Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Nụ Cười Di Lặc Xứ Cờ Hoa

29 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 12538)
Tìm Nụ Cười Di Lặc Xứ Cờ Hoa


Tìm Nụ Cười Di Lặc Xứ Cờ Hoa

Trần Kiêm Đoàn

phat_di_lacNhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu…” Hiếm gặp người ta mở miệng cười!

Lời than của phái tiêu dao Trung Hoa thời đó lẽ ra phải xuất hiện thời nay và đặc biệt ở châu Mỹ này mới phải.

Người Mỹ lập quốc sau những trận thư hùng cát chạy, đá bay với người da đỏ. Lập nên nước Mỹ rồi chọn con chim Ó (bald eagle), mắt trừng mỏ quặm làm quốc điểu. Chọn cây Sồi (oak) cành lá lúc nào cũng có vẻ cằn cỗi, quăn queo, khô quắt làm quốc mộc. Khi ánh sáng đến từ chân trời xa xa trước mắt không vui tươi an lạc thì làm sao cái bóng thực tại hứa hẹn một nụ cười tươi.

Phải chăng vì tự trong thâm sâu của dòng sống, người Mỹ – một tổng hợp của đủ mọi chủng tộc trên thế giới – có chung một nghiệp lực là không thỏa hiệp với hoàn cảnh xuất thân nên phải cất công vượt biển, băng rừng để tìm một suối nguồn hạnh phúc khác lạ, mới mẻ hơn nơi miền Tân Thế Giới?! Bản chất của sự tìm tòi thường mang sẵn hạt giống không thỏa mãn. Bởi vậy, xã hội Hoa Kỳ được xem là có nhiều tiền bạc và của cải hàng đầu thế giới, nhưng cũng là một xã hội làm việc tất bật, mãi mê tìm kiếm một nếp sống hạnh phúc mà có thể suốt đời chỉ thấy treo xa tắp ở cuối đường hầm mơ ước.

Suốt hơn 300 năm lịch sử, có không ít người Mỹ, nhất là người Mỹ cao niên trong thế kỷ này, thường biểu hiện một điệu sống cô đơnnghèo khó – có tiền đấy ắp ở các trương mục ngân hàng mà vẫn cứ nghèo xác rác, xơ rơ! Lắm khi người có nhiều tiền lại sống nghèo nàn; trong khi người không tiền lại sống đời giàu có. Con người có bom nguyên tử trong tay nhưng lại yếu đuối vô cùng vì càng làm chủ vật chất con người càng dễ biến thành nạn nhân của sự mất mát; càng làm chủ bom nguyên tử, con người càng cảm thấy thân phận bọt bèo của mình gắn với cái chết và sự hủy diệt hơn bao giờ hết.

Người ta chỉ cảm thấy mạnh mẽ và bớt cô đơn khi đang sống thật sự sung sướng; đùa vui thưởng thức cuộc sống đó bằng chất liệu tuyệt vờivô giá của đất trời. Sáng mai, say sưa nhìn một tia nắng đẹp như nhấp chén trà thơm; ban trưa nghỉ một chút an lành như tới miền lạc thú; buổi tối sống hòa ái với đêm về như nghe lời hát ngọt ngào của tạo vật…là những điều kiện “ắt có” để sống đời đại phú!

Chất lượng và niềm vui trong cuộc sống là thước đo ý nghĩa của cuộc đời. Alan Watts trong Become what you are (Hãy trở thành chính bạn) cho rằng: hình ảnh của một người- nghèo- nhiều- tiền là không cảm thấy thoải mái hòa điệu hoàn toàn với con ngườicuộc đời chung quanh. Họ nghèo bè bạn vì thích làm ông chủ tuyệt đối, không dễ dàng chấp nhận sự khác biệt và đối thoại. Cho nên thà làm bạn với chó, mèo, chim, chuột….ngoan ngoãn – những đối thế không nói cùng ngôn ngữ với họ để tránh tranh biện lôi thôi – vẫn còn thú vị hơn sống cạnh tha nhân để phải bực mình tranh cãi chuyện thời thế, chính trị, tôn giáo với những đầu óc bảo thủ, vọng ngữcực đoan chung quanh. Đồng thời kẻ nhiều tiền mà vẫn nghèo xơ rơ đó chỉ muốn dính mắc vào ngôi vị chủ tể, mà chẳng bao giờ biết buông xả. Họ có khuynh hướng ở ẩn để làm kẻ “tuẩn đạo” một mình trong lâu đài vật chất và tâm tư đầy trói buộc của chính họ.

Xã hội phương Tây mỗi ngày một giàu có, nhưng niềm vui trong cuộc sống mỗi ngày một nghèo. Căn nhà trị giá hàng triệu đô la trên đồi lại trở thành nhỏ hẹp và khó khăn hơn để ngửa lòng đón bạn như căn nhà nhỏ thuê mướn ngày xưa. Chiếc xe lộng lẫy mua hàng trăm nghìn đô la lại đóng cửa chặt hơn và rất ít khi sẵn sàng đón bạn trên đường như chiếc xe cũ kỹ của những năm về trước.

Cách mạng khoa học kỹ thuật của thế kỷ XX giúp con người lên vũ trụ và nối kết những vùng đất xa xăm của địa cầu thành một ngôi làng nhỏ; nhưng cũng dựng nên tâm lý lấn lướt chiếm hữu, lấy thịt đè người với biểu tượng “văn hóa Football”. Càng xông xáo vào cuộc bon chen, tâm hồn con người càng trở nên lạnh lùng sắt đá, cạnh tranh quyết liệt, nên ngày càng thiếu vắng và hiu hắt những nụ cười.

Sự nóng bỏng đầy dương tính của văn hóa phương Tây bỗng dịu lại khi tiếp xúc với nền văn hóa tĩnh lặng và trầm tư của phương Đông; nhất là nền văn hóa Phật giáo.

Khi con người trong xã hội kỹ nghệ Âu Mỹ mang tâm lý bão nổi và trở nên khủng hoảng, họ sẽ cảm thấy yếu đuối và tha thiết cần một chỗ dựa. Nhưng biết dựa vào ai? Tôn giáo truyền thống dạy cho họ đức tin vào Thượng đế toàn năng quá mênh mông và cao viên. Triết học duy lý truyền thống dạy và hiện sinh về sau lại gieo tâm lý hoài nghi chính mình và tha nhân vì mình là người xa lạ với chính mình (Camus) và tha nhânđịa ngục (Satre). Đạo Phật đến mang theo một luồng gió mới. Đó là tư tưởng giải phóng thần quyền. Đạo Phật vực con người đứng dậy trên chính 2 chân của mình để đẩy lùi bóng tối mênh mông của tâm thức ỷ lại. Đạo Phật dạy con người từ bỏ sự dính mắc và sự tôn sùng thế giới vật chất chung quanh đang trói buộc kiếp người.

Và quan trọng nhất là đạo Phật đã đem đến cho xã hội Âu Mỹ nụ cười – nụ cười Di Lặc không phê phán khen chê – mà con người trong một xã hội nóng bỏng cạnh tranh đang khao khát. Biểu tượng cho hạnh phúcan lạc là nụ cười của Phật Di lặc mà người Mỹ gọi một cách đầy tính dân gian gần gũi là ông Phật Vui Sướng, ông Phật Hạnh Phúc (Happy Buddha) hay ông Phật Cười (Laughing Buddha). Ông Phật là tánh mà nụ cười là tướng. Tánh Phật là Vui mà tướng Phật là Cười. Kể từ sau cuộc chiến tranh Việt Nam, kỷ nghệ “Ông Phật Cười” ở Hoa Kỳ nở rộ. Đấy là sự xuất hiện tượng đài, tranh vẽ, sách báo, mạng lưới truyền thông đủ loại hình ảnh của ông Phật Cười, Ông Phật Vui Sướng, Ông Phật Hạnh Phúc…Nét cười có khi chỉ là một tượng Phật Di Lặc nhỏ bằng ngón tay treo lủng lẳng trong xe cho đến những bức tượng to lớn đặt bên cạnh các thác nước của các hòn non bộ. Mở đầu thiên niên kỷ XXI “Y2K”, trong nghệ thuật trang trí nhà cửa, tượng Phật Thích Ca ngồi tham thiền, nhập định như biểu tượng cho một sự tĩnh lặng an lạc đặt ở vườn sau và tượng Phật Di lặc cười biểu tượng cho vui sướng hạnh phúc đặt ở vườn trước trở thành một cái “mốt” mang tính hài hòa giữa nhân sinh và triết lý; một triết lý sống cứu khổ ban vui để tìm về với chính mình đang bị lãng quên.

Tác giả 18 cuốn sách thuộc hàng “Best seller” và được tạp chí thời danh Forbes liệt vào một trong 50 nhà tư tưởng lớn nhất toàn cầu về lãnh vực thương mãi trong thế kỷ này, đó là tiến sĩ Marshall Goldsmith. Ông này đã theo Phật giáo suốt 30 năm qua. Ông dựng những trung tâm Thiền học ở Mỹ và nhiếu quốc gia lân cận. Trong rừng thiền tu tập hàng ngày của Phật giáo, anh Mỹ trắng Marshall mang tâm trạng giải thoát này luôn luôn hớn hở nói rằng, mọi hành giả đang cất bước đi tìm hạnh phúc chỉ cần nhớ và thực hành 3 chữ, 3 chữ mà thôi nhé: “Be Happy Now” (Hỷ lạc hiện tiền – Vui lên nào) là đủ.

Goldsmith nói rằng ông đến với Phật giáo vì bị chinh phục bởi tinh thần hỷ xả, cuốn hút bởi nụ cười Di Lặc, và cảm nhận được nguồn hạnh phúckinh nghiệm thực tiễn cho biết rằng, mọi rắc rối của thương trường rồi cũng giản đơn và an tịnh sau ngưỡng cửa Thiền môn.

Giới chuyên gia và trí thức Mỹ tìm đến đạo Phật bằng đôi hài 7 dặm của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Họ không tìm đến đạo Phật bằng hình thức thờ cúng lễ bái, mà tìm đến với đầu óc, tinh thần học thuật. So với lịch sử Phật giáo phương Đông, đa số người Âu Mỹ đến với đạo Phật quá muộn màng sau một quá trình dài liên tục thâu nhập và đào thải những hệ thống lý thuyết tâm linh, những triết lý tâm vật trùng trùng, những tín điều chân tín và mê tín từ thời thái cổ đến thế kỷ XX. Họ đến muộn nhưng bằng những bước đi vững chãi của phương pháp luận khoa học ứng dụng. Điển hình như ngành y khoa tâm lý trị liệu (Psychotherapy), những chuyên viên y khoa tâm lý trị liệu Mỹ đã “tập đại thành” ý nghĩa nụ cười Di Lặc thành một tài liệu giáo khoa y khoa dưới tiêu đềHappy`s Buddha hoslistic counseling manual for people of the Western world” (Cẩm nang tâm lý trị liệu theo phương pháp Phật Di Lặc dành cho thế giới phương Tây). Mở đầu tài liệu này là một câu xác định đầy hấp dẫn:

Tại sao Ông Phật lại vui sướng nhỉ?!”

“Vì chẳng giống như người thường – những kẻ chưa giác ngộ (unlightened person) - chỉ hiểu mọi điều qua đầu óc phân tích và lý luận chật chội của riêng mình, ông Phật (Bậc Giác Ngộ – “Enlightened one” thấy bằng trí tuệ toàn giác. Đấy là sự mở toang mọi cánh cửa phân tích, lý luận, trực giác, siêu hình…để tiến thẳng vào thật tánhthật tướng của vạn pháp chơn thường rỗng lặng, giản đơn không còn biên giới phân chia sướng khổ, vui buồn, yêu ghét nên ông Phật cười! Đấy là nụ cười của Bậc Giác Ngộ đã hiểu rõ hết chân tướng của vạn vật, vạn sự; hiểu được ngọn nguồn gây khổ đau và con đường đoạn diệt phiền muộn khổ đau. Ta và người đều hiện ra chân tướng không che giấu, thấy nhau và biết nhau trong mối tương quan không có chỗ ẩn nấp cho ta và cả cho người. Vì vậy, chủ thể và đối thể đã hòa quyện với nhau trong toàn vũ trụ này. Cái tiểu ngã hòa mình vào cái đại ngã khiến tâm không phân biệt. Tất cả là hòa ái, tất cả là niềm vui, tất cả là nụ cười hỷ xả”.

Bên tách trà xuân đầy đạo vị, nhớ làm chi chuyện cũ đã qua; băn khoăn làm chi chuyện đời chưa tới. Đổi cả không gian vô biênthời gian vô tận để lấy một nụ cười. Quên hết! chỉ nhớ trong một thoáng và một thoáng là thiên thu, cái triết lý cao viễn nhất chỉ có 3 chữ: Vui lên nào! Be happy now! Hỷ lạc hiện tiền! Đấy là bờ giác bên kia, là trái tim Bát nhã, là nụ cười Di Lặc…đang có trong ta, sao ta cứ chạy quanh hoài, mải miết đi tìm nơi đâu cho mệt?!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 97)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 109)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 210)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 227)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 263)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 243)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 262)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 345)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 309)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 306)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 289)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 321)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 321)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 262)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 209)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 248)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 265)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 355)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 431)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 423)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 405)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 417)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 687)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 640)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 928)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 511)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 755)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 577)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 566)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 459)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 578)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 545)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 730)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 519)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 900)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 645)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 638)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1066)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 744)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 635)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 940)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 597)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 722)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 697)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 675)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 697)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 687)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 586)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 766)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant