe. Ta sẽ giảng rõ cho con. Này thiện nữ! Trong vô lượng kiếp lâu xa về quá khứ, có nước tên Ba La Nại, vua hiệu Phạm Dự, phu nhân tên Bạt Ðà La. Vua có một người con gái tên là Liên Hoa với dung mạo xinh đẹp, bẩm tính nhu mì, hiền dịu, thông minh, sáng suốt, chí thích học hỏi, siêng năng dõng mãnh, thường tu hạnh lành, những kỹ thuật ở đời cô đều thông đạt và luôn được cha mẹ yêu chuộng.

Bấy giờ, trong núi tuyết có một Phạm chí tên Na La Ðà siêng năng tu phạm hạnh, đắc được năm thần thông, luôn giảng pháp cho các đại chúng nên tiếng tốt đồn xa lan khắp bốn phương. Bấy giờ cô gái ấy nghe bạn bè khen ngợi Phạm chíthần thông và những công đức khó lường như vậy, còn tuyên dương diệu pháp cho đại chúng nữa, nên cô ta rất vui mừng và tự nghĩ: “Người thiện khó gặp, pháp cũng khó nghe, thân mạng khó bảo tồn, cho nên ta phải mau đến đó để lễ lạy hỏi pháp”. Nghĩ vậy rồi, cô đến thưa cha mẹ:

- Con nghe mọi người khen ngợi Phạm chí tu hànhđạo đức cao vòi vọi. Cúi xin cha mẹ hãy cho phép con đến chỗ Phạm chí để hưởng thọ pháp vị.

Cha mẹ cô nói:

- Tuổi con còn nhỏ dại, lớn lên trong thâm cung, tánh tình lại yếu mềm, chưa từng ra khỏi cung. Nay núi tuyết xa xôi, đường sá gian nan làm sao có thể đến đó được?

Nước ta có nhiều Phạm chí kỳ cựu, thần thông trí tuệ vô song giỏi giảng nói diệu pháp sâu xa. Vì con, ta sẽ thỉnh mời họ vào cung nội để giảng dạy đạo pháp, con sẽ tha hồhọc hỏi, không cần phải đi xa.

Cô gái lại xin:

- Thưa cha mẹ! Các Phạm chí kỳ cựu trong nước Ba la Nại đều tôn trọng và suy tìm đạo thuật của họ. Cúi xin cha mẹ hãy cho phép con được nghe pháp giải thoát.

Vì quá yêu thương nên vua không muốn trái ý con, đành miễ cưỡng cho phép. Vua cha liền ra lệnh bốn vị quan thần và thể nữ trong cung chuẩn bị đầy đủ vật cúng dường.

Quan thần tâu vua:

- Những gì đại vương ra lệnh, chúng thần đều chuẩn bị xong rồi.

Khi ấy Vương nữ nghĩ: “Ta cầu nghe được pháp nay đã đúng lúc”. 

Rồi cô cùng một ngàn năm trăm thể nữ trong cung chở hương hoa đến chỗ Phạm chí để nghe pháp.

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Vương nữ thuở đó chính là con, còn Phạm chí ở núi tuyết chính là ta vậy. Lúc xưa, con đã từng cầu nghe pháp cũng như nay vậy. Bây giờ ta sẽ phân biệt giảng nói pháp môn Tịnh hạnh cho con.

Tỳ Xá Khư thưa:

- Lành thay! Bạch thế Tôn! Như Lai có lòng đại bi thương xót chúng sinh, cúi xin ngài giảng nói con sẽ tu hành theo.

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Các ngươi hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ giảng nói rõ pháp môn Ưu Bà Di Tịnh hạnh cho các con. Pháp ấy được chư Phật hộ niệm, con cần phải tinh tấn tu hành. Này Tỳ Xá Khư! Nếu thiện nữ nào lìa bỏ ác tri thức, gần gũi bạn lành, người đáng cúng dường thì nên cúng dường, đó gọi là Ưu Bà Di Tịnh hạnh.

Nhờ nhân đời trước ở đất nước yên ổn, cũng gọi là Tịnh hạnh.

- Cúng dường cha mẹ, chăm sóc con cái, cũng gọi là Tịnh hạnh.

- Ðừng khinh thường tội nhỏ, việc cần làm thì làm theo thứ lớp, cũng gọi là Tịnh hạnh.

Ưa thích bố thí, tu tập thực hành theo pháp, yêu mến quyến thuộc bạn bè, gọi là Tịnh hạnh.

- Tránh xa rượu chè, không làm các điều ác, tu hành ái ngữ, gọi là Tịnh hạnh.

- Học nhiều kỹ thuật, rất giỏi về oai nghi. Nghe điều gì thì nghiên cứu, không để quên mất, gọi là Tịnh hạnh.

- Có lòng cung kính tôn trọng mọi người, ít muốn biết đủ, thọ ân luôn phải báo đáp, gọi là Tịnh hạnh.

- Không bị tám pháp làm động tánh tình hòa nhã, gọi là Tịnh hạnh.

- Không lo buồn, thường được an ổn. Tất cả những việc như vậy mà không lùi bước và làm việc không ngừng nghỉ, gọi là Tịnh hạnh.

- Ðối với pháp thiện không biếng nhác, mau chứng vô thượng giải thoát Niết bàn, gọi là Tịnh hạnh.

- Nhẫn nhục, vâng lời, thường muốn gần gũi Samôn, thân hành động chân chánh, làm theo gia nghiệp, gọi là Tịnh hạnh.

- Dùng lửa trí thiêu đốt phiền não, đầy đủ pháp lành, dõng mãnh không thối lui, gọi là Tịnh hạnh.

- Không chê bai người, không đánh đập, khéo hộ trì các căn, giữ tâm không tán loạn, gọi là Tịnh hạnh.

- Tâm chân thật không tham lam, ưa thích ở chỗ thanh vắng, siêng năng tu tập, không bao giờ thối chuyển, gọi là Tịnh hạnh.

- Làm tăng trưởng đạo Bồ đề, không để thối lui, nhàm chán ba cõi như cái thây chết, quán sát sâu xa như vậy, gọi là Tịnh hạnh.

- Ưa bỏ những gì khó bỏ, những giới cấm khó giữ thì giữ hoàn hảo, thích tu thiền định, không bị tán loạn, gọi là Tịnh hạnh.

- Với đạo Bồ đề thì vô lượng chúng sanhtư tưởng thối lui, nhưng ta tiến tới; còn tất cả người tiến tới thì ta không thối lui, đi đứng cũng như vậy, gọi là Tịnh hạnh.

- Tất cả chúng sinh bị thiêu đốt căn lành thì ta làm cho chúng phát sanh, mọi người thích làm phát sinh căn ác thì ta liền diệt nó. Sanh tử không cùng mà ta ở một bên ấy, gọi là Tịnh hạnh.

Sau khi nghe Phật dạy, Tỳ Xá Khư vui mừng hớn hở chưa từng có và thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ưu Bà Di pháp môn có bao nhiêu hạnh?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Có mười pháp lành mà con phải tu học. Thế nào là mười?

1.- Gặp người có lỗi xan tham thì phải thích tu hạnh bố thí.

2.- Gặp người có lỗi năm giác quan thì phải thích giữ cấm giới.

3.- Gặp người có lỗi tại gia thì phải thích xuất gia.

4.- Gặp người có lỗi nghi ngờ thì phải thích tu trí huệ.

5.- Gặp người có lỗi giãi đãi thì phải thích siêng năng tinh tấn.

6.- Gặp người có lỗi sân giận thì phải thích tu hạnh nhẫn nhục.

7.- Gặp người có lỗi vọng ngữ thì phải thích trung tín.

8.- Gặp người có lỗi loạn tâm thì phải thích thiền định.

9.- Gặp người có lỗi tội khổ thì phải thích tu từ bi.

10.- Gặp người có lỗi khổ vui thì phải thích tu thực hành tâm xả.

Muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Bố thí được phước lớn 

Xả bỏ thân yêu quý,

Lìa dục muốn xuất gia 

Giữ giới hộ các căn

Tu học được trí tuệ

Tinh tấn đoạn biếng nhác.

Nhẫn nhục trừ sân giận

Nói thật không hư dối

Gặp tám pháp thế gian 

Tâm an trụ bất động

Tâm luôn thích thiền định

Không bao giờ tán loạn

Từ bi lợi chúng sanh

Tu xả ly khổ lạc

Nếu ai hành pháp này 

Gọi là đại dõng mãnh.

Ðược qua bờ biển pháp

chứng đạo Bồ đề.

Nghe Phật nói vậy, Tỳ Xá Khư rất vui mừng và thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu điều cần phải xả ly? Có bao nhiêu pháp cần phải gần gũi?

Phật dạy Tỳ Xá Khư:

- Có 58 pháp cần phải tu học cũng cần xả ly. Ðó là gì? Nghĩa là xa lìa tất cả các pháp bất tịnh, gần gũi pháp tịnh. Nên xa lìa pháp ác, gần gũi pháp thiện. Không đáng nuôi dưỡng thì không nuôi dưỡng. Chỗ không nên đến thì đừng đến gần gũi. Chỗ đáng đến thì nên đến. Việc không nên làm thì không bao giờ làm ẩu. Việc đáng làm thì tạo mọi cách để làm. Cầu được phi pháp thì không nên dùng. Nếu đúng như pháp thì nên thọ dụng, điều phục thân tâm thích ở nơi thanh vắng, từ bỏ lời lừa dối, thực hành chánh ngữ, tránh xa giãi đãi thích hành tinh tấn, thâu nhiếp các căn không cho phóng túng. Tâm khiêm nhường cung kính, bỏ cống cao ngã mạn, thường thực hành nhẫn nhục không sân giận, không tranh cãi kiện tụng, hòa hợp với đại chúng, xả bỏ không ở nơi che giấu nhưng sống ở nơi hiển lộ ra, lìa bỏ lời vô nghĩa luôn nói lời đúng nghĩa, tránh tà mạng mà sanh sống bằng chánh mạng, khéo lượng thân mình mà thọ nhận thức ăn uống, không thích cầu nhiều mà luôn biết đủ, không cứng cõi mà sống mềm mại như đất, tu tập lời hòa nhã, tránh xa lời cộc cằn, tránh xa chỗ không an lạc mà sống nơi an lạc, bỏ sự bất đồng ý kiến để cùng nhau sống chung, lìa chỗ không có học vấn để đi đến chỗ có học vấn, nhàm chán ba cõi không sống trong ba cõi, tránh tất cả tạo tác nên trụ vào vô sở tác, bỏ ngã kiến tu học pháp không.

Này Tỳ Xá Khư! Trên đây là năm mươi tám pháp đầu tiên con cần phải tu hành.

Vì muốn tuyên lại nghĩa trên nên Thế Tôn nói kệ:

Thuận tất cả sở học

Ðầu cuối không còn dư

Nên viễn ly, gần gũi

Làm xong được an lạc

Ðã học tất cả pháp

Sở nguyện đều đầy đủ

Bỏ thân mạng yêu quý 

chứng đạo Vô thượng

Nếu ai học như vậy

Ðối với môn Tịnh hạnh

Không chỉ riêng Thanh Văn

Duyên GiácBồ tát

Ở trong vô lượng kiếp 

Khen công đức người ấy.

Sau khi Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng hớn hở hỏi thêm:

- Bạch Thế Tôn! Lại pháp môn Tịnh hạnh có bao nhiêu loại gọi là Ðại hạnh.

Phật dạy:

- Có ba đại hạnh, con phải tu hành. Ba đại hạnh đó là:

1.- Ðại tín tâm.

2.- Ðại tinh tấn.

3.- Ðại trí tuệ.

Tỳ Xá Khư thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đại tín tâm?

Phật dạy:

- Ðai tín tâm là tin Phật. Phật là bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Ðây gọi là đại tín tâm.

Tỳ Xá Khư hỏi:

- Sao gọi là đại tinh tấn? 

Phật dạy:

- Nếu trong lúc hành tinh tấn có thể xa lìa vứt bỏ tất cả pháp ác, cần phải giữ gìn tất cả pháp thiện. Với pháp thiện thì dõng mãnh không dừng nghĩ. Ðây là đại tinh tấn.

Tỳ Xá Khư hỏi:

- Sao gọi là đại trí tuệ?

Phật dạy:

- Người nào có trí tuệ mắt thấy pháp sanh diệt mà là bậc thánh đã vượt qua diệt hết khổ vô thường. Ðó gọi là đại trí tuệ.

Trên đây là ba đại hạnh.

Ðể tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Với đại tín tâm 

Ghi sâu không lìa

Các hạnh đầy đủ 

Ðể cầu Bồ đề

Với đại tinh tấn

Kiên cố không bỏ

Cần tu viên mãn

Ðể cầu Bồ đề

Với đại trí tuệ

Hiểu rõ rốt ráo

Ðủ Ba La Mật 

Ðể cầu Bồ đề

Pháp đã tăng trưởng

Biết đại danh văn

Tăng trưởng tận rồi

Tùy ý tu hành

Nhờ biết như vậy

Hiểu rõ nhơn pháp.

Sau khi Phật nói bài kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu lòng rất vui mừng, lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp môn Ưu Bà Di tịnh hạnh muốn bước lên Phật địa thì có mấy hạnh?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Có bốn hạnh để bước lên Phật địa. Ðó là:

1.- Tinh tấn không biếng nhác.

2.- Trí huệ không mê hoặc.

3.- Ðịnh tâm không thối lui.

4.- Hành từ bi làm lợi ích chúng sinh.

- Này Tỳ Xá Khư! Nhờ bốn pháp này mà bước lên Phật địa.

Ðể tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Siêng năng không biếng nhác

Trí tuệ không mê hoặc

Thiền định không thối lui

Hành từ lợi chúng sinh

Nhờ bốn pháp này đây 

Mà chứng Nhất Thiết Trí.

Sau khi Phật nói kệ này. Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có mấy pháp để an trụ đắc quán? Làm thế nào để pháp tập hợp lại không bị phân tán và pháp hợp có mấy pháp?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Có bốn pháp để an trụ đắc quán. Ðó là Từ, Bi, Hỷ và Xả. Trong đó pháp tập hợp không bị phân tán là khi đắc trí Thanh Văn, trí Bích Chi Phật , trí Bát Nhã và trí Phật. Pháp hợp có ba mươi hai quán pháp đó là: 

1.- Niệm Phật.

2.- Niệm Pháp.

3.- Niệm Tăng.

4.- Niệm Giới.

5.- Niệm Thí.

6.- Niệm Thiên.

7.- Niệm A Na.

8.- Niệm Bát Na.

9.- Quán diệt tưởng.

10.- Quán tưởng thân.

11.- Quán tưởng tịch tịnh.

12.- Quán tưởng địa.

13.- Quán tưởng thủy.

14.- Quán tưởng hỏa.

15.- Quán tưởng phong.

16.- Quán tưởng xanh.

17.- Quán tưởng vàng.

18.- Quán tưởng đỏ.

19.- Quán tưởng trắng.

20.- Quán tưởng hư không .

21.- Quán tưởng thức xư.

22.- Quán tưởng phình trướng.

23.- Quán tưởng hôi thối.

24.- Quán tưởng kĩ chảy.

25.- Quán tưởng hư nát.

26.- Quán tưởng...?

27.- Quán tưởng rơi rớt tứ tung.

28.- Quán tưởng xương thịt ngỗn ngang.

29.- Quán tưởng xương ướt.

30.- Quán tưởng xương màu trắng.

31.- Quán tưởng tất cả vô thường.

32.- Quán tưởng tất cả các pháp là vô ngã.

Ðó là ba mươi hai pháp quán, với bốn vô thượng tâm gọi là an trụ đắc quán trí Thanh Văn, trí Bạch Chi Phật, trí Tát Bà Nhã và trí Phật là pháp tập hợp không bị phân tán.

Thế Tôn nói lại bằng bài kệ:

Nếu dùng hạ quán

Ðắc trí Thanh Văn

Khéo tu trung quán

Ðắc trí Duyên Giác

Thượng quán viên mãn 

Ðắc trí Bồ đề.

Phật nói kệ này xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng và lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ðối với pháp môn bất tịnh nên trụ tâm như thế nào để mau lìa phiền nãothông đạt lục môn?

Phật dạy Tỳ Xá Khư:

- Có ba mươi hai pháp môn mà đối với bất tịnh thì tâm được lạc trú, mau lìa phiền não thông đạt lục môn, ba mươi hai pháp môn đó là gì? - Nghĩa là trong thân có: lông, tóc, móng, ghèn, răng, da, thịt, gân, xương, thận, mỡ lá, mở miếng, tủy, não, tim, lá lách, thận, gan, mật, đại trường, tiểu trường, lá lách, phổi, dạ dày, bụng, máu, đàm, mồ hôi, nước giải, nước mắt, nước mũi và phân rất là bất tịnh.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó là ba mươi hai điều quán bất tịnh làm cho tâm thích trụ vào pháp môn tịnh hạnh, mau xả bỏ phiền não, được thông đạt lục môn.

Ðể tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Giống như dòng sông

Ðều vào biển cả

Trong pháp môn này 

Dòng quán cũng vậy

Khéo quán thô tế 

Tịnh và bất tịnh

Pháp vô thượng trí 

Phật đều thông đạt.

Nghe Phật nói bài kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng và lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ðối với pháp môn tịnh hạnh, Bồ tát có bao nhiêu sự ràng buộc trụ vào thế gian mà không được giải thoát?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Pháp môn tịnh hạnh trước các Bồ tát có bảy dây ràng buộc trụ vào thế gian. Bảy pháp đó là:

1.- Nếu ta được độ mà thế gian chưa độ thì ta sẽ độ họ.

2.- Nếu ta đã giải thoátthế gian chưa giải thoát thì ta sẽ giải thoát cho họ. 

3.- Nếu ta đã giác ngộthế gian chưa giác ngộ thì ta sẽ giác ngộ cho họ. 

4.- Nếu ta đã điều phụcthế gian chưa điều phục thì ta sẽ điều phục họ. 

5. - Nếu ta đã an lạcthế gian chưa an lạc thì ta sẽ làm cho họ an lạc.

6. - Nếu ta thành đạothế gian chưa thành đạo thì ta sẽ dẫn dắt cho họ.

7. - Nếu ta đã đắc Niết Bànthế gian chưa đắc Niết Bàn thì ta sẽ tạo điều kiện để họ nhập Niết Bàn.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó là bảy sự ràng buộcBồ tát phải trụ thế gian không được giải thoát.

Ðể tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Ðộ rồi, độ chúng sanh 

Thoát rồi, thoát chúng sanh

Giác rồi, giác chúng sanh

Ðiều rồi, điều chúng sanh

An rồi, an chúng sanh

Ðạt rồi, dạy chúng sanh

Ta đã đắc Niết bàn

Khiến chúng sinh được đắc

Ba cõi như nhà lửa 

Tham dục như lưới bùn

Tất cả đều diệt sạch 

Ðể chứng đạo Bồ đề.

Thế Tôn nói kệ này xong, Tỳ Xá Khư rất vui mừng lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Với pháp môn Tịnh hạnh thì phải tu bao nhiêu hạnh lành để viên mãn tất cả pháp?

Phật dạy:

- Tu ba hạnh lành để tất cả pháp được viên mãn. Ba pháp lành là:

1.- Hạnh lành thuộc thân.

2.- Hạnh lành thuộc khẩu.

3.- Hạnh lành thuộc ý.

Ba hạnh lành này viên mãn thì tất cả pháp được viên mãn, nghĩa là bố thí được viên mãn, trì giới được viên mãn, xuất gia được viên mãn, được trí tuệ viên mãn, được tinh tấn viên mãn, được nhẫn nhục viên mãn, được chân thật viên mãn,được thệ nguyện viên mãn, được Từ, Bi, Hỷ, Xả viên mãn, được bốn tư viên mãn, được bốn định viên mãn, được bốn thần túc viên mãn, được năm căn viên mãn, được năm lực viên mãn, được thất Bồ đề viên mãn, được Bát chánh đạo viên mãn, được chín trí viên mãn, được mười trí lực viên mãn, được trí đạo Tu đà hoàn viên mãn, được trí quả Tu đà hoàn viên mãn, được trí đạo Tư đà hàm viên mãn, được trí quả Tư đà hàm viên mãn, được trí đạo A na hàm viên mãn, được trí quả A na hàm viên mãn, được trí đạo A la hán viên mãn, được trí quả A la hán viên mãn, được bốn trí viên mãn đó là pháp trí, vị tri trí, danh tự trí và tha tâm trí viên mãn, được tận trí viên mãn, được vô sanh trí viên mãn, được song thần lực viên mãn, được đại bi tam muội trí viên mãn, được nhất thiết trí viên mãn, được Vô ngại trí viên mãn.

Này Tỳ Xá Khư! Nhờ ba hạnh lành viên mãn này mà làm cho tất cả các pháp được viên mãn.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Tu ba hạnh lành rồi

Viên mãn tất cả pháp

Các pháp viên mãn rồi 

Thì chứng đạo Bồ đề.

Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong pháp môn Tịnh hạnh có bao nhiêu niệm cho bậc đại nhân?

Phật dạy:

- Có tám niệm cho bậc đại nhân. Tám niệm đó là:

1.- Ít muốn chứ chẳng phải không ít muốn.

 2.- Biết đủ chẳng phải không biết đủ.

3.- Tịch tịnh chẳng phải không tịch tịnh.

4.- Viễn ly chẳng phải không viễn ly.

5.- Tinh tấn chẳng phải không tinh tấn.

6.- Thiền định chẳng phải không thiền định.

7.- Trí tuệ chẳng phải không trí tuệ.

8.- Vô ngại chẳng phải không vô ngại.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó là tám niệm của bậc đại nhân.

Ðể tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Khéo định các niệm 

Niệm phi thiện pháp

Nếu bỏ niệm này 

Ðể rồi chán xa

Khéo định các niệm 

Niệm phi thiện pháp

Quán rõ pháp tướng 

Bước tới vô thượng.

 

PHẨM THỨ HAI: TU HỌC.

 

Ðức Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ðối với pháp môn Tịnh hạnh, Bồ tát sơ học phải tu học như thế nào để đắc Bồ đề?

Phật dạy:

- Bồ tát sơ học có năm mươi điều tu học để đắc Bồ đề, năm mươi điều đó là gì?

Nghĩa là: Thể nhập sâu vào pháp tánh, không xả bỏ, không giảm, không đọa, không thối lui, tu học tâm xả, tu học đa văn, tu học oai nghi, tu học chiến thắng quân ma, tu học ánh sáng, tu học tướng tốt của Phật , tu học giới cấm, tu học tam muội, tu học Bát nhã, tu học đại Bát nhã, tu học hạnh lành, tu học đại hạnh lành, tu học sắc tướng, tu học không hai lời, tu học như ý túc, tu học thượng như ý túc, tu học đại như ý túc, tu học diệu như ý túc, tu họcnhư ý hành, tu học đại ý hành, tu học những điều quy định, tu học tự tại, tu học tướng tâm Phật, tu học tướng tâm viên mãn, tu học thần thông, tu học đại thần thông, tu học chân thật, tu học làm vua thống lãnh bằng chánh pháp để được lâu dài, tu học đến chỗ cùng cực, tu học cõi Phật, tu học thọ mạng của Phật, tu học cây Bồ đề, tu học hoa sen, tu học pháp Phật giảng, tu học đại pháp luân, tu học chuyển pháp luân, tu học thiện tri thức, tu học lìa bỏ chúng sinh, tu học tay viên mãn, tu học áo bằng cây kiếp ba, tu học tòa sư tử, tu học nằm nghiêng hông bên phải, tu học vị thức ăn của Phật, tu học trú xứ, tu học tướng thủy của Như Lai.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó là năm mươi học pháp mà Bồ tát sơ học cần phải tu học để thể nhập sâu vào không bỏ, không giảm, không đọa, không thối lui, con nên biết điều ấy.

Thế Tôn liền nói kệ:

Ðầy đủ tất cả hành 

Ðể cầu pháp tịch tịnh

Ánh sáng chiếu cõi Phật

thương xót chúng sinh

Thoát khỏi nạn ba cõi 

Tất cả pháp không cùng

Như Lai đã thấu đạt.

Sau khi Thế Tôn đã nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai có bao nhiêu ánh sáng, sơ học Bồ tát phải tu hành như thế nào?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Như Lai có sáu loại ánh sáng. Sáu loại đó là:

1.- Ánh sáng xanh.

2.- Ánh sáng vàng.

3.- Ánh sáng đỏ.

4.- Ánh sáng trắng.

5.- Ánh sáng hồng.

6.- Màu ánh sáng chiếu sáng.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó là sáu loại ánh sáng của Như Lai. Sơ học Bồ tát phải tu hành như thế nào để được ánh sáng này.

Này Tỳ Xá Khư! Vì Bồ tát nhờ ánh sáng màu xanh nên luôn dùng hoa xanh, hương xoa, hương bột xanh, vải xanh, châu báu xanh, để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì thường quán màu xanh. Làm vậy xong, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu xanh.

Bồ tát tu học ánh sáng màu vàng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa vàng, hương xoa, hương bột màu vàng, vải vàng, châu báu vàng, để cúng dường. Nếu vào thiền định thì thường quán màu vàng. Sau khi làm vậy nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu vàng.

Bồ tát tu học ánh sáng đỏ như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa đỏ, hương xoa, hương bột màu đỏ, vải đỏ, châu báu đỏ để cúng dường. Nếu khi nhập thiền định thì luôn quán màu đỏ. Làm như vậy rồi nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu đỏ.

Bồ tát tu học ánh sáng màu trắng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa trắng, hương xoa, hương bột màu trắng, vải trắng, châu báu trắng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì thường quán màu trắng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu trắng.

Bồ tát tu học ánh sáng màu hồng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa màu hồng, hương xoa, hương bột hồng, vải hồng, châu báu hồng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì luôn quán màu hồng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu hồng.

Bồ tát tu học màu ánh sáng chiếu sáng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa màu ánh sáng, hương xoa ánh sáng, hương bột ánh sáng, vải ánh sáng, và châu báu ánh sáng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì luôn quán ánh sáng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng rực rỡ.

Này Tỳ Xá Khư! Ðó gọi là Bồ tát tu học sáu thứ ánh sáng của Như Lai.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Ánh sáng Phật có sáu

Ánh sáng màu xanh, vàng

Màu đỏ, trắng và hồng 

Tướng sáng chiếu rất sáng

Nếu người có trí huệ 

Luôn siêng năng tu hành

Ai thích ánh sáng đẹp

Nên học hạnh rộng lớn

Cúng dường hoa, hương, đèn

Dâng lên Ðấng Vô thượng

Tu học sáu món hạnh

Nguyện chi cũng thành tựu.

Sau khi Phật nói kệ. Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tướng đại nhân có bao nhiêu loại và sơ học Bồ tát phải tu học như thế nào?

Phật dạy:

- Tướng đại nhân có ba mươi hai. Bồ tát tu học thì có hai mươi hạnh hợp lại với tướng đại nhân thành hai đạo và không có thừa.

Hai đạo nghĩa là: Nếu người tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương cai trị (làm vua) bốn thiên hạ, chiến thắng các nước và đầy đủ bảy báu.

1.- Kim luân báu.

2.- Voi trắng báu.

3.- Ngựa trắng báu.

4.- Ma ni báu.

5.- Ngọc nữ báu.

6.- Tạng thần báu.

7.- Chủ binh báu.

Lại có ngàn người con dõng mãnh oai hùng có thể chiến thắng quân địch, tận cùng bờ biển lớn đều dùng chánh pháp để chiến thắng chứ không dùng binh trượng.

Còn như người xuất gia thì được thành Phật là bậc tối tôn, đệ nhất trong cõi trời và người, có đầy đủ 32 tướng của bậc đại nhân.

Ba mươi hai tướng đó là gì? Ðó là thân màu vàng ròng, ánh sáng tròn chiếu một tầm giống dung kim, thân như Phạm thiên cao thẳng, sau cổ có ánh sáng như mặt trời, đỉnh có nhục kế, tóc xanh biếc, thân Phật tròn đầy như cây Ni câu luật, giữa chặng mày có lông như Ðâu la miên, mí mắt trên dưới khép kín nhau, tròng con mắt màu xanh biếc, lưỡi che cả mặt, tiếng như Phạm thiên có tám loại như tiếng Ca lăng tần già, miệng có bốn mươi cái răng, răng trắng đều khít, má như sư tử, da dẻ mịn màng không bị trần cấu, mỗi lỗ chân lông có một sợi mềm mại màu xanh biếc và đều xoay về bên phải, ngực như sư tử, ngực có chữ vạn, bảy chỗ đầy đặn, kẽ tay và kẽ chân có màng mỏng dính lại, ngón tay thon dài, hai tay nắm khít nhau, đứng tay dài quá đầu gối, tướng âm mã tàng, gót chân đầy đặn có bánh xe một ngàn căm. Ðó là ba mươi hai tướng thân của bậc đại nhân.

Này Tỳ Xá Khư! Hai mươi điều để tu được tướng bậc đại nhân là gì?

Về thuở xa xưa, khi Như Lai còn là người phàm, đối với pháp thiện ta thành tựu kiên cố không phải dễ thọ trì. Thân hành thiện, khẩu hành thiện, tâm niệm hành thiện, đem tất cả bố thí cho chúng sanh, giữ kỹ giới cấm, luôn an trú trong thanh tịnh, cúng dường cha mẹ, Samôn, Bàlamôn, bậc kỳ cựu đức lớn, lục thân quyến thuộc. Ðối với pháp thiện ta đều thực hành đủ. Ta tu tập trọn vẹn và tích trữ nghiệp lành rất nhiều, sanh tử vô lượng lần cho đến còn một đời nữa thôi (Nhất sanh bổ xứ) thì tự tại như ý, luôn hưởng khoái lạc ở cõi trời như: Thọ mạng, sắc lực, ngôi vua, danh văn, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sau khi thọ khoái lạc cõi trời, sanh xuống nhân gian được tướng đại nhân, chân đạp đất, khi để chân xuống đất thì khít với mặt đất, dở chân lên còn lại dấu bánh xe, mu bàn chân đầy đặn giống như mu rùa. Nhờ tướng này, nếu là tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia thì được chứng Vô thượng Bồ đề không còn sanh tử, đắc Niết bàn thường lạc. Oan gia trong ngoài, phạm ma, Samôn, Bàlamôn không thể làm hại được. Ðó gọi là Phật.

Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:

Các pháp đều nhu hòa

Luôn giữ trai giới cấm

Bố thí tâm bình đẳng 

Quán sâu pháp vô thường

Tất cả nghiệp đã tạo 

Tâm thọ trì kiên cố

Nhờ có hành nghiệp này

Thường sanh lên cõi trời

Sau sanh vào loài người

Hưởng phước báu thế gian

Dưới chân được bằng phẳng

Ðạp xuống đều khít đất

Ðất in hình bánh xe

Tại gia hay xuất gia

Ðều có tướng như vậy 

Phạm Thiên, ma vương.

Samôn, Bàlamôn 

Tất cả các oan gia

Ðều phải bị hàng phục 

Xuất gia hành học đạo

Ðoạn hẳn gốc sanh tử 

Các hành đã đầy đủ

Chứng đắc bậc Vô thượng.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng bánh xe ngàn căm? Thuở xa xưa khi Như Lai còn là người phàm luôn gánh vác cho chúng sinh, dẹp trừ sự sợ hãi cho họ, bố thí niềm vui vô úy. Nếu được ai bố thí ta đều đem cho chúng sanh chứa nhóm nghiệp lành cao lớn không thể tính kể. Sau khi qua đời sanh lên cõi trời hưởng diệu lạc. Lần lượt như vậy qua vô lượng vô biên lần, sau đó sanh làm người, được tướng đại nhân, dưới bàn chân có bánh xe ngàn căm. Tướng bánh xe tròn đầy giống như chơn kim luân. Ðược tướng này rồi nếu là tại gia thì Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, có đầy đủ bảy báu, luôn có Samôn, Bàlamôn, cư sĩ, đại thần, trưởng giả và bốn binh vây quanh. Nếu xuất gia thì được thành Phật, có đại chúng vây quanh được Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la già... cung kính tôn trọng.

Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:

Ta trong vô lượng kiếp 

Giúp cho chúng sanh vui

Giúp họ không lo sợ 

Bảo hộ không dừng nghĩ

Nhờ nghiệp công đức này

Thường sanh lên cõi trời

Ðến nhất sanh bổ xứ 

Dưới chân xe ngàn căm

Sáng rực như kim luân 

Nhờ tạo ngàn hành nghiệp

Ðược chứng nhơn trung tôn

đại chúng vây quanh

Chiến thắng các ma oán

Nếu là dòng Sát lợi

Thì làm vua Chuyển luân

Nếu xuất gia học đạo

Thì thành Vô thượng tôn

Trời người A tu la

Ma hầu la vân vân 

Loài bốn chân phi nhân

Ðều cung kính cúng dường

Tiếng đồn khắp mười phương

Làm ruộng phước cho người.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thếù nào để có ba tướng đại nhân? Về thuở xa xưa, khi Như Lai còn là người phàm, không giết hại chúng sinh, không đánh đập, không bao giờ cất chứa những khí cụ để đánh đập luôn sanh lòng tàm quý, tu tập từ bi, nghiệp lành chứa cao xa không thể nghĩ bàn trải qua sanh tử vô lượng kiếp cho đến nhất sanh bổ xứ vào làm người thì được ba tướng đại nhơn:

1.- Gót chân đầy đặn.

2.- Ngón tay thon dài.

3.- Thân tròn và thẳng như Phạm thiên. Nhờ tướng này mà được thọ mạng lâu dài, hiện tướng sống lâu, giữ gìn mạng sống không sợ chết yểu. Nếu xuất gia thì được thành Phật, thọ mạng lâu dài. Tất cả thế gian, trời, người, Samôn, Bàlamôn, không ai có thể phá hoại tuổi thọ của Như Lai được.

Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:

Ai cũng sợ chết sợ đao trượng

Lấy mình ví dụ chớ đánh đập

Cho nên xa lìa sao suy nghĩ

Nhờ hạnh lành này sanh cõi trời

Hưởng quả báo trời vui vô lượng

Qua đời làm người được ba tướng

Tay, chân dài, thân tròn đầy

Ði trên đất vững như rùa vàng

Ngón tay thon dài như búp măng

Thân thể sáng rỡ như Tu di

Ba tướng này thành Thiên nhân tôn

Biểu hiện Như lai sống dài lâu.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có bảy chỗ viên mãn? Về thuở xưa, khi Như Lai còn là người phàm luôn luôn làm thí chủ, đem những thứ thức uống ăn, trái ngọt, hương thơm, nước uống, siêng tu bố thí, chứa nhóm nghiệp này cao xa không thể nghĩ bàn cho đến đạt Nhất sanh bổ xứ, thường hưởng khoái lạc cõi trời, sau sanh làm người được tướng bảy chỗ viên mãn. Môi, cằm, tay, chân đều đầy đặn. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, đều có đầy đủ món ăn thượng hạng trong thế gian. Còn nếu xuất gia thì được thành Phật, thọ thức ăn, uống tối thượng bằng vị ngon nhất trong trời, người.

Bấy giờ, Thế Tôn nói lại nằng kệ:

Ăn uống ngửi nếm món vô thượng

Thí chủ luôn tu hành như vậy

hạnh lành này không thể lường

Hưởng khoái lạc như vườn hoan hỷ

Thọ nghiệp báo sanh xuống làm người

Ðược bảy tướng đại nhơn bảy chỗ đầy

Tay chân mềm mại không ai bằng

Nhờ tướng này được món thượng hạng

Tại gia hay xuất gia đều như vậy

Như Lai đoạn hẳn lậu ba cõi

Cho nên đắc thành Vô thượng tôn.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để tay chân mềm mại có tướng màng lưới mỏng dính lại với nhau? Vào thuở xa xưa khi Như Lai còn là người phàm, luôn dùng Tứ nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh, đó là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Có ai cầu xin điều gì cũng không làm trái ý họ, tích chứa nghiệp này cao xa cho đến Nhất sanh bổ xứ, luôn hưởng khoái lạc của cõi trời, sau sanh xuống làm người thì được hai tướng đại nhân:

1- Tay chân mềm mại.

2- Tay chân có màng lưới mỏng dính lại nhau. Nhờ tướng này nếu tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, còn nếu xuất gia thì thành Pháp vương, giáo hóa vô lượng chúng sanh như: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, phi nhơn.v.v...

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Tu bố thí, ái ngữ

Lợi hành cùng đồng sự

Luôn dùng bốn nhiếp pháp

Giáo hóa không bỏ ai

Do nhờ hành nghiệp này

Thường sanh lên cõi trời

Rồi sanh xuống làm người

Ðược hai tướng đại nhơn

Tay chân đều mềm mại

Và màng lưới dính nhau

Vi diệu mỏng nhỏ đẹp

Nhờ có hai tướng này

Tại gia làm Chuyển luân

Lấy pháp lành giáo hóa

Ai nấy đều thuận theo

Giữ gìn không vi phạm

Vui mừng khen Thánh vương

Ban ân không ai bằng

Lòng từ thấm bốn phương

Nếu lìa bỏ năm dục

Xuất gia được thành Phật

chúng sanh giảng pháp

Người nghe đều lãnh thọ.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng cổ chân Như Lai thẳng tròn và lôøng trên thân xoay về phía phải?

Phật dạy:

- Này Tỳ Xá Khư! Về thuở xưa, khi Như Lai còn là người phàm, luôn dùng pháp lành để giáo hóa chúng sanh, thường thực hành pháp thí không bao giờ nói lời vô nghĩa. Nhờ nghiệp này mà được tăng trưởng lớn mạnh cho đến đạt Nhất sanh bổ xứ. Sau sanh làm người được hai tướng đại nhơn:

1- Chân cao thẳng không thấy mắc cá.

2- Lông xoay tròn phía phải. Nhờ tướng này, nếu tại gia thì được làm Chuyển Luân Thánh Vương, bậc tôn quí cao nhất trong loài người, vui vẻ khoái lạc trong năm dục, có bảy báu, có một ngàn người con theo hầu bên cạnh. Nếu bỏ nhà vào núi học đạo thì được thành Phật, là bậc tôn quí tối thượng nhất trong trời người không có ai sánh bằng, tất cả chúng sanh đều cung kính tôn trọng:

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Luôn dùng pháp lành 

Lợi ích chúng sanh

Luôn dùng lời hay

Giáo hóa chúng sanh

Luôn dùng lực tốt

Giữ gìn chúng sanh

Hoan hỉ khoái lạc

Luôn ban pháp thí

Không còn ganh ghét

Nhờ có nghiệp này

Tích chứa vô lượng

Sanh làm loài người

Ðược tướng đại nhơn

Một: chân tròn thẳng

Không có mắt cá.

Hai: Lông xoay tròn

Ðều quay bên phải

Nếu là tại gia

Làm Chuyển Luân Vương

Làm vua thiên hạ

Nếu là xuất gia

Ðược chứng thành Phật

Bậc tôn quí nhất

Trong cõi trời người.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để chúng sanh tướng bắp chân như nai? Về vô lượng kiếp xa xưa khi Như Lai còn là người phàm, thường dạy bảo người về tất cả những sách vở, oai nghi, nghề nghiệp, thuốc men, chú thuật, dạy giữ cấm giới dạy cho họ đều đầy đủ, ta luôn suy nghĩ “làm thế nào để mọi người hiểu hoàn hảo về ý nghĩa mà mau thông đạt, không có tâm mệt mỏi nhàm chán”. Nhờ cất chứa nghiệp này rộng lớn cho đến Nhất sanh bổ xứ hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người được tướng đại nhơn có bắp chân giống như nai. Nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn thiên hạ, tất cả vật cần dùng để cúng dường hễ nghĩ đến thì có ngay. Nếu xuất gia thì được thành Phật, hễ cần những vật cúng dường trong cõi trời hay cõi người thì cũng đều có ngay.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Các sách đều chỉ dạy

Công xảo và chú thuật

Phương thuốc để trị bệnh

Luôn tự suy nghĩ rằng

Sao để họ chóng thành

Học tập không mệt mỏi

Lần lượt dạy người khác 

Do nhờ hành nghiệp này

Chứa nhóm không thể lường

Ðến Nhất sanh bổ xứ

Thành tướng tốt đại nhơn

Có bắp chân như nai

Thon đẹp và đầy đặn

Da mỏng lại mềm mại

Lông đứng xoay bên phải

Nhờ tướng đại nhơn này

Ký thành nhơn trung tôn

Tại gia làm Luân vương

Sở cầu mau thành tựu

Nếu xuất gia thành Phật

Tất cả vật cúng dường

Nghĩ ra có đầy đủ.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng da bóng láng trơn không bị dính bụi trần? Vào thuở xưa khi Phật còn là người phàm. Nếu có Sa môn, Ba la mật, Sát lợi, cư sĩ đến chỗ ta hỏi rằng: “Bạch Ðại đức! Những gì là hạnh thiện và những gì là bất thiện? Những gì là nên gần gũi và những gì nên tránh xa? Những hành nghiệp gì được hưởng an lạchành nghiệp gì phải thọ khổ não?” Thuở ấy ta phân biệt cho họ rằng:

Pháp này nên làm, pháp này không nên làm.

Pháp này nên hành, pháp này không nên hành.

Pháp này được khoái lạc, pháp này không khoái lạc.

Nhờ tích chứa vô lượng nghiệp này cho đến Nhất Sanh Bổ Xứthọ hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người được tướng đại nhân có làn da bóng mịn, không bị dính bụi nước. Ví như hoa sen tuy ở trong nước mà không bị nước làm ô nhiễm. Thân tướng của Như Lai cũng như vậy. Nhờ tướng này ở tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, thông minh trí tuệ, còn nếu ở thế gian làm Sa môn, Ba la mật, Sát lợi, cư sĩ thì không ai sánh bằng, còn nếu xuất gia học đạo thì sẽ thành Phật, có trí tuệ rộng lớn, trí tuệ lanh lợi tối thượng hơn hết, dù chư thiên, trời, người, Phạm, ma, Sa môn, Bàlamôn có trí tuệ cũng không thể sánh bằng.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Phật ở vô lượng đời

Làm người phàm tu hành

Nếu có ai đến hỏi

Khuyến khích dạy mau thành

Thường sống đời xuất gia

Khéo phân biệt nghĩa lý

Do nhờ hành nghiệp này

Ðược sanh lên cõi trời

trí tuệ rất lớn

Một khi sanh làm người

Ðược da bóng mịn màng

Nhờ có tướng tốt này

Thành tựu đại trí tuệ

Nếu làm dòng Sát lợi

Tại gia làm Chuyển Luân

Nếu khôngtại gia

Xuất gia được thành Phật

Ðại nhất thiết chủng trí

Trên trờicõi người

Không ai sánh bằng ngài.

 

KINH ƯU BÀ DI TỊNH HẠNH PHÁP MÔN

- Quyển thượng - hết -

 

 

Quyển hạ.

 

 

PHẨM THỨ NHẤT : TU HỌC

 

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để thân có màu vàng rực, ánh sáng chiếu rực rỡ giống như núi vàng ? Trong vô lượng kiếp xa xưa, Như Lai thường thích tu tập điều thiện, không sân, không giận. Nếu có chúng sanh nào mắng đập thì Như Lai nhẫn nhục không sân giận, luôn luôn thấy xấu hổ và luôn có lòng đại bi. Vì đó đều là quả báo kiếp trướcquá khứ nên thường tự trách mình, hay thực hành bố thí, đem những loại y phục mềm mại như : lông cù, ma kiếp bối, kiêu xa da để bố thí cho người. Như thế, cứ trải qua vô lượng đời tích trữ công đức sâu dày như vậy nên thường hưởng sự vui sướngcõi trời, sau sanh làm người thì được tướng màu vàng rực của bậc đại nhân, màu vàng là màu tối thượng nhất. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn thiên hạ. Ở trong bốn thiên hạ nếu có những loại y phục mềm mại như : Cù lâu, tọa cụ, sô ma, kiếp bối, kiêu xa da, khâm bà la và tất cả vật mềm mại nào trong thế gian thì vua đều có tất cả. Nếu xuất gia thì được thành Phật. Hễ trong nhân dân có các y phục mềm mỏng như : ngọa cụ, kiếp bối, sô ma, khâm bà la thì Như Lai cũng đều có cả những vậy như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn nói lại bằng kệ :

Tâm không có sân giận

Luôn xấu hổ tự trách

Bố thí áo mềm đẹp

Cúng vải, vật vô giá

Luôn bố thí chúng sanh

Cho rồi lòng vui mừng

Sung sướng không luyến tiếc

Như người gặp lửa cháy

Cứu vật ra rất vui

Nghiệp tốt không thể lường

Sanh thêm hưởng khoái lạc

Sau đó sanh làm người

Ðược thân tướng đại nhân

Thân thể màu vàng rực

Giống như núi chúa vàng

Tại gia làm Chuyển Luân

Cai trị bốn thiên hạ

Ðược thân thể mịm màng

Một áo giá ngàn vạn 

Nếu học đạo thành Phật

Ðộ trời, người, rồng, thần

Y phục cũng như vậy.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để có tướng âm mã tàng ? Trong vô lượng kiếp trong kiếp quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm. Như Lai thích tu hành vui vẻhòa hợp với mọi người, như cùng với cha mẹ, nam nữ, anh em, chị em, dòng họ, bạn bè, quyến thuộc, thiện hữu tri thức cho đến loài súc sanh. Nếu có người chia ly thì mong họ được hòa hợp, làm theo sở thích của họ để họ hòa hợp hoan hỷ. Nhờ nghiệp tích trữ nhiều phước đức này mà thường sanh lên cõi trời, hưởng phước lạc cõi trời. Sau sanh vào nhân gian, cứ lần lượt vô lượng, vô biên kiếp như vậy cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ được tướng AÂm mã tàng. Nhờ tướng này được làm Chuyển Luân Vương có một ngàn người con, cai trị bốn thiên hạ. Ngàn con dõng mãnh có thể đánh bại kẻ địch. Nếu xuất gia thì được thành Phật. Từ pháp sanh con hơn ngàn vạn, dõng mãnh nhiều sức mạnh có thể đẩy lùi ma oán.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Trải qua vô lượng kiếp

Khi ta làm người phàm

Luôn hòa hợp với chúng

Ðể được sống an lạc

Như cha mẹ, nam nữ

Anh em và chị em

Thân thích các quyến thuộc

thiện hữu tri thức

Ai khổ vì xa lìa

Khéo hòa để an vui

Nhờ tạo hành nghiệp này

Thường sanh trong trời người

Hưởng khoái lạc cõi trời

Sau sanh vào loài người

Ðược tướng âm mã tàng

Dõng mãnh không ai bằng

Ðánh bại kẻ địch thù 

Luôn cúng dường cha mẹ

Ðể được vui hoan hỷ 

Nếu xuất gia thành Phật

Con pháp có ngàn vạn 

Giới, định sức thần thông

Ðánh dẹp bọn ma oán.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để có thân tròn đầy giống như cây Ni Câu Luật, thân đứng thẳng như Phạm thiên, tay đụng đầu gối ? Xưa kia, khi Như Lai còn là người phàm, luôn luôn tu lòng từ rộng lớn, quán sát rất rõ về những pháp bất đồng thô tế, thiện ác, đây là trí tuệ, kia là ngu si, đây là tinh tấn đây là biếng nhác, đây là sân giận, kia là nhẫn nhục, phân biệt rõ ràng như vậy rồi theo từng loài mà ta giáo hóa hướng dẫn họ. Nhờ nghiệp này mà đã vô lượng lần sanh vào cõi người, cõi trời cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ. Khi sanh vào loài người thì được hai tướng đại nhân :

1- Thân Phạm thiên tròn đầy giống như cây Ni Câu Luật.

2- Thân cao thẳng tay đụng đầu gối.

Nhờ tướng này nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ của cải giàu có vô lượng như vàng, bac, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu... ngũ cốc dồi dào tươi tốt, kho tàng đầy ắp. Nếu như xuất gia thì được thành Phật, đầy đủ thất tài : Tín, giới, thí, văn, huệ, tàm và quí. Như Lai cũng có vô lượng vô biên những vật như vậy.

Khi ấy, Thế Tôn nói lại bằng kệ :

Ta trong đời quá khứ

Hay cân nhắc chúng sanh

Chọn lựa phân biệt rồi

Quán sát đều bình đẳng

Phân biệt các chúng sanh

Tùy loài mà ban bố

Do nhờ hành nghiệp này

Thường sanh vào cõi trời

Sau sanh vào loài người

Chân ngay thẳng không cong 

Hai tay đụng đầu gối 

Giống như cây Ni Câu

Từ đất mọc tròn đều 

Thân Phật cũng như vậy

Vô lượng kiếp đến nay

Sanh từ đất hành nghiệp

Hiện hai tướng giàu có

Khiến thiên hạ thái bình

Tại gia thọ năm dục

Ðược làm Chuyển Luân Vương

Xuất gia bỏ năm dục 

Ðược thành đấng Vô thượng.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để được ba tướng của bậc đại nhân ?

1- Ngực như sư tử.

2- Sau ót có tỏa ánh sáng.

3- Vai cổ tròn trịa.

Thuở quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm luôn luôn làm lợi ích cho chúng sanh để họ có cuộc sống an lạc, có lòng tin, giữ giới, đa văn, trí tuệ, bố thí, tài của, lúa mạch, ruộng vườn, nô tỳ, trâu dê, voi ngựa, xe cộ, vợ con, nam nữ, thị tùng, quyến thuộc, thân thích làm cho được phát triển. Nhờ nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời, sau sanh làm người được ba tướng đại nhân :

1- Ngực như Sư tử.

2- Sau ót phóng ánh sáng.

3- Vai cổ tròn trịa.

Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, pháp thường tăng trưởng, tài vật, ruộng nhà, ngũ cốc dồi dào sung túc, vợ con, quyến thuộc, nô tỳ, thị tùng, thiện hữu tri thức, tất cả đều đầy đủ không có giảm bớt. Nếu xuất gia thì được thành Phật, đầy đủ thất tài và bốn bộ quyến thuộc cũng không giảm bớt.

Bấy giờ, Thế Tôn nói lại bằng kệ :

Tín tâm trì giới

Ða văn trí tuệ

Nô tỳ, voi ngựa

Trâu, dê, ruộng nhà

Vợ con, quyến thuộc 

Thiện hữu tri thức

Luôn nghĩ điều thiện

Làm sao khiến họ

Sắc, lực, an lạc

Tăng trưởng rất lớn

Do nhờ nghiệp này

Thường sanh lên trời

Sau sanh làm người

Ðược tướng Ðại nhân

Ngực như Sư tử

Ót phóng ánh sáng

Vai cổ tròn trịa

Thành tựu ba tướng

Nếu là tại gia

Quyến thuộc vợ con

Nô tỳ voi ngựa

Ðều được hưng thịnh

Nếu là xuất gia

Ðược thành quả Phật

Quyến thuộc tăng trưởng

Pháp luôn trường tồn

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để ngực có chữ Vạn. Về thuở xa xưa, khi là người phàm Như Lai không bao giờ làm não loạn chúng sanh, không đánh đập cũng không nhốt trói. Nhờ tích chứa hành nghiệp lành này rộng lớn nên thường sanh lên cõi trời. Sau sanh làm người, được tướng đại nhân, ngực có chữ Vạn. Nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, không có các tật bệnh, bốn mùa điều hòa thích hợp, không nóng, không lạnh. Nếu xuất gia thì được thành Phật, cũng không có các bệnh hoạn, luôn được điều hòa, không lạnh không nóng, thân thể nhẹ nhàng, nhập vào tam muội.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Không nhốt, trói chúng sanh

Cũng không đánh đập họ

Không dùng những đao, gậy

Làm não hại chúng sanh

Do nhờ hành nghiệp này

Thường sanh trong trời người

Hưởng khoái lạc cõi trời

Ðến Nhất Sanh Bổ Xứ

Sau sanh vào nhân gian

Ðược tướng của Ðại nhân

Giữa ngực có chữ Vạn

Do nhờ tướng tốt này

Không có các bệnh hoạn

Tại gia hay xuất gia

Thường thọ hưởng khoái lạc

Nếu là dòng Sát lợi

Làm vua bốn thiên hạ

Nếu xuất gia học đạo

Ðắc thành đấng Vô thượng

Luôn dược vui thượng diệu.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào mà mắt có màu biếc giống như hoa sen xanh. Trong vô lượng kiếp về quá khứ, khi Phật còn người phàm, luôn tu tập hạnh lành, không đem tâm ác độc mà phùng man trợn mắt nhìn chúng sanh không đem tâm dục mà ngó liếc, luôn đem tâm xả lìa bỏ ái si mà nhìn thẳng chúng sanh. Nhờ nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời hưởng khoái lạc trời, sau sanh làm người được hai tướng đại nhân :

1- Mắt màu xanh biếc, hai mí trên dưới đều nháy một lượt.

2- Tròng mắt khi nháy hiện ra ánh sáng mau xanh biếc.

Nhờ tướng này, nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ làm cho tất cả nhân dân Sa môn, Bàlamôn, Sát lợi, cư sĩ, vợ con quyến thuộc, quần thần, người hầu cận đều ngắm nhìn vua không biết chán. Nếu xuất gia thì được thành Phật, làm cho các chúng sanh trong bốn bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, người, A tu la, Ma hầu la già, Càn thát bà... Tất cả các chúng sanh đều phát sanh tâm thiện hoan hỉ giống như chiêm ngưỡng Như Lai không biết chán.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Trải bao kiếp quá khứ

Khi Phật làm người phàm

Thường tu các hạnh lành

Không đem tâm sân giận

Và phùng man trợn mắt

Cũng không vì ái nhiễm

Tâm dục nhìn chúng sanh

Mắt tịnh lìa cấu dục

Tâm hoan hỉ nhìn thẳng

Do nhờ hành nghiệp này

Ðược sanh vào cõi trời

Ðến Nhất Sanh Bổ Xứ

Sau sanh làm loài người

Mắt, lông mi xanh biếc

Mắt như hoa sen xanh

Trên dưới nháy một lượt

Nhờ tướng đại nhân này

Ðược thông minh trí tuệ

Tất cả các chúng sanh

Thích nhìn không biết chán

Tại gia làm Chuyển Luân

Thành tựu đại trí tuệ

Có đầy đủ bảy báu

Cai trị bốn thiên hạ

Xuất gia được thành Phật

Chứng được Nhất thiết trí.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào mà trên đảnh có nhục kế, tóc xanh biếc ? Ðời quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm, luôn tạo công đức cho người, giữ thân, khẩu, ý, nghiệp, bố thí, trì giới, mỗi tháng tu sáu ngày trai giới, cúng dường cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, bạn bè quyến thuộc, những vị tuổi cao đức lớn. Lại có hành nghiệp thiện không thể đếm xuể. Nhờ tích chứa vô lượng hạnh này mà thường hưởng khoái lạc ở cõi trời, cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ. Sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân : Một là trên đảnh có nhục kế, hai là tóc xanh biếc. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, làm chỗ nương tựa cho nhân dân. Nếu là xuất gia thì được thành Phật, làm chỗ nương tựa cho bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la già, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhơn.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ :

Ta ở đời quá khứ

Người đứng đầu tu thiện

Luôn tu hành phạm hạnh

Làm chỗ dựa cho người

Qua đời sanh lên trời 

Hưởng khoái lạc chư thiên

Sau sanh vào nhân gian

Ðược hai tướng đại nhân

Trên đảnh có nhục kế 

Tóc xoắn màu xanh biếc

Tại gia làm Chuyển Luân

Cai trị bốn thiên hạ

Dùng năm giới thập thiện

Cứu giúp cho nhân dân

Nếu xuất gia học đạo

Chứng thành đấng vô thượng

Thường lấy giới - định - huệ

Chỉ dạy các chúng sanh

Luôn làm chỗ nương tựa

Cho các trời, người, rồng

Thần, Dạ xoa, Càn thát

A tu la vân vân.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để mỗi lỗ chân lông có mỗi sợi lông, giữa chặn mày có lông trắng giống như Ðâu La Miên ? - Thuở xưa, khi còn là người phàm, Phật luôn tu hành không vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, luôn tu hành lời nói thật, tâm chân chánh với lời nói thật, cũng không có lời nói thêu dệt, lời nói luôn luôn dịu dàng, nhỏ nhẹ tùy thuận với chúng sanh. Do hành nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời hưởng khoái lạc, sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân.

1- Mỗi lỗ chân lông chỉ có mỗi sợi lông. Lông ấy mềm mại và đều xoay về phía bên phải, không dính bụi nước.

2- Giữa chặn mày lông đẹp đẽ giống như Ðâu La Miên chiếu sáng.

Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, nhân dân hưng thịnh phát triển vô cùng khoái lạc. Nếu xuất gia thì làm Phật, làm cho bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tăng trưởng vô lượng vô biên khắp thế gian.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Ta ở đời quá khứ

Luôn tu không vọng ngữ

Mở miệng chưa từng nói

Lời dối gạt không thật

Thích ứng với thế gian

Nói năng không lầm lỗi

Nhờ những hành nghiệp này

Luôn sanh vào cõi trời

Sau sanh làm loài người

Ðược hai tướng đại nhân.

Lông trắng sáng chặn mày

Mềm mại như Ðâu Miên

Lỗ lông chân một sợi 

Tất cả đều xoay phải

Nhờ có hai tướng này

Tại gia làm Chuyển Luân

Cai trị bốn thiên hạ

Nhân dân phát triển mạnh

Nếu bỏ nhà học đạo 

Chứng đắc đại pháp vương

Chỉ dạy các trời người

Khiến chánh pháp tăng trưởng.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào mà miệng có bốn mươi cái răng, răng trắng đều khít ? - Trong vô lượng kiếp thuở xưa Như Lai luôn tu hành không nói lời hai lưỡi. Nghe người này không đến nói với người kia. Nghe người kia không đến nói với người này. Sau khi nghe hai bên vì lợi ích hoan hỉ mà đến nói với họ. Nhờ nghiệp này nên luôn hưởng khoái lạc của cõi trời, sau sanh làm người được hai tướng đại nhân : Một là miệng có bốn mươi cái răng; hai là răng trắng đều và khít. Nhờ tướng này nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, không có trộm cướp, quyến thuộc thanh tịnh, vững vàng không hư hoại. Nếu xuất gia thì được thành Phật, có bốn bộ chúng : Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di kiên cố thọ trì pháp tạng của Như Lai, không bị bốn ma phá hoại.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Như Lai đời quá khứ

Tu hành không hai lưỡi

Không não loạn chúng sanh

Luôn hòa hợp mọi người

Hành nghiệp sanh lên trời

Hưởng khoái lạc chư Thiên

Sau sanh làm loài người

Ðược hai tướng đại nhân

Miệng có bốn mươi răng

Răng trắng đều và khít

Tại gia dòng Sát lợi

Cai trị bốn thiên hạ

Vua có bốn binh chủng

Kiên cố khó phá hoại

Sát lợi, Bà la môn

Không thể lay chuyển được.

Nếu xuất gia thành Phật

Ðầy đủ bốn bộ chúng

Luôn được hàng trời người

Cung kínhtôn trọng.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào mà có tướng lưỡi rộng dài phát ra tiếng Phạm âm giống như tiếng chim Ca lăng tần già ? - Vào thuở xưa, khi đức Phật còn là người phàm, không nói lời thô, xả bỏ lời nói thô, tránh xa lời nói thô, luôn nói những lời nói tốt đẹp, lời nói dịu dàng để thấm sâu vào tâm người khiến họ thích nghe và dùng những lời đại từ bi, lời nhất quyết, lời nói ân nghĩa sâu xa, được người yêu mến nhớ nghĩ. Nhờ siêng năng tu tập nghiệp này cao rộng nên thường hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân :

1- Lưỡi rộng dài liếm phủ cả mặt.

2- Tiếng Phạm âm dịu dàng như tiếng Ca lăng tần già khiến ai cũng thích nghe.

Nhờ tướng này nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, nói ra điều gì hết thảy nhân dân đều thích nghe vui vẻ và tuân làm theo. Nếu không thích tại gia lại xuất gia học đạo thì được thành Phật, nói ra lời gì thì Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, người, phi nhơn đều cung kính lãnh thọ hoan hỷ phụng hành.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Phật vào đời quá khứ

Tu tập lời nói thiện

Không sanh cũng không giận

Không nói lời thô bạo

Luôn nói lời từ bi

Lời chính xác dịu dàng

Lời nhất vị như vậy

Sau đó mới phát ngôn

Nhờ hành nghiệp như vậy

Ðược tướng lưỡi rộng dài

Tiếng Phạm âm hòa nhã

Như tiếng chim Ca Lăng

Nhờ hai tướng đại nhân

Tại gia làm Chuyển Luân

Nếu nói ra lời gì

Nhân dân đều tuân theo

Nếu xuất gia thành Phật

Chuyển bánh xe Vô thượng

Diệu pháp được nói ra

Khiến trời, người, tu la

Rồng, thần và dạ xoa

Nghe rồi đều phụng hành.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để có cằm như sư tử ? Vào thời quá khứ, khi Phật làm người phàm luôn tu tập không nói lời thêu dệt, xả bỏ lời nói thêu dệt, mà luôn nói lời hợp thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời oai nghi, lời thường trụ, lời hữu biên. Nhờ tích tụ vô lượng công đức nghiệp này nên thường hưởng khoái lạc của cõi trời. Sau sanh làm người thì được tướng đại nhân có cằm như Sư tử. Với tướng này, nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, tất cả nhân dân không ai dám nổi loạn. Nếu xuất gia thì được thành Phật, trời, người, A tula, phạm, ma, Sa môn, Bà la môn, oan gia trong hoặc ngoài nước không ai dám chống lại Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Ta ở đời quá khứ

Không nói lời thêu dệt

Cũng không tự khen mình

Và nói lời tạp ngữ

Ðoạn diệt lời vô nghĩa

Luôn nói lời hợp thời

Nói ra cốt làm vui

Lợi ích cho chúng sanh

Do có hành nghiệp này

Luôn hưởng khoái lạc trời

Sau sanh làm loài người

Có cằm giống Sư tử

Tại gia làm Chuyển Luân

Cai trị bốn thiên hạ

Với tướng đại nhân này

Không ai dám nổi loạn

Xuất gia được thành Phật

Sa môn, Phạm, Ma vương

Trời, người, A tu la

La hầu, Khẩn na la

Các oan gia trong ngoài

Không ai dám chống lại.

Lại nữa, này Tỳ Xá Khư ! Tu hành như thế nào để có bốn răng đều, khít, trắng sạch và tỏa sáng ? - Vào thuở xưa, khi Phật còn là người phàm, xả bỏ cuộc sống xấu ác mà luôn nghĩ nghề chân chánh để sinh sống, cũng không làm những việc cân lường lừa gạt người, dùng vật hư dối để lừa gạt người, dùng biến hóa để lừa gạt, yêu thương để lừa gạt. Tất cả những cách lừa gạt như vậy đều đoạn tận. Nhờ hành nghiệp này mà tích tụ được phước sâu dày, nên sau khi qua đời sanh lên cõi trời, hưởng khoái lạc ở mười chỗ. Thế nào là mười ?

1- Tuổi thọ của trời.

2- Sắc đẹp của trời.

3- AÂm nhạc của trời.

4- Tiếng tốt đồn xa của trời.

5- Vua trời.

6- Sắc trời.

7- AÂm thanh của trời.

8- Hương thơm của trời.

9- Mùi vị của trời.

10- Xúc chạm của trời.

Sau khi hưởng khoái lạc về mười chỗ ở cõi trời rồi, sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân.

1- Răng không lớn, không nhỏ.

2- Màu răng trắng sạch.

Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ. Bốn bộ chúng : Chúng Bà la môn, chúng Sát lợi, nơi xóm làng thành ấp, đại thần, trưởng giả, phi hậu, thể nữ và chư thiên đều nghiêm tịnh. Nếu xuất gia thì được thành Phật cũng có bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, người, A tu la, Càn thát bà đều thanh tịnh.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Ta ở đời quá khứ

Xả bỏ mưu sinh ác

Lợi bằng pháp thanh tịnh

Chánh mạng để nuôi thân

Trừ bớt khổ chúng sanh

Ðể họ được an vui

Nhờ có hành nghiệp này

Hưởng mười khoái lạc trời

Thường được các trời người

Tôn trọng và khen ngợi

Vua thú khoái lạc trời

Sau sanh làm loài người

Nhờ quả tu nghiệp lành

Ðược hai tướng đại nhân

Răng không bị to nhỏ

Màu răng trắng tỏa sáng

Sanh vào dòng Sát lợi

Tại gia làm Chuyển Luân

Có bốn binh vây quanh

Thanh tịnh không nhơ bẩn

Xuất gia được thành Phật

Thường được các bốn chúng

Tỳ kheo, Tỳ kheo ni

Ưu bà tắc, Ưu bà di

Trời, người, A tu la

Rồng, thần và Dạ xoa

Thanh tịnh không cấu nhiễm

Ðều cung kính vây quanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Ðó gọi là hai mươi cách tu hành để được ba mươi hai tướng đại nhân. Nhờ tướng này mà trang nghiêm thân vi diệu của Như Lai. Lại nữa, Tỳ Xá Khư ! Thân Phật lại có tám mươi vẻ đẹp, tám mươi vẻ đẹp đó là :

1- Móng tay đỏ hồng.

2- Móng tay nổi tròn lên đẹp.

3- Móng tay bóng láng.

4- Móng tay đầy đặn.

5- Ngón tay tròn trịa.

6- Ngón tay thon thẳng.

7- Ngón tay khép kín.

8- Ngón tay sạch sẽ.

9- Tay chân nõn nà.

10- Phía trong tay chân đỏ hồng.

11- Tay chân bằng phẳng.

12- Bên trong tay chân đầy đặn.

13- Vân tay hiện lên sâu.

14- Vân tay thẳng đẹp.

15- Vân tay nhỏ dài.

16- Tay chân mịn màng.

17- Vân tay không rối.

18- Xương mắt cá không lồi ra.

19- Ðầu gối tròn đầy.

20- Bắp chân đều đặn.

21- Bước đi bằng phẳng.

22- Ði như Sư tử chúa.

23- Ði như chim ngỗng trời.

24- Tướng đi như Long vương.

25- Tướng đi như Ngưu vương.

26- Ði không nhìn ra sau.

27- Bước đi không nghiệp ngã.

28- Nửa thân cao thẳng.

29- Thân Phật cao hơn người.

30- Toàn thân đầy đủ.

31- Thân Phật đều đẹp.

32- Thân thể cân đối.

33- Thân thể đầy đặn.

34- Thân thể thẳng đứng.

35- Thân thể bóng sáng.

36- Thân lớn nhỏ đều đặn.

37- Thân thể sạch đẹp.

38- Thân thể mềm mại.

39- Thân thể tịch tịnh.

40- Thân thể chắc chắn.

41- Thân thể chắc nịch.

42- Thân thể đoan nghiêm.

43- Các căn đều đặn.

44- Sắc thân không đen.

45- Thân thể không tối.

46- Lông trên thân sạch sẽ.

47- Tướng bụng tròn trịa.

48- Bụng không có ngấn ngang.

49- Thân thể sáng sạch thấy các sắc tướng.

50- Rốn sâu.

51- Lỗ rốn tròn.

52- Vân rốn xoay về bên phải.

53- Lỗ rốn không trủng.

54- Miệng rốn không dài.

55- Miệng rốn không ngắn.

56- Lông rốn hướng về phía dưới.

57- Có tướng răng của rồng.

58- Môi che kín răng.

59- Bốn răng giữa tròn đều.

60- Bốn răng nanh sắc bén.

61- Bốn răng nanh nhọn dài.

62- Bốn răng nanh đều khít.

63- Lưỡi rộng mềm mại.

64- Màu lưỡi hồng đẹp.

65- Tiếng Phạm âmvi diệu.

66- Tiếng như voi chúa.

67- Tiếng như chim Ca lăng tần già.

68- Nứu răng thịt đầy.

69- Mũi không dài xuống.

70- Mũi cao nhỏ dài.

71- Lỗ mũi sạch sẽ.

72- Mũi suông rộng.

73- Mắt đẹp sáng long lanh.

74- Mắt đen sáng.

75- Lông mi mắt có thứ lớp.

76- Lông mày dài như nữa vầng trăng.

77- Lông mày đen mướt dài ngắn có thứ lớp.

78- Lông mày sáng sạch mướt.

79- Tai thòng xuống trong ngoài sạch sẽ.

80- Tóc mềm mại quay về bên phải không rối dài theo thứ lớp, rất đẹp.

Này Tỳ Xá Khư ! Ðó là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Ngày đêm thọ trì

Tất cả giới cấm

Vô lượng khổ hạnh

đại Phạm chí

Ba mươi hai tướng

Tám mươi vẻ đẹp.

Anh lạc nghiêm thân

Ðấng thiên nhân tôn

Ánh sáng rực rỡ

Chiếu diệu vô cùng

Xanh đỏ vàng trắng

Xen lẫn với nhau

Uyển chuyển xoay tròn

Khắp cả hư không

Phóng ánh sáng lớn

Chiếu vô lượng cõi

Ba ngàn thế giới

Như Lai thường sáng

Chiếu tới một tầm

Khi phóng ánh sáng

Che lấp nhật nguyệt

Như mặt trời mọc

Không thấy các sao

Nếu phóng ánh sáng

Chiếu cả thế giới

Nhật quang như trăng

Màu trắng như sao

Nhờ nói vạn hạnh

Ðược thân như vậy

Ðược các chúng sanh

Ưa thích ngắm nhìn

Vui vẻ chiêm ngưỡng

Không bao giờ chán.

 

 

PHẨM THỨ HAI : ÐIỀM LÀNH

 

Sau khi đức Phật nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng khôn xiết bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Khi Bồ tát ở trong thai mới sanh có bao nhiêu tướng điềm lành kỳ lạ tốt đẹp hiện ra thế gian.

Phật dạy Tỳ Xá Khư :

- Khi1 sinh ra có mười sáu tướng kỳ lạ tốt đẹp, mười sáu tướng đó là :

Nghĩa là xả thâncõi trời Ðâu Suất ở trong thai nhớ biết rất rõ ràng. Ðây là pháp kỳ lạ hiếm có thứ nhất.

Sau khi Bồ tát xả thâncõi trời vào thai mẹ tự nhiên ánh sáng chiếu khắp thế gian. Chỗ tối tăm ở giữa thế giới, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, sao, không thể chiếu tới thì đều có ánh sáng lớn. Chúng sanh trong đó đều nhìn thấy lẫn nhau, và họ nói rằng : “Trong đây vì sao bỗng nhiên có chúng sanh. Tất cả ánh sáng của tất cả thế gian phạm, ma, Sa môn, Bàlamôn đều không thể sánh kịp. Ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách, các núi Tu Di đều chấn động không ngừng. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ hai.

Bồ tát ở trong thai có bốn thiên tử giữ đúng oai nghi ở ngay bốn phương hộ vệ Bồ tát và mẹ của Bồ tát, không để các người, phi nhơnthế gian làm não hại. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ ba.

Bồ tát ở trong thai tự nhiên làm cho người mẹ giữ giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ tư.

Bồ tát ở trong thai mẹ, người mẹ thanh tịnh không có tâm dục. Người ngoài thấy bà cũng không sanh tâm nhiễm. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ năm.

Bồ tát ở trong thai thường khiến người mẹ được rất nhiều lợi dưỡng về sắc, hương, vị, xúc tự nhiên đem đến. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ sáu.

Bồ tát ở trong thai, người mẹ luôn an vui, không có các hoạn nạn về tật bệnh, đói khát, lạnh nóng, mệt mỏi, Bồ tát cũng vậy. Người mẹ luôn thấy Bồ tát ở trong thai, giống như ngọc ma ni Tỳ lưu ly quí báu đều suốt trong ngoài sáng rực nhìn thấy rõ ràng, dùng chỉ năm màu để xâu. Người mắt sáng cầm trong tay thì thấy tám cạnh của viên châu và chỉ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng rất rõ ràng. Người mẹ thấy tất cả bộ phận của Bồ tát rõ ràng không bị ngăn che. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ bảy.

Này Tỳ Xá Khư ! Sau khi Bồ tát sanh được bảy ngày, thì người mẹ qua đời sanh lên cõi trời Ðâu Suất, hưởng khoái lạc của trời. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ tám.

Người phàm phu thọ thai là chín tháng hoặc đến mười tháng mới sanh, Bồ tát thành tựu không như vậy, mà phải đủ mười tháng sau đó mới sanh. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ chín.

thế gian khi phụ nữ sắp sanh thì thân thể đau đớn, ngồi nằm không yên, sau đó mới sanh. Còn khi Bồ tát sanh ra người mẹ an lạc, không có các bệnh đau, mà còn hoan hỷ vui tươi đứng giơ tay lên để sanh. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười.

Khi Bồ tát sanh ra khỏi thai được chư thiên đón lấy, sau đó được người bồng ẳm. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười một.

Sau khi được người đời bồng rồi bốn thiên tử đón bồng cung kính đặt trước người mẹ và tâm họ rất vui mừng cùng nói : “Lành thay thưa phu nhân : Người đã sanh một thái tử dõng mãnh đại oai đức”. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười hai.

Khi Bồ tát mới sanh ra, không có nước máu và thai nhau với các vật không sạch sẽ. Thân của Bồ tát thanh tịnh, như châu ma ni được bọc trong tấm nhung già tư, nhưng không ố lẫn nhau. Vì sao ? Vì hai bên đều sạch sẽ, Bồ tát mới sanh cũng vậy, thanh tịnh không nhiễm giống như châu ma ni. Còn người mẹ đẹp đẽ giống như tấm nhung kia. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười ba.

Khi Bồ tát sanh ra, ở trong hư không tự nhiên có hai dòng nước chảy xuống, một là lạnh, hai là ấm để tắm thân Bồ tát. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười bốn.

Sau khi sanh ra đi về hướng Bắc bảy bước. Bấy giờ, trên hư không tự nhiên có lọng che Bồ tát. Sau khi đi bảy bước rồi Bồ tát nhìn khắp mười phương rống tiếng sư tử xướng như vầy : “Trong tất cả thế gian chỉ có Ta là tối thượng, Ta là tối tôn trong trời người chấm dứt đời này ta không trở lại nữa”. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười lăm.

Khi Bồ tát sanh ra, tất cả chúng sanh cho đến loài côn trùng trong ba ngàn đại thiên thế giới đều rất vui vẻ. Ðây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười sáu.

Này Tỳ Xá Khư ! Ðó gọi là Như Lai ở trong thai mới sanh ra thì có mười sáu pháp kỳ lạ như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Từ Ðâu Suất qua đời

Sau sanh làm loài người

Ở trong thai mới sanh

Thanh tịnh không cấu nhiễm

Mười sáu pháp kỳ lạ 

Vi diệu chưa từng có

Khi trong thai sanh ra

Không giống với chúng sanh

Khi sanh không mê muội

Tiếng tăm là số một

Hiện rất nhiều tướng lành

Ðiềm Phật sanh như vậy.

Sau khi Thế Tôn nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng càng hỏi nữa :

- Bạch Thế Tôn ! Khi Bồ tát sanh ra thì có bao nhiêu điềm lành hiện ra cùng một lúc ?

Phật dạy Tỳ Xá Khư :

- Khi Bồ tát sanh ra có ba mươi hai điềm lành hiện cùng một lúc. Ba mươi hai điềm lành ấy là gì ?

1- Ðại địa trong ba ngàn đại thiên thế giới chấn động, tự nhiên có ánh sáng lớn chiếu cả thế giới.

2- Tất cả nhạc cụ tự nhiên trỗi lên.

3- Không gõ mà kêu.

4- Tất cả tật bệnh tự nhiên hết hẳn.

5- Tất cả người bị trói buộc tự nhiên được giải thoát.

6- Tất cả oan gia đều sanh lòng từ bi.

7- Người mù được mắt sáng thấy tất cả màu sắc.

8- Người điếc được nghe các âm thanh.

9- Người què được đi lại tùy ý.

10- Người điên đươc trí nhớ rõ ràng.

11- Câm ngọng được nói.

12- Ði thuyền bị trôi dạt thì được trở về chỗ cũ.

13- Tất cả bảy báu ở mặt đất và hư không tự nhiên phát ánh sáng.

14- Các sông vạn dòng đều đứng yên không chảy.

15- Tất cả loài chim bay có cánh rất vui mừngđứng yên.

16- Gió không lay động, tất cả đều lặng yên.

17- Tất cả chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau đều sanh lòng từ.

18- Tất cả chư thiên trở về cung điện của mình chơi khoái lạc.

19- Lửa dữ ở địa ngục A tỳ tự nhiên dập tắt.

20- Ðói được no nên.

21- Tất cả ngạ quỉ không bị đói khát.

22- Bốn thiên hạ đều nổi mây lớn và mưa lớn.

23- Ánh sáng mặt trăng sáng dịu dàng.

24- Các vì sao mọc ban ngày.

25- Mặt trời tròn sáng ngời.

26- Tất cả cây có hoa đều trổ hoa.

27- Tất cả cây có trái tự nhiên kết trái.

28- Ba ngàn đại thiên thế giới phát ra hương thơm cõi trời không có mùi hôi thối.

29- Khi Bồ tát sanh đi bảy bước.

30- Trên hư không có lọng trắng tự nhiên che mát.

31- Sau khi đi bảy bước rồi nhìn khắp mười phương.

32- Rống tiếng như Sư tử.

Này Tỳ Xá Khư ! Ðó gọi là khi Bồ tát mới sanh có ba mươi hai pháp xuất hiện cùng một lúc.

Tỳ Xá Khư Mẫu bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Khi Bồ tát sanh vì lý do gì mà chấn động ba ngàn đại thiên thế giới ?

Phật dạy Tỳ Xá Khư :

- Khi Bồ tát sanh làm cho đại địa chấn động là vì khi Bồ tát thị hiện sanh ở cõi đời này thì đã chấm dứt không còn phiền não. Những chúng sanh nào sắp đắc đạo thì phiền não sẽ diệt trừ cho nên đất chấn động.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh tự nhiên có ánh sáng chiếu khắp thế giới, vì Bồ tát đắc Tam Ðạt Trí.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh những nhạc cụ ở thế gian tự nhiên trỗi lên, vì Bồ tát được nhập Tam muội.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh vật không gõ mà tự nhiên kêu, vì Bồ tát sắp đánh trống đại pháp.

Này Tỳ Xá Khư ! Tất cả những người bị trói buộc tự nhiên được giải thoát, vì Bồ tát sắp độ thoát tất cả chúng sanh trong cảnh già, bệnh, chết.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh tất cả oan gia đều sanh lòng từ. Vì Bồ tát đắc bốn tâm vô lượng.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh tật bệnh đều hết hẳn, vi Bồ tát sắp diệt trừ tất cả các phiền não.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người mù được sáng, vì Bồ tát đắc Thánh Trí Nhãn.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh người điếc được nghe, vì Bồ tát đắc Thánh Thiên Nhĩ.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người què đi được, vì Bồ tát đắc lực bốn thần túc.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người điên được nhớ lại, vì Bồ tát đắc niệm An na bát na.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người câm được nói, vì Bồ tát đắc pháp thần thôngNhư Lai đã biết.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người đi thuyền trôi được trở về, vì Bồ tát đắc Bát Chánh Ðạo để dạy chúng sanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì bảy báu trên mặt đất và hư không tỏa ánh sáng, vì Bồ tát đắc bốn vô ngại trí.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì các sông vạn dòng đều ngưng chảy, vì Bồ tát đã làm ngưng đọng bốn sông phiền não.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì tất cả chim bay rất mừng đứng yên, vì Bồ tát sắp phá các tà kiến.

Này Tỳ Xá Khư ! Sau khi Bồ tát sanh gió ngừng thổi vì Bồ tát được thường lạc diệt tận tam muội.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì những chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau đều sanh lòng từ, vì Bồ tát được bốn bộ quyến thuộctôn quí hay ty tiện giàu sang hay nghèo hèn đều được hòa hợp.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh ra thì chư thiên về cung điện vui chơi, khi Bồ tát thành Phật thì các thiện nam, thiện nữ xuất gia học đạo đến đắc A la hán, việc làm đã xong dứt tận nguồn sanh tử trong ba cõi xả bỏ gánh nặng thành vô vi vô dục luôn thích nơi tịch tịnh vui vẻ hoan hỉ. Họ nói với nhau : Chúng ta nay đã được thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết không còn bị sanh tử ở trong thai nữa, mà là tịch tịnh vô nhiễm, như nước đọng trên lá sen, không bị dính mắc.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì lửa dữ ở địa ngục A tỳ đều dập tắt, vì Bồ tát sắp diệt trừ lửa dữ ba độc phiền não của chúng sanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì người đói được no nê, vì Bồ tát đắc thân niệm tam muội.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì ngạ quỉ không còn đói khát nước, vì Bồ tát được nước giải thoát.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì có mây lớn trút mưa lớn vì Bồ tát sắp mưa đại pháp thấm nhuần chúng sanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh mặt trăng tỏa sáng dịu, vì khi Bồ tát thành Phật chúng sanh vui mừng chiêm ngưỡng.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì các vì sao mọc ban ngày, vì Bồ tát khi thành Phật làm cho đệ tử Thanh văn hiện ra nơi đời.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì ánh sáng mặt trời rực rỡ, vì Bồ tát đại Thanh văn đắc lục thông.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh cây có hoa đều trổ hoa, vì Bồ tát khiến cho đệ tử Thanh văn đắc hoa giải thoát.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì cây có trái đều kết trái. Vì Bồ tát khiến cho đệ tử Thanh văn đắc bốn quả Sa môn.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì cả đại thiên thế giới tỏa ra mùi thơm, vì Bồ tát được hương giới của Như Lai tỏa khắp thế gian.

Này Tỳ Xá Khư ! Khi Bồ tát sanh thì đi bảy bước, vì Bồ tát đắc bảy đạo Bồ đề.

Này Tỳ Xá Khư ! Sau khi Bồ tát đi thì có lọng trắng trên vì Bồ tát được bóng mát Niết bàn, Bồ tát đi rồi chỉ về phương Ðông, vì làm người dẫn đường cho các chúng sanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Bồ tát chỉ phương Nam vì làm ruộng phước lành cho chúng sanh.

Này Tỳ Xá Khư ! Bồ tát chỉ phương Tây vì đời này của Bồ tát đã tận, đây là thân cuối cùng.

Này Tỳ Xá Khư ! Chỉ về phương Bắc, vì với tất cả chúng sanh thì Bồ tát đã đắc Vô thượng Bồ đề.

Này Tỳ Xá Khư ! Chỉ phương dưới vì muốn phá tan binh ma để chúng thối lui.

Này Tỳ Xá Khư ! Chỉ phương trên vì làm chỗ qui y cho trời, người.

Này Tỳ Xá Khư ! Rống tiếng Sư tử vì là bậc tối thượng, tối tôn trong trời người tất cả chúng sanh không ai sánh bằng.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ :

Ðấng dẫn đường thế gian

Bậc đại thánh vô thượng

Khi sanh hiện điềm lành

Làm ruộng phước chúng sanh

Luân chuyển trong ba cõi

Ðây là thân cuối cùng

Như Lai tối đệ nhất

Trí tuệ trong thế gian

Ðã phá chúng binh ma

Ứng Cúng vang tiếng tốt

Thế gian chưa từng có

Làm chỗ tựa trời người

Khi Thế Tôn mới sanh

Hiện ba hai điềm lành

Tướng kỳ lạ vi diệu

Ðều hiện cùng một lúc

Bồ tát ra khỏi thai

Ðất chấn động sáu cách

Tự nhiên ánh sáng lớn 

Chiếu khắp cả mười phương

Chúng sanh rợn tóc gáy

Ðều nói với nhau rằng

Nguyện mau được thành Phật

Hãy mưa trận đại pháp

Tẩy trừ cấu phiền não

Ðể con được giải thoát

Nên nay con chí thành

Ðảnh lễ đấng Vô thượng.

Sau khi nói kệ này xong

Thế Tôn dạy Tỳ Xá Khư :

- Chư Phật Như Lai không thể nghĩ bàn, pháp Phật nói ra không thể nghĩ bàn, các thiện nam thiện nữ tin những gì Phật nói cũng không thể nghĩ bàn, được đắc quả báo cũng không thể nghĩ bàn, như mưa lớn thấm nhuần sung mãn cho tất cả người, phi nhơn... và các cây cỏ cũng được phát triển, mưa pháp của Như Lai cũng vậy, thấm nhuần tất cả vô lượng chúng sanh. Người đáng được độ sau khi nghe pháp này đều được đắc đạo quả. Nếu ai hưởng quả báo trong trời người theo sở nguyện mà được tùy ý, cho nên nay con hãy chuyển tâm thọ trì pháp này, làm cho bốn chúng đời vị lai đều được tu hành.

Khi Phật nói pháp này có sáu vạn trời người đắc pháp nhãn tịnh, các chư thiên khác và rồng, A tu la, Càn thát bà, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, phi nhơn đều phụng hành. Riêng Tỳ Xá Khư Mẫu đắc pháp nhãn tịnh. Ngàn năm trăm người quyến thuộc thì đối với Phật, Pháp, Tăng có lòng tin kiên cố không thối chuyển. Tất cả đều hoan hỉ làm lễ Phật rồi lui ra. 

KINH ƯU BÀ DI TỊNH HẠNH PHÁP MÔN

- Quyển hạ - hết.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32581)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12572)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10585)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9117)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12614)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11939)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14854)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20532)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant